Dự Án Chính Trị: Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (Chương 4)
Đồng
thuận căn bản của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên gồm năm điểm sau đây: đất nước phải
được quan niệm như một tình cảm, một không gian liên đới và một tương lai
chung; thể chế chính trị cho Việt Nam là dân chủ đa nguyên; tinh thần chỉ đạo của
cố gắng làm lại đất nước là hòa giải và hòa hợp dân tộc; tổ chức xã hội Việt
Nam phải thể hiện một cách thật quả quyết những giá trị tiến bộ; cố gắng phát
triển kinh tế phải đặt trên nền tảng kinh tế thị trường và sáng kiến cá nhân.
Thời đại của các chủ nghĩa và ý thức hệ
đã chấm dứt. Từ nay không còn những chân lý không thể đặt lại. Tuy vậy, một tập
hợp chính trị trong mỗi giai đoạn vẫn cần đồng thuận trên một số nhận định nền
tảng.
Giữa những thay đổi dồn dập đòi hỏi những
chính sách và biện pháp đa dạng và phức tạp để thích nghi với tình thế, mọi người
cần nắm vững những chọn lựa nền tảng, nghĩa là những gì không thay đổi và giải
thích cái tại sao của các biện pháp và chính sách. Đó là điều kiện để đất nước
không mất phương hướng và để người dân có thể hiểu và đóng góp một cách có ý thức
vào sinh hoạt quốc gia. Chúng ta là một dân tộc đông đảo và phải đương đầu với
rất nhiều vấn đề trầm trọng, gai góc và khẩn cấp, công việc của chúng ta chắc
chắn là rất phức tạp. Chính sự phức tạp đó đòi hỏi các tổ chức chính trị phải
minh định những chọn lựa có tính chủ thuyết, chủ thuyết được hiểu theo nghĩa
không phải là chủ nghĩa hay ý thức hệ, cũng không phải là những học thuyết với
cấu trúc lý luận phức tạp, mà là những ý kiến đơn giản được coi là đúng và được
lấy làm căn bản cho các chính sách và biện pháp trong một giai đoạn khá dài.
Đồng
thuận căn bản của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên gồm năm điểm sau đây: đất nước phải
được quan niệm như một tình cảm, một không gian liên đới và một tương lai
chung; thể chế chính trị cho Việt Nam là dân chủ đa nguyên; tinh thần chỉ đạo của
cố gắng làm lại đất nước là hòa giải và hòa hợp dân tộc; tổ chức xã hội Việt
Nam phải thể hiện một cách thật quả quyết những giá trị tiến bộ; cố gắng phát
triển kinh tế phải đặt trên nền tảng kinh tế thị trường và sáng kiến cá nhân.
1.
Quốc gia: một không gian liên đới và một dự án tương lai chung
Nước Việt Nam ta đã hình thành từ ngàn
xưa và đã có hơn hai ngàn năm lịch sử. Tuy vậy, cũng như mọi nước khác, chúng
ta mới chỉ biết đến khái niệm quốc gia, hiểu theo nghĩa một thực thể thuộc quyền
sở hữu của mọi người, gần đây thôi. Lý do là vì chính ý niệm quốc gia cũng là một
ý niệm rất mới, được khai sinh ra cùng với dân chủ.
Cho tới khi ý niệm dân chủ ra đời, các
vương quốc chỉ là của một nhà vua. Lãnh thổ cũng như người dân thuộc quyền sở hữu
của vua và bị đặt dưới quyền quyết định độc quyền và tuyệt đối của vua. Đất
cũng như dân có thể đổi chủ một cách tùy tiện theo sự chuyển nhượng giữa các
vua chúa. Trong bối cảnh đó không thể có
các quốc gia đúng nghĩa. Sự quyến luyến tự nhiên với mảnh đất của tổ tiên và những
người quen thuộc chưa phải là tinh thần dân tộc hay lòng yêu nước. Người dân
không có thẩm quyền nào trên đất nước thì cũng không có trách nhiệm nào đối với
đất nước. Ý thức dân chủ đã biến các vương quốc thành những quốc gia và đã là nền
tảng cho một nhà nước, hay chính quyền, của dân, do dân và vì dân.
Khác hẳn với các vương quốc đã dần dần
hình thành với thời gian, quốc gia là một thực thể bao gồm một lãnh thổ, một
chính quyền, một di sản văn hóa lịch sử và những con người bình quyền gắn bó với
lãnh thổ đó, chấp nhận chính quyền đó, chia sẻ di sản lịch sử và văn hóa đó và,
quan trọng hơn hết, chấp nhận xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung.
Quốc gia ở trên mọi người và là của chung mọi người.
