Nhà nước không dân và nền nghệ thuật không con người (Phạm Đình Trọng)
Coi văn hóa, coi nhà thơ, nhà văn, nhạc
sĩ chỉ là công cụ, nhà nước đó không coi văn nghệ sĩ là những con người,
lại càng không khi nào nhìn nhận con người sáng tạo ở họ. Và nhà thơ,
nhà văn, nhạc sĩ lại vô cùng sung sướng, vênh váo, hãnh diện được làm
công cụ của quyền lực thì đó là một nền nghệ thuật không có con người
đích thực, không có con người tự do, con người sáng tạo! Chỉ có con
người công cụ!
Những người lên báo giấy, báo
hình cãi chày cãi cối về vụ cấm đoán nhạc phẩm Con Đường Xưa Em Đi mấy
ngày qua cũng chỉ là những dư luận viên đó mà thôi. Những người được coi
là nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ mà biến mình thành dư luận viên thì tự họ
đã hạ thấp tư cách văn hóa, hạ thấp tư cách nghệ sĩ của họ rồi, họ đã tự
bác bỏ tư cách con người trung thực, con người lương thiện của họ rồi.
1. Kiên trì theo đuổi một học thuyết sai
trái, phản dân tộc, phản tiến bộ, nhà nước cộng sản Việt Nam không thu
hút, không tập hợp được người có tài năng và nhân cách. Chốn quan trường
ngày càng thưa vắng người tử tế, nhường chỗ cho những kẻ bất tài, thiếu
nhân cách. Đó là những con ông cháu cha nòi cộng sản và những kẻ vô lại
chạy chức chạy quyền mà thành quan.
Con ông cháu cha nòi khoa bảng, học được
chữ thánh hiền, biết giữ đạo làm người, biết bổn phận làm quan, lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, dân còn được nhờ. Con ông cháu cha nòi
cộng sản chỉ biết kiên trì học thuyết sắt máu chuyên chính vô sản, coi
lẽ sống là làm cách mạng và chiến tranh giết dân lành, li tán dân tộc,
tàn phá tan hoang đất nước như lời thơ của ông nhà thơ cộng sản lão làng
Tố Hữu: “Giết! Giết nữa! Bàn tay không ngơi nghỉ / Cho ruộng đồng lúa
tốt, thuế mau xong / Cho Đảng bền lâu / Cùng rập bước chung lòng / Thờ
Mao Chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt!”. Chỉ có giết, giết dân nữa đảng
mới bền lâu. Loại con ông cháu cha nòi đảng đó là di họa nặng căn của
dân tộc vốn tồn tại bằng thương yêu, đùm bọc: Nhiễu điều phủ lấy giá
gương / Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Trong kỉ nguyên dân chủ, ngày nay thể
chế dân chủ đã có ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở đó, người dân làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ nhà nước. Bằng lá phiếu thực sự tự
do, người dân dựng lên nhà nước và người dân cũng phế truất khi nhà
nước có những việc làm khuất tất, trái ý dân. Người dân phát hiện, người
dân tiến cử, người dân bỏ phiếu đưa người hiền trong dân vào bộ máy nhà
nước và người dân sở hữu nhà nước như sở hữu quyền công dân của mình.
Đó là nhà nước của dân, nhà nước có dân.
Ít ỏi nhà nước độc tài đảng trị còn sót
lại trong kỉ nguyên dân chủ thì ngược lại, người dân không có bóng dáng
trong nhà nước, không có vai trò, không có quyền lực gì với nhà nước.
Nhà nước độc tài đảng trị chiếm đoạt quyền lực của dân, tự tung tự tác
chia nhau quyền lực của dân. Đó là nhà nước của đảng chứ không phải nhà
nước của dân. Nhà nước không dân, mảnh đất màu mỡ cho hạng giá áo túi
cơm, những kẻ bất tài, thiếu nhân cách vinh thân phì gia.