Cùng với ý niệm quốc gia như là một thực
thể của chung mọi người nhưng cũng là của mỗi người đã xuất hiện một ý thức cộng
đồng theo đó mỗi người không thể hoàn toàn tự giải quyết lấy mọi vấn đề cá nhân
của mình, trái lại sự thành công hay thất bại của mỗi người còn tùy thuộc vào một
quốc gia mà mỗi người từ nay vừa có bổn phận vừa có quyền lợi lại vừa có thẩm
quyền đóng góp để bảo vệ và thăng tiến. Ý thức cộng đồng này đến lượt nó tạo ra
lòng yêu nước, một tình yêu đối với những người thân thuộc, đồng hành và cùng
phấn đấu với mình. Lòng yêu nước này không thể bị đồng hóa với tinh thần bài
ngoại của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
Nhà nước dân chủ, đặt nền tảng trên ý
niệm quốc gia, đã là tiến bộ vĩ đại nhất của loài người trong các thế kỷ 17 và 18. Những
nhà nước - quốc gia này vì được tổ chức để khuyến khích và đón nhận sự hưởng ứng
tự do và tự nguyện của mọi người đã giải tỏa sinh lực, ý kiến và sáng kiến của
toàn dân, đã thúc đẩy mọi tiến bộ khoa học, kỹ thuật, triết học, văn hóa và nghệ
thuật và đã khiến các nước phương Tây vượt xa hẳn phần còn lại của thế giới. Trong
chiều sâu, lý do chính đã khiến các nước phương Tây đột ngột gia tăng sức mạnh
là sự khám phá ra ý niệm quốc gia.
May mắn hơn nhiều dân tộc khác, người
Việt Nam có một truyền thống sống chung lâu dài và ổn vững do điều kiện địa lý đặc
biệt. Phần đất lâu đời của chúng ta, miền Bắc, được vách núi dầy đặc về phía Bắc
và phía Tây bao che trong khi phía Đông tựa lưng ra biển cả. Nhờ tình trạng biệt
lập đó mà biên giới cũng như cấu tạo nhân văn của ta đã không thay đổi bao
nhiêu trong nhiều thế kỷ. Do đó mà ý thức cộng đồng và sự quyến luyến với quê
cha đất tổ rất cao và đã có thể làm nền tảng cho một ý thức quốc gia và dân tộc
rất mạnh. Nhưng do sự thiếu hụt tư tưởng chính trị, chúng ta đã chỉ biết đến ý
niệm quốc gia, như là một thực thể của chung mọi người dân, một cách muộn màng.
Chúng ta chỉ biết đến ý niệm quốc gia vào lúc đang bị ngoại bang thống trị. Từ đó
đến nay chúng ta liên tiếp chịu đựng những cuộc chiến -phần lớn là nội chiến-
và những chế độ độc tài. Chúng ta chưa bao giờ có dân chủ, yếu tố nền tảng của
quốc gia và dân tộc, do đó chúng ta chưa xây dựng được một quốc gia đúng nghĩa
và cũng chưa vận dụng được sức mạnh thực sự của một dân tộc.
Nếu các nhà nước - quốc gia đã là
nguyên nhân tạo ra sức mạnh và sự phồn vinh của các nước Âu Mỹ thì sự thiếu vắng
của chúng cũng giải thích sự thua kém và những đau khổ của nhiều nước trong đó
có chúng ta.
Các nhà nước - quốc gia mạnh và có ích
lợi lớn vì chúng đã được quan niệm một cách đúng đắn. Quốc gia là của mọi người
và ở trên tất cả. Nhà nước, hay chính quyền, chỉ có sứ mệnh phục vụ quốc gia,
do đó phải ở trong và ở dưới quốc gia. Nhà nước không phải là cứu cánh mà chỉ
là công cụ và vì thế chỉ cần được tạo dựng và duy trì ở mức độ thực sự cần thiết.
Quốc gia mới là cứu cánh, mà quốc gia trước hết là tập thể những người công dân
tự do và bình đẳng.
Nhà nước không có quyền lợi của riêng
mình mà chỉ biết quyền lợi của quốc gia, trong khi quyền lợi của quốc gia do
toàn dân quy định sau một đúc kết đúng đắn những ý kiến cá nhân được bày tỏ một
cách tự do. Về cơ bản nhà nước - quốc gia là dụng cụ để thực hiện đồng thuận
xây dựng tương lai chung của những con người tự do. Chính vì thế mà nhà nước ấy
một mặt động viên được sự đóng góp của mọi người và, mặt khác, bảo đảm để mọi
người phát huy tối đa khả năng của mình và đóng góp tối đa vào phúc lợi chung.
Chúng ta, cũng như nhiều dân tộc không
may khác, đã thua kém bởi vì chúng ta không có được những nhà nước như thế. Ngược
lại, cho đến nay chúng ta đã chỉ có những nhà nước của riêng một tập đoàn cầm
quyền thay vì của mọi người. Những nhà nước đó có quyền lợi của riêng mình và
chỉ biết quyền lợi của riêng mình cho nên chỉ có ưu tư giữ lấy quyền lực của
mình bằng mọi giá ngay cả nếu phải gây những thiệt thòi lớn cho dân tộc. Đó là
những nhà nước khống chế thay vì phục vụ quốc gia, những nhà nước coi dân chúng
là đối tượng để kiểm soát và sử dụng thay vì là những đối tượng để bảo vệ và phục
vụ.
Chúng ta hiện đang đứng trước tình trạng
đặc biệt nghiêm trọng bởi vì chúng ta chưa xây dựng xong một quốc gia đúng
nghĩa trong khi ý niệm quốc gia đang bị xét lại và vượt qua. Như thế chúng ta vừa
phải nhanh chóng xây dựng một quốc gia đúng nghĩa lại vừa phải đúng hẹn với
tương lai, nghĩa là xây dựng kịp thời quốc gia Việt Nam theo nghĩa mà nó sẽ phải
có.
Do sự bùng nổ của các phương tiện giao
thông và truyền thông, đồng thời với những trao đổi dồn dập và sự bành trướng của
những tư tưởng mới, các yếu tố cấu tạo truyền thống của tinh thần quốc gia dân
tộc đã thay đổi trọng lượng tương đối.
Cảm giác yên tâm trong sự gần gũi, sự
lo sợ cái lạ và người lạ, liên hệ huyết thống, sự ràng buộc với lịch sử và văn
hóa cổ truyền, sự quyến luyến với mảnh đất quen thuộc, sự thoải mái trong việc
giao tiếp với những người cùng một tập quán và nếp sống, v.v. tất cả đều trở
thành không quan trọng và ngày càng không quan trọng trong một thế giới cho
phép sự trao đổi trực tiếp và tức khắc, kể cả làm việc chung, giữa những con
người ở hai đầu trái đất và trong đó con người di chuyển và tiếp xúc thường
xuyên, thu nhận hàng ngày đủ loại thông tin, hình ảnh và ý kiến. Quả đất đã là
quê hương bé nhỏ chung của cả loài người và hạnh phúc cá nhân đã trở thành giá
trị cao nhất. Những tình cảm truyền thống đã đóng góp tạo ra tinh thần quốc gia
dân tộc ngày càng bộc lộ tính thủ cựu và hạn hẹp của chúng.
Mặt khác vai trò và chỗ đứng của quốc
gia cũng bị công phá từ mọi phía. Từ bên ngoài, với những kết hợp khu vực tạo
ra một không gian hoạt động lớn hơn, từ bên trong do những đòi hỏi của các cá
nhân và các cộng đồng sắc tộc, và từ cả trong lẫn ngoài do sự bành trướng nhanh
chóng của các công ty đa quốc mà vai trò và trọng lượng ngày càng gia tăng.
Trong bối cảnh đó, những lý do ràng buộc
con người với đất nước dĩ nhiên phải thay đổi và trên thực tế đã thay đổi. Con
người chỉ còn ràng buộc với đất nước vì ít nhất một trong ba lý do: vì đất nước
bảo đảm cho mình những che chở và quyền lợi đặc biệt, vì đất nước đem lại cho
mình một nguồn hãnh diện hay, một cách giản dị, vì đất nước là của mình.
Trong các yếu tố cấu tạo ra quốc gia,
lãnh thổ không còn giá trị tuyệt đối, con người có thể yêu nước và đóng góp cho
đất nước dù sống ở bất cứ nơi nào. Di sản lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ cũng đã
giảm tầm quan trọng. Chính quyền cũng không quan trọng. Quan niệm một tổ quốc
thiêng liêng mà mọi người phải phục tùng, tôn kính và phục vụ một cách không điều
kiện lại càng lỗi thời. Còn lại những con người và dự án tương lai chung, hai yếu
tố cấu tạo của quốc gia mà tầm quan trọng ngày càng tăng lên.
Như thế, một quốc gia chỉ có thể tồn tại
nếu được quan niệm không phải như một chủng tộc hay một quá khứ mà như một
không gian liên đới giữa những con người hiểu nhau, quý trọng nhau và hợp tác với
nhau để xây dựng và chia sẻ một tương lai chung. Quốc gia như thế chủ yếu là xã
hội dân sự với ký ức của nó, với những vấn đề phải giải quyết của nó và với những
dự định tương lai của nó. Nhà nước ở
trong và ở dưới quốc gia với sứ mạng phục vụ quốc gia cho nên nhà nước có vai
trò phục vụ chứ không khống chế xã hội dân sự.
Một đất nước được hiểu như thế vẫn còn
khả năng để ràng buộc người Việt Nam với nhau và vẫn rất cần thiết cho mọi người,
đồng thời cũng là môi trường thuận lợi cho những hợp tác. Đất nước ấy sẽ có lợi
cho mọi người bởi vì đó sẽ là môi trường phát triển tự nhiên cho mỗi người. Đất
nước ấy sẽ là nguồn yểm trợ để mọi người chúng ta xây dựng đời mình đồng thời
cùng nhau xây dựng một niềm tự hào chung và gia tăng phúc lợi chung. Đất nước ấy
cũng sẽ là một chỗ dựa tình cảm cho mỗi người để hạnh phúc được toàn vẹn. Đất
nước ấy phải là của mọi người chứ không phải là của riêng của một thế lực hay đảng
phái nào.
Đó là
quan điểm của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên về đất nước Việt Nam. Niềm tin của Tập
Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là chỉ có một quan niệm về quốc gia như vậy mới có thể đem
lại cho mọi người Việt Nam lý do để yêu nước và chung sức dựng nước, nghĩa là mới
cho phép Việt Nam tồn tại và vươn lên.
2.
Dân chủ đa nguyên
Để thoát khỏi bế tắc hiện nay và hội
nhập vào thế giới tiến bộ, để có thể động viên một cách hữu hiệu mọi sinh lực
quốc gia vào cố gắng vươn lên mưu tìm một chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng quốc
tế, Việt Nam không có chọn lựa chính trị nào khác hơn là một thể chế dân chủ đa
nguyên.