2. Hai biểu hiện của đám quan chức bất tài và thiếu nhân cách đó là:
Một. Có quyền lực trong tay, họ cố kết
với nhau thành những nhóm lợi ích đầy sức mạnh, biến nhà nước thành
những tổ chức mafia hắc ám chuyên đàn áp, ức hiếp, cướp bóc dân lành và
vơ vét, bòn rút của cải, tiền bạc ngân khố quốc gia, tài nguyên đất
nước.
Quan chức nắm sức mạnh quyền lực nhà
nước cấu kết với những kẻ có sức mạnh đồng tiền tạo ra những liên minh
ma quỉ rồi liên minh ma quỉ đó hối hả vẽ ra những dự án mang danh đô thị
hóa lộng lẫy nhưng thực chất là mưu đồ bẩn thỉu cướp đất riêng của dân,
cướp đất công của nước kinh doanh kiếm lợi riêng. Những dự án bẩn thỉu,
những cuộc thôn tính đất vàng đất bạc diễn ra ngang nhiên, tràn lan,
ngạo ngược, tàn bạo trên khắp đất nước, suốt mấy chục năm nay, càng ngày
càng ồ ạt, trắng trợn.
Quĩ đất dự trữ để mở rộng sân bay của
nhà nước thành sân golf, thành nhà hàng, biệt thự kinh doanh của tập
đoàn kinh tế tư nhân. Đẩy sân bay vào tình cảnh khốn quẫn, bế tắc, không
lối thoát, thường xuyên diễn ra nỗi đau lòng, máy bay đến, không có bãi
đáp phải bay lòng vòng trên trời chờ đợi, gây thiệt hại về kinh tế, gây
khiếp đảm kinh hoàng cho người đi máy bay, xua đuổi các hãng hàng không
quốc tế phải rời bỏ Việt Nam, chặn đứng sự phát triển của ngành hàng
không, một ngành kinh tế thời thượng của thời hội nhập quốc tế.
Thế lực mafia cướp đất mạnh và xảo trá
đến nỗi quyền lực Chính phủ cũng phải lắc đầu chịu thua không thể đòi
lại được hàng trăm hecta đất của chính mình bị cướp. Thế lực mafia cướp
đất mạnh và thâm độc đến nỗi điều được hàng ngàn cảnh sát dã chiến trang
bị công cụ đàn áp hiện đại đến tận răng dàn trận giáp chiến với dân
lành đầu trần, tay không, đánh hộc máu nhà báo đến đưa tin, đánh đuổi
dân đòi đất phải tan tác, giữ được đất cho kẻ cướp đất.
Những nhóm lợi ích Vinashin của Phạm
Thanh Bình, Vinalines của Dương Chí Dũng, PVC, Tổng công ty xây lắp dầu
khí của Trịnh Xuân Thanh đã phù phép biến hàng ngàn tỉ tiền ngân sách
quốc gia nghèo, hàng ngàn tỉ tiền thuế mồ hôi nước mắt của người dân đầu
tắt mặt tối thành tiền riêng trong túi của họ.
Hai. Dùng danh nghĩa, quyền lực nhà nước
để tư lợi, để vơ vét cho riêng họ thì họ thừa mưu mẹo, thừa ranh ma,
láu cá, lưu manh. Nhưng làm việc cho dân cho nước thì họ lòi ngay ra sự
dốt nát, không biết việc, không đủ tầm.
Chỉ điểm hai việc vừa làm của cơ quan văn hóa nhà nước cộng sản Việt Nam cũng thấy rõ điều đó
Việc thứ nhất. Bộ phim Kông – Đảo Đầu
Lâu, dù là phim được dàn dựng ở Việt Nam, có thiên nhiên kì thú Việt
Nam, dù là phim ăn khách, hốt bạc của Hollywood ở thời điểm hiện nay và
chỉ ở thời điểm hiện nay mà thôi, phải chỉ rõ như vậy vì mỗi thời điểm
Hollywood lại có một bộ phim gây sửng sốt cho cả người thờ ơ nhất với
điện ảnh, lôi cả người thờ ơ đó cũng phài đến rạp cinéma nộp tiền cho
Hollywood. Dù vậy Kông vẫn chỉ là phim giải trí của tư duy Mỹ, của tâm
hồn Mỹ.