Dân chủ đa nguyên không những là chọn
lựa hiển nhiên cho Việt Nam mà còn là hướng đi tất yếu của thế giới.
Cuộc tranh cãi gay go nhất trong thế kỷ
hai mươi đã là cuộc tranh cãi về dân chủ. Hàng chục triệu người trên khắp thế
giới đã thiệt mạng vì những xung đột gây ra bởi cuộc tranh cãi này. Vấn đề cốt
lõi là làm thế nào để người dân quyết định vận mệnh đất nước, và nhiều công thức
đã được đề ra và thử nghiệm.
Cuộc tranh cãi này hiện nay đã chấm dứt.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và mô hình "dân chủ xã hội chủ nghĩa" mà nó đề xướng
đã hoàn toàn sụp đổ. Các chế độ cộng sản còn lại chỉ còn là những chế độ độc
tài bạo ngược thuần túy. Mô hình dân chủ đặt nền tảng trên tự do cá nhân đã thắng
về mặt lý thuyết và cũng đã thắng trên thực tế. Số lượng các nước dân chủ đã áp
đảo và đang gia tăng nhanh chóng.
Nhiều người nói nền dân chủ kiểu
phương Tây, mà hầu hết các dân tộc trên thế giới đã chấp nhận là đúng, tự nhiên
đã có đa nguyên. Điều này có phần đúng, nhưng cụm từ "dân chủ đa
nguyên" có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của nó, nhất là đối với người Việt
Nam trong giai đoạn hiện tại. Nó nói lên một tinh thần, một thái độ và một lý
tưởng. Tinh thần đó là tinh thần bao dung và khoan nhượng, tôn trọng mọi người
và mọi ý kiến. Thái độ đó là thái độ bác bỏ thẳng thắn mọi hình thức độc tài
chuyên chính, kể cả, và nhất là, thứ "dân chủ" bịp bợm mệnh danh là
"dân chủ tập trung" hay "dân chủ xã hội chủ nghĩa" dành địa
vị độc tôn cho một chủ nghĩa và một tập đoàn lãnh đạo. Lý tưởng đó là lý tưởng
xây dựng đất nước Việt Nam có chỗ đứng xứng đáng và ngang nhau cho tất cả mọi
người.
Đa đảng chưa phải là đa nguyên nếu mọi
khuynh hướng không được nhìn nhận một chỗ đứng ngang nhau. Trong những ngày độc
đoán và giáo điều nhất của nó, chế độ cộng sản Việt Nam có lúc cũng đã có ba hoặc
bốn đảng, nhưng không phải vì thế mà nó đã có đa nguyên. Đa đảng chỉ là yếu tố
cần, nhưng chưa đủ, của đa nguyên. Đa nguyên là một tinh thần, trong khi đa đảng
chỉ là một con số.
Trong cuộc tranh hùng với phong trào cộng
sản, các nước phương Tây đã lấy một quyết định vô cùng táo bạo là thay vì co cụm
lại trong một kỷ luật tự vệ xơ cứng lại phát triển tối đa nền dân chủ của họ,
mà nét đậm nhất là sự tôn trọng mọi khác biệt trong xã hội, và họ dần dần tiến
tới dân chủ đa nguyên. Tuy vậy nhiều thể chế tư bản phương Tây chưa phải là những
nền dân chủ đa nguyên đúng nghĩa. Các nước phương Tây ở vào những mức độ đa
nguyên khác nhau.
Dân chủ đa nguyên là sự hội nhập và ứng
dụng triết lý đa nguyên vào đời sống chính trị. Căn bản của triết lý đa nguyên
là tinh thần bao dung, là sự nhìn nhận và tôn trọng mọi khác biệt trong xã hội.
Dĩ nhiên tính đa nguyên có trong mọi xã hội và nếu muốn ngụy biện thì xã hội
nào cũng đa nguyên cả, nhưng điều độc đáo là triết lý đa nguyên thay vì coi sự
hiện diện của những thành tố khác biệt như một thực tại phải nhìn nhận và khắc
phục, lại coi như một lẽ tự nhiên, một sự phong phú cần được khuyến khích và
khai thác. Đó là một phong cách sinh hoạt chính trị. Dân chủ đa nguyên là dân
chủ nhưng không phải dân chủ nào cũng là dân chủ đa nguyên.
Dân chủ đa nguyên là một hệ thống
chính trị mới với những đặc tính bắt buộc của nó. Ta có thể nhấn mạnh năm đặc
tính:
Một
là: dân chủ đa nguyên nhìn nhận và tôn trọng chỗ đứng và
tiếng nói ngang nhau cho mọi người thuộc mọi thành phần xã hội, mọi sắc tộc, mọi
tín ngưỡng và mọi khuynh hướng chính trị. Dân chủ đa nguyên lên án mọi phân biệt
đối xử, nó chống đối quyết liệt chế độ độc đảng. Một cách cụ thể bản hiến pháp
của một thể chế dân chủ đa nguyên không thể chứa đựng bất cứ một quy chiếu nào
về một chính đảng, một chủ nghĩa hay một tôn giáo.