Chỉ là phim ăn khách nhất thời của tư
duy Mỹ, tâm hồn Mỹ vậy mà lãnh đạo bộ Văn hóa nhà nước cộng sản Việt Nam
lại sốt sắng có ngay công văn đóng dấu quốc huy nhà nước đòi Hà Nội
phải dựng tượng Kông, con đười ươi khổng lồ của tư duy Mỹ, của tâm hồn
Mỹ ở nơi linh thiêng nhất của kinh kỳ Thăng Long – Hà Nội, nơi “lắng hồn
núi sông ngàn năm”, nơi Hồ Gươm lãng đãng sương khói huyền thoại.
Tư duy Mỹ là tư duy lí, tư duy cụ thể,
tư duy vật thể. Tâm hồn Mỹ hình tượng hóa sức mạnh thiên nhiên hoang dã
bằng những con vật khổng lồ, Kinh Kông, Khủng Long. Kông – Đảo Đầu Lâu,
Công Viên Kỉ Jura là sản phẩm của tâm hồn đó.
Tư duy Việt Nam là tư duy tình, tư duy
trừu tượng, tư duy huyền thoại, tâm linh. Tâm hồn Việt Nam hình tượng
hóa sức mạnh thiên nhiên bằng vị thần Thủy Tinh huyền ảo nhưng cũng rất
bình dị, đời thường. Con người huyền thoại của dân gian Việt Nam chỉ phi
thường ở hành động. Còn vóc dáng, hình hài vô cùng bình dị. Thánh Gióng
phi ngựa sắt phun lửa diệt giặc Ân như đốt cỏ khô cũng chỉ là một đứa
trẻ vừa rời nôi mẹ.
Với tư duy huyền thoại, mỗi dòng sông,
mỗi dãy núi, mỗi hồ nước mang trầm tích lịch sử Việt Nam đều có một vị
thần linh thiêng gắn liền với truyền thống văn hóa Việt, gắn liền với
lịch sử dựng lên nước Việt, gắn liền với tâm linh người Việt. Núi Nghĩa
Lĩnh ở đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng có vua Hùng của cội nguồn dân
tộc. Đỉnh Ba Vì có thần Tản Viên của hồn thiêng đất nước. Hồ Tây có thần
Kim Ngưu của nền văn minh lúa nước. Hồ Gươm có thần Kim Quy của trang
sử hiển hách chống giặc phương Bắc xâm lược.
Văn hóa của đất nước là sự thăng hoa của
tâm hồn dân tộc, là hồn cốt làm nên bản sắc riêng của một dân tộc, giúp
dân tộc đó tồn tại bền vững với thời gian, với lịch sử đầy biến cố dữ
dội và khắc nghiệt, giúp dân tộc đó không bị đồng hóa bởi những nền văn
hóa khác. Đứng đầu cơ quan văn hóa của đất nước có Vua Hùng, có thần Tản
Viên, có thần Kim Qui mà lăm le muốn đưa đười ươi King Kông khổng lồ,
sản phẩm của tâm hồn Mỹ, văn hóa Mỹ đến đứng sừng sững bên Hồ Gươm bảng
lảng sương khói huyền thoại của thần Kim Qui. Đặt quái vật Kinh Kông
lừng lững đổ bóng đè sập xuống bức tượng nhỏ bé bậc tiên hiền Lý Thái Tổ
khai sinh ra kinh thành Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội rạng rỡ. Ôi, nền
tảng tri thức văn hóa và tâm hồn Việt trong những ông quan văn hóa của
nhà nước cộng sản Việt Nam đó!
Việc thứ hai. Bài hát khi đã đến với
người hát, người nghe, đến với công chúng thì công chúng là người quyết
định sự tồn tại của bài hát. Bài hát có sức sống lâu dài với thời gian
hay chết yểu đều do công chúng, những người hát và người nghe quyết
định. Khi đó sự tồn tại của bài hát không còn phụ thuộc vào người sáng
tạo ra nó, lại càng không phụ thuộc vào cơ quan quyền lực cho phép hoặc
không cho phép nó tồn tại.
Chất lượng nghệ thuật mới là cái giấy
phép quyền uy nhất cho tác phẩm nghệ thuật đi vào cuộc sống. Tác phẩm
nghệ thuật của một thời và cái thời của nó đã qua, tác phẩm sẽ bị quên
lãng, không cần cấm đoán. Nhưng cái thời của tác phẩm đã qua mà tác phẩm
vẫn được những người thời sau chấp nhận là tác phẩm đã vượt được cái
thời hạn hẹp của nó để đến với mọi thời. Ca khúc Con Đường Xưa Em Đi của
hai nghệ sĩ Châu Kỳ và Hồ Đình Phương là tác phẩm âm nhạc như vậy.
Giai điệu của ca khúc Con Đường Xưa Em
Đi là một giai điệu đẹp, giai điệu dìu dặt của những trái tim đang thổn
thức yêu đương nhưng khắc khoải trong xa cách bởi chiến tranh: Chiến
trường anh bước đi / Có nàng hoen đôi mi, ngóng theo đường vắng hoe…
Giai điệu ngân nga trong trái tim nhiều thế hệ sống ở miền Nam đất nước
thời đất nước còn bị lưỡi gươm ý thức hệ chém đôi ở vĩ tuyến 17.
Chiến tranh đã qua. Đất nước không còn
chia cắt. Giai điệu Con Đường Xưa Em Đi không những vượt giới hạn thời
gian mà còn vượt giới hạn không gian, vượt vĩ tuyến 17, trở thành giai
điệu quen thuộc của nhiều người Việt Nam trên cả nước, vượt biên giới
quốc gia đến những nơi có người Việt sinh sống trên khắp thế giới. Dùng
quyền uy nhà nước và vay mượn, bịa đặt bất cứ lí do gì để cấm đoán Con
Đường Xưa Em Đi đều phơi bày nền tảng văn hóa thấp kém và sự đố kị, nhỏ
nhen, hẹp hòi của một cơ quan văn hóa cấp nhà nước. Và hiệu ứng tất yếu
phải đến là không những không cấm được bài hát lại làm cho bài hát bị
cấm nổi tiếng hơn, nhiều người biết đến hơn, giai điệu bài hát bỗng ngân
nga trong hồn nhiều người Việt Nam hơn.
Quen thói quyền uy cấm đoán thấp kém,
nhỏ nhen như vậy, dù danh xưng là cơ quan văn hóa cấp nhà nước nhưng
không xứng tầm cơ quan văn hóa của dân tộc Việt Nam mà chỉ là cơ quan
văn hóa của mấy người cộng sản cầm quyền vốn nhỏ nhen, đố kị, chỉ quen
sắt máu hận thù giai cấp, chuyên chính vô sản, nhìn nhận sản phẩm văn
hóa, sự thăng hoa của tâm hồn con người bằng ý thức hệ cực đoan méo mó,
bằng trận tuyến ta – địch lỗi thời. Chỉ có nhà nước không dân, không cần
biết đến dân mới cấm đoán giai điệu ngân nga trong tâm hồn người dân.
Nghệ sĩ đích thực sáng tạo ra giá trị
nghệ thuật chung của loài người. Nghệ sĩ Việt Nam sáng tạo ra giá trị
nghệ thuật chung của dân tộc Việt Nam. Lưu Hữu Phước là người cộng sản
và đang là yếu nhân trong nhà nước cộng sản ở miền Bắc. Vậy mà chính
quyền Sài Gòn, một chính thể đối kháng, không đội trời chung với cộng
sản vẫn lấy tác phẩm âm nhạc Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước làm
quốc ca của nhà nước Việt Nam Cộng Hòa ở nửa phía Nam đất nước. Một nhà
nước như vậy xứng đáng là một nhà nước văn hóa, nhà nước của cả dân tộc
Việt Nam.