Hai
là: ngoài nguyên tắc phân quyền phải có trong mọi nền dân
chủ xứng đáng với tên gọi của nó, dân chủ đa nguyên đòi hỏi tản quyền để tôn trọng
sự khác biệt giữa các địa phương. Một chính quyền dù xuất phát từ bầu cử tự do đi
nữa cũng không phải là dân chủ đa nguyên nếu phần lớn quyền hành tập trung
trong tay chính quyền trung ương. Trong một thể chế dân chủ đa nguyên các chính
quyền địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, phải có những quyền luật định
rộng rãi để tổ chức cuộc sống phù hợp với bối cảnh riêng của mỗi vùng. Mỗi vùng
phải có diện tích và dân số ở mức độ thỏa đáng để có thể là những thực thể đủ tầm
vóc để tự quản được và phát triển được. Như thế một số nguyên nhân xung đột sẽ
tự nhiên được giải tỏa. Các sắc tộc ít người sẽ có được tiếng nói đáng kể tại
các địa phương mà họ tập trung đông đảo. Các chính đảng không có được đa số
trong các cuộc bầu cử toàn quốc vẫn có thể nắm được chính quyền tại những địa
phương nơi họ được tín nhiệm. Dân chủ đa nguyên làm nhẹ đi mối căng thẳng chính
quyền - đối lập, ở cấp trung ương cũng như cấp địa phương, và xóa bỏ mối xung
khắc "được làm vua thua làm giặc". Tản quyền đưa tới hệ luận là chính
quyền trung ương không cai trị trực tiếp mà chỉ đảm nhiệm các sứ mạng quốc
phòng, ngoại giao, tiền tệ và điều hợp các địa phương. Một vai trò khác của
chính quyền trung ương là thực hiện các công trình cơ sở hạ tầng trên quy mô cả
nước và trợ giúp các chương trình địa phương đáng khuyến khích.
Ba
là: dân chủ đa nguyên đặt nền tảng trên xã hội dân sự. Bên cạnh các chính đảng,
các cộng đồng sắc tộc, địa phương và tôn giáo, các hiệp hội công dân tổ chức
theo ngành nghề, quyền lợi, nhân sinh quan, sở nguyện, ưu tư, v.v. được hoạt động
độc lập với chính quyền, được nhìn nhận một chỗ đứng trọng yếu, được có tiếng
nói và ảnh hưởng trong sinh hoạt cũng như trong sự tiến hóa của xã hội. Nhà nước tự coi mình là có sứ mạng phục vụ xã
hội dân sự chứ không khống chế xã hội dân sự, không định đoạt sinh hoạt thường
ngày thay cho xã hội dân sự. Về mặt kinh tế, điều này có nghĩa là nền kinh tế
quốc gia phải đặt nền tảng trên các xí nghiệp tư, khu vực quốc doanh phải được
giới hạn ở mức tối thiểu và nếu không có thì càng hay. Một xã hội dân sự mạnh
và đa dạng là bảo đảm nhất chắc chắn cho sự chuyển hóa thường trực, tự nhiên và
liên tục của xã hội, tránh những xáo trộn đột ngột và đầy đổ vỡ của các cuộc
cách mạng.
Bốn
là: dân chủ đa nguyên kính trọng các thiểu số và luôn luôn mưu tìm thỏa hiệp.
Trong một thể chế dân chủ đa nguyên, nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số không được
sử dụng một cách tự động và máy móc mà chỉ được dùng tới sau khi đã tận dụng mọi
cố gắng để tìm đồng thuận. Dân chủ đa nguyên chống lại mọi hình thức chuyên
chính, kể cả chuyên chính của đa số. Bình thường trong một thể chế dân chủ sự
chính đáng của một chính quyền dựa trên kết quả của cuộc bầu cử cuối cùng,
nhưng trong dân chủ đa nguyên sự chính đáng của một chính quyền còn nằm cả
trong sự thành khẩn tìm đồng thuận trong mọi quyết định quan trọng.
Năm
là: dân chủ đa nguyên trong bản chất của nó tôn trọng mọi thành phần dân tộc,
không chấp nhận hy sinh một thành phần nào và không thể cho phép một thành phần
này bóc lột và chà đạp một thành phần khác. Vì thế dân chủ đa nguyên coi rất trọng
liên đới xã hội và không thể đi đôi với cái thường được gọi là "tư bản rừng
rú". Liên đới xã hội cũng là điều kiện phải có để nuôi dưỡng và tăng cường
tinh thần quốc gia bởi vì giữa những người có mức sống, nếp sống, quan tâm và địa
vị xã hội quá khác biệt tình đồng bào cùng lắm chỉ là lý thuyết.
Công bằng xã hội tuyệt đối hiểu theo
nghĩa xóa bỏ mọi chênh lệch, cào bằng, chia đều là điều không thể có và cũng
không nên có. Điều có thể có và phải có là một chính sách liên đới xã hội bảo đảm
cho mọi người sự bình đẳng trước pháp luật và khả năng thành công đồng đều, đồng
thời nâng đỡ những người yếu kém hoặc thiếu may mắn.
Trong một thể chế dân chủ đa nguyên,
nhà nước không còn là người chỉ huy tuyệt đối. Vai trò của nhà nước là đảm nhiệm
ba chức năng: trọng tài trong các quan hệ giữa các thành tố của xã hội, chế tài
những vi phạm, và hòa giải những đòi hỏi mâu thuẫn của các thành phần dân tộc. Nhà
nước hòa giải thay vì nhà nước chỉ huy là nét đậm của dân chủ đa nguyên. Nó
phân biệt hẳn dân chủ đa nguyên với các chế độ chuyên chính, nhưng nó cũng khiến
dân chủ đa nguyên khác với nhiều chế độ dân chủ trong đó chính quyền vẫn còn
tham vọng định đoạt thay cho xã hội dân sự.
Với sự tôn trọng mọi khác biệt, với
vai trò nền tảng của xã hội dân sự gồm vô số các cộng đồng, hiệp hội công dân
và các xí nghiệp, với tổ chức chính trị tản quyền, xã hội đa nguyên là sự kết hợp
vô cùng phức tạp của vô số liên hệ đan xen. Một xã hội phức tạp như vậy chỉ có
thể tồn tại được với những luật lệ rõ ràng, minh bạch và được áp dụng triệt để.
Nhà nước trong một thể chế dân chủ đa nguyên chỉ có thể là một nhà nước pháp trị. Nhà nước văn minh nào cũng phải là một
nhà nước pháp trị nhưng nhà nước dân chủ đa nguyên phải là một nhà nước pháp trị
toàn vẹn. Và muốn pháp luật được tôn trọng thì nó phải đúng, nghĩa là được lập
ra bởi những đại diện thực sự do dân bầu ra và chỉ nhắm phục vụ quyền lợi
chung; cứu cánh của nó là quy định sự thể hiện các quyền tự do cá nhân trong
sinh hoạt xã hội.
Nhìn vào thực trạng Việt Nam, nếu có một
điều mà chúng ta có thể quả quyết thì đó là với tình trạng hận thù chồng chất,
khủng hoảng niềm tin và thiếu đồng nhất về lập trường hiện nay không thể áp đặt
một lực lượng nào hay một đường lối nào mà không gặp sự chống đối mạnh mẽ. Thể
chế Việt Nam tương lai phải là một thể chế tôn trọng mọi khác biệt, dành chỗ đứng
và tiếng nói ngang nhau cho mọi người và cho mỗi người. Thể chế này do đó bắt
buộc phải là một thể chế dân chủ đa nguyên.
Không thể viện cớ dân ta chưa đủ kinh
nghiệm dân chủ, tinh thần kỷ luật còn chưa cao, lòng người còn phân tán, v.v. để
cho rằng dân chủ là một xa xỉ phẩm đối với Việt Nam. Như vậy phải chăng chúng
ta đành phải tạm thời chấp nhận một phân lượng độc tài nào đó? Để trả lời câu hỏi
này, chúng ta chỉ cần so sánh những thành tựu của các nước dân chủ với thành
tích tồi tệ của các chế độ cộng sản, nhìn vào những gì mà các chế độ độc tài
cánh hữu đã từng đem lại cho các nước Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh.
Nhưng ngược lại cũng không nên ngộ nhận
về bản chất của dân chủ. Dân chủ không giải quyết tức khắc và toàn bộ vấn đề
phát triển. Thành công của mọi chế độ đòi hỏi những chọn lựa đúng đắn và những
con người có khả năng. Dân chủ không đem cơm áo và sự phồn vinh để phát không. Dân
chủ không thay thế cho những chọn lựa và những con người. Nhưng dân chủ là một
phong cách sinh hoạt cho phép đặt các vấn đề một cách đúng đắn và chọn lựa một
cách đúng đắn những người có trách nhiệm. Dân chủ, và nhất là dân chủ đa
nguyên, cũng là một phương thức tổ chức xã hội cho phép phát huy triệt để ý kiến
và sáng kiến, động lực cơ bản nhất của tiến bộ. Vì thế mức độ dân chủ quyết định
một giới hạn trên cho phát triển. Dân chủ càng cao, khả năng phát triển càng
cao.
Ngược lại, các chế độ độc tài cấm cản
ý kiến và sáng kiến, ngăn chặn tiến hóa hòa bình và liên tục của xã hội, dung
túng tham nhũng, bất công và lạm quyền, và do đó ngăn cản phát triển. Chúng ta
cần cảnh giác là không thể có những chế độ độc tài sáng suốt bởi vì nền tảng của
mọi chế độ độc tài là sự kiêu căng bệnh hoạn của một người hay một nhóm người tự
nghĩ rằng họ đủ thông minh để suy nghĩ thay cho cả một dân tộc. Họ không nhìn
thấy sự phức tạp của các vấn đề và cũng không nhìn thấy sự nông cạn của chính
mình. Người độc tài trước hết là một kẻ u mê. Vả lại, nếu quan sát, ta có thể
thấy hầu hết các tập đoàn độc tài đều thiếu văn hóa.
Dĩ nhiên dân chủ đa nguyên không thể đem
lại tất cả mọi phúc lợi của nó trong những điều kiện dân trí, xã hội và kinh tế
chưa tốt đẹp, nhưng ngay cả trong trường hợp này dân chủ đa nguyên vẫn còn hơn
xa độc tài.
Chúng ta khẳng định: dân chủ đa nguyên
thực sự và ngay tức khắc.
Để có dân chủ đa nguyên thực sự, điều
chúng ta phải làm trước hết là xóa bỏ những hận thù do một quá khứ đẫm máu để lại
và được một chính sách phân biệt đối xử nuôi dưỡng suốt thời gian qua. Hòa giải dân tộc là một bắt buộc của hoàn cảnh
lịch sử. Có như thế chúng ta mới có thể chấp nhận nhau, nhận lỗi với nhau và tha lỗi cho nhau, để
chung sống với nhau và bắt tay nhau xây dựng một tương lai chung. Còn nếu không
đa nguyên cùng lắm chỉ có nghĩa là tạm thời chịu đựng lẫn nhau do một so sánh lực
lượng chưa ngã ngũ. Đa nguyên mà không có hòa giải dân tộc như vậy chỉ là đa
nguyên bệnh hoạn, chỉ chuẩn bị cho một sự thanh toán lẫn nhau. Ngược lại dân chủ
đa nguyên cũng là điều kiện cần để có thể có hòa giải dân tộc thực sự. Hòa giải
mà không có đa nguyên chính trị cũng chỉ là hòa giải bịp bợm, hòa giải trong sự
khuất phục của kẻ bị trị trước kẻ thống trị, nghĩa là một hòa giải không thể
có.
Đất nước ta không phải chỉ có những hận
thù do chiến tranh để lại. Còn có vô số nguyên nhân chia rẽ mà chúng ta đã
không giải quyết được vì không ý thức được hay vì hoàn cảnh chưa cho phép giải
quyết. Những cách biệt về tôn giáo, địa phương, sắc tộc, giàu nghèo, nhân sinh
quan, chính kiến, v.v. không thiếu, và vì không được giải quyết nên ngày càng
trở nên trầm trọng. Dân chủ đa nguyên, do tinh thần bao dung và mô thức tản quyền
của nó là giải pháp giúp mọi thành phần dân tộc đều có chỗ đứng và tiếng nói, và
do đó có thể chấp nhận lẫn nhau, sáp lại gần nhau, hòa hợp với nhau để cùng xây
dựng một tương lai Việt Nam chung.
Không ai phủ nhận rằng đa nguyên là một
lý tưởng đẹp, đẹp đến nỗi các chế độ độc tài, dù bị khốn đốn vì nó, cũng không
dám phủ nhận nó một cách dứt khoát.
Dân chủ
đa nguyên đang trở thành đồng thuận căn bản của dân tộc ta trong cuộc hành
trình về tương lai. Đó cũng là hướng đi tất yếu của mọi dân tộc. Những người
tranh đấu cho dân chủ đa nguyên có quyền tự hào vì mình đang theo đuổi một lý tưởng
đẹp và cũng có quyền lạc quan vì mình đang tranh đấu cho một lập trường nhất định
sẽ thắng lợi.
3.
Hòa giải và hòa hợp dân tộc
Trong hơn bốn thế kỷ qua, kể từ khi họ
Mạc cướp ngôi nhà Lê hồi đầu thế kỷ 16, nước ta liên tiếp đi từ cuộc chiến
tranh này đến cuộc xung đột khác. Đất nước bị chia cắt nhiều lần trong hơn hai
thế kỷ, bị đô hộ và bị đặt dưới những chế độ hành chính khác nhau trong gần một
trăm năm. Chiến tranh, nội loạn, trả thù, báo oán, bách hại đã là những yếu tố
thường trực trong lịch sử cận đại của ta.
Khốc liệt nhất là cuộc chiến sau cùng 1945-1975 trong đó lần đầu tiên
chúng ta xung đột với nhau cả về ý thức hệ, và sau đó phe chiến thắng thi hành
chính sách bỏ tù và hạ nhục, cùng với vô số biện pháp phân biệt đối xử.
Do hoàn cảnh lịch sử, chất liệu nhân
xã của chúng ta đã bị tổn thương nặng nề. Những đổ vỡ đòi hỏi một thời gian hàn
gắn rất lâu dài, do đó tinh thần căn bản của mọi chính sách cho nhiều thế hệ tới
sẽ phải là hòa giải và hòa hợp dân tộc. Hòa giải dân tộc để xóa bỏ những hận
thù và hiềm khích của quá khứ để đi đến hòa hợp dân tộc trong cố gắng xây dựng
một tương lai chung.
Trong một thế giới thay đổi dồn dập
như hiện nay, quốc gia nào cũng phải chịu những xáo trộn không ngừng. Ngành này
tiến lên trong khi ngành kia suy thoái, khu vực này bành trướng trong khi khu vực
khác trì trệ. Những chênh lệch xã hội liên tiếp xuất hiện và các chính sách dù
hoàn chỉnh đến đâu cũng không thể nào thỏa mãn được tất cả mọi người. Cho nên
quốc gia nào, dân tộc nào cũng liên tục phải hòa giải với nhau vì các mối xung đột
quyền lợi và căng thẳng luôn luôn xảy ra. Hòa giải đã trở thành triết lý điều
hành quốc gia.
Hòa giải là bắt buộc của mọi dân tộc
dù ở trình độ nào và có lịch sử nào. Nhưng dân tộc Việt Nam là một trong những
dân tộc cần hòa giải hơn cả.
Chúng ta cần hòa giải cộng đồng quốc
gia nói chung với các sắc tộc ít người đã có mặt trên đất nước này từ ngày mở
nước và luôn luôn bị chà đạp và hắt hủi trong suốt dòng lịch sử.
Chúng ta cần hòa giải các tôn giáo, nhất
là Phật Giáo và Công Giáo, hai tôn giáo đã bị các nhà cầm quyền Việt Nam cũng
như ngoại bang bách hại, đàn áp, phân biệt đối xử và đặt vào thế đối đầu với
nhau. Đã thế, các hiềm khích, hậu quả của một hoàn cảnh lịch sử trong đó cả hai
tôn giáo đều là nạn nhân, thay vì được giải tỏa còn đôi khi bị thổi phồng và
khai thác cho những tham vọng bất chính.
Chúng ta cần hòa giải và hòa hợp hai
miền Nam - Bắc đã thường xuyên bị chia cắt và đặt vào thế tương tranh và kể từ
1975 bị chia rẽ bởi một chính sách không khác gì một sự chiếm đóng của Đảng Cộng
Sản.
Chúng ta cần hòa giải đất nước với cộng
đồng người Việt hải ngoại đã phải bỏ người thân, tài sản, mồ mả tổ tiên ra đi
vì không thể chấp nhận được một chính quyền hà khắc, đã phải chịu đựng những khổ
đau và mất mát rất lớn do hải tặc, sóng gió và công an.
Chúng ta cũng cần hòa giải người Việt
Nam với đất nước Việt Nam. Phải nhìn nhận rằng làm người Việt Nam cho đến nay đã
là một điều không may. Đất nước đã chỉ là hy sinh. Hơn thế nữa, các tập đoàn
lãnh đạo kế tiếp nhau còn nhân danh đất nước để phạm những tội ác rất nghiêm trọng.
Dĩ nhiên, đất nước không đồng hóa với người cầm quyền, nhưng vẫn được thể hiện
qua người cầm quyền. Vì thế, khi trong một thời gian quá dài chỉ có những người
cầm quyền gian trá hay bạo ngược, hay vừa gian trá vừa bạo ngược, thì chính
hình ảnh của đất nước cũng bị tổn hại và lòng yêu nước cũng bị suy giảm. Hòa giải
người Việt Nam với đất nước Việt Nam là điều phải làm để phục hồi lòng yêu nước,
một yếu tố không thể thiếu nếu chúng ta còn muốn một tương lai cho Việt Nam. Muốn
như thế nhà nước, người đại diện đất nước, phải là một nhà nước khiêm tốn, hiền
hòa và lương thiện. Tổ quốc Việt Nam phải được cảm nhận như một tình yêu và một
dự án tương lai chung.
Nhưng gần nhất và cũng đau đớn nhất,
chúng ta vừa tàn sát nhau trong một cuộc tương tranh kéo dài ba mươi năm. Cuộc
chiến này là một cuộc nội chiến vì tuyệt đại đa số những người chủ trương, những
người cầm vũ khí tàn sát nhau và những nạn nhân đều là người Việt. Một cuộc nội
chiến hổ nhục vì cả hai phe lâm chiến đều nhận mệnh lệnh và phương tiện từ nước
ngoài. Sự kiện Đảng Cộng Sản Việt Nam không nhìn nhận đây là một cuộc nội chiến
chỉ làm cho tính nội chiến khốc liệt hơn vì họ không nhìn nhận cả tư cách đồng
bào của những người trước mặt. Cần ý thức rằng nội chiến tàn phá hơn hẳn chiến
tranh với nước ngoài bởi vì ngoài những thiệt hại sinh mạng và vật chất nó còn
hủy hoại cả tinh thần dân tộc và ý chí sống chung, nghĩa là chính nền tảng của
quốc gia. Cho tới nay chưa có dân tộc nào trở lại được bình thường trong vòng một
hay hai thế hệ sau một cuộc nội chiến, ngay cả với những cố gắng hòa giải tận
tình và dù nội chiến chỉ kéo dài vài năm. Cuộc nội chiến của chúng ta dài và khốc
liệt hơn nhiều. Những vết thương vẫn còn chảy máu và thay vì được hàn gắn đã bị
trầm trọng hóa bởi một chính sách phân biệt đối xử thô bạo sau đó.
Trong cuộc xung đột vừa qua chúng ta đã
không có chọn lựa tốt nào. Chúng ta đã chỉ có những chọn lựa đau buồn, giữa cái
dở và cái mà một cách chủ quan chúng ta thấy là còn dở hơn. Chúng ta đã chỉ chịu
đựng chứ không làm chủ các biến cố. Rất ít người Việt Nam nào đã thực sự tranh đấu
cho cái mà mình ưa thích. Trong tuyệt đại đa số, người Việt Nam, quốc gia cũng
như cộng sản, đã chỉ chống lại phe mà mình thấy là còn tồi tệ hơn hàng ngũ mình
đang đứng. Người không chịu đựng được sự thối nát của các chính quyền