Thời đất nước chia cắt Bắc – Nam, tác
phẩm nghệ thuật dù sáng tạo ở miền Bắc hay miền Nam đều là giá trị Văn
hóa của dân tộc Việt Nam, làm nên bộ mặt văn hóa của đất nước Việt Nam,
tạo nên giá trị thẩm mĩ của con người Việt Nam. Sau năm 1975, bằng bạo
lực súng đạn và nhà tù, nhà nước cộng sản Việt Nam đã giam cầm, tù đày
những người dân Việt Nam sống ở miền Nam không cùng ý thức hệ cộng sản,
gây nên sự chia rẽ, li tán sâu sắc dân tộc Việt Nam cho đến nay và còn
rất lâu về sau không thể hàn gắn, không thể hòa giải, hòa hợp dân tộc.
Hơn 40 năm đất nước không còn chia cắt, cơ quan văn hóa của nhà nước
cộng sản Việt Nam vẫn xét nét, cầm tù những tác phẩm nghệ thuật của miền
Nam thời đất nước chia cắt, khoét sâu thêm sự chia rẽ, li tán cả trong
nghệ sĩ Việt Nam, cả trong nghệ thuật Việt Nam.
Ngồi ghế cao của nước, hưởng lương hậu
của dân để chỉ làm những việc hại dân, hại nước như vậy. Đó là quan chức
của nhà nước cộng sản Việt Nam hôm nay.
3. Phần cuối.
Những người bị pháp luật buộc tội phải
nhờ luật sư có tiếng nói biện hộ, cãi cho thoát tội hoặc nhẹ tội. Đang
làm nhiều việc sai trái với lịch sử, với nhân dân, bị người dân hôm nay
và bị lịch sử ngày mai soi xét, nhà nước cộng sản Việt Nam hôm nay phải
tổ chức một lực lượng đông đảo dư luận viên biện hộ cho những việc làm
không thuận lòng dân, không xứng với lịch sử vàng son của dân tộc.
Có thể nhận ra lực lượng đông đảo dư luận viên có hai loại.
Dư luận viên cấp thấp, dư luận viên vô danh rải ra như lá rừng, cãi chày cãi cối trên các trang mạng xã hội lề dân.
Dư luận viên cấp cao, dư luận viên có
danh xuất hiện trên báo giấy, báo nói, báo hình lề đảng. Rất buồn là tôi
cũng có một ông bạn nhà văn là dư luận viên thường xuyên xuất hiện với
vẻ mặt rất mãn nguyện với lời văn rất điệu đàng trên báo giấy của đảng
và xuất hiện rất hùng hồn trên truyền hình nhà nước.
Những người lên báo giấy, báo hình cãi
chày cãi cối về vụ cấm đoán nhạc phẩm Con Đường Xưa Em Đi mấy ngày qua
cũng chỉ là những dư luận viên đó mà thôi. Những người được coi là nhà
thơ, nhà văn, nhạc sĩ mà biến mình thành dư luận viên thì tự họ đã hạ
thấp tư cách văn hóa, hạ thấp tư cách nghệ sĩ của họ rồi, họ đã tự bác
bỏ tư cách con người trung thực, con người lương thiện của họ rồi.
Nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ được nhà nước
cộng sản Việt Nam xài làm dư luận viên và họ đã trở thành những dư luận
viên hăng say, tận tụy, miệt mài thì nền văn học nghệ thuật đó làm sao
thoát khỏi thân phận minh họa!
Coi văn hóa, coi nhà thơ, nhà văn, nhạc
sĩ chỉ là công cụ, nhà nước đó không coi văn nghệ sĩ là những con người,
lại càng không khi nào nhìn nhận con người sáng tạo ở họ. Và nhà thơ,
nhà văn, nhạc sĩ lại vô cùng sung sướng, vênh váo, hãnh diện được làm
công cụ của quyền lực thì đó là một nền nghệ thuật không có con người
đích thực, không có con người tự do, con người sáng tạo! Chỉ có con
người công cụ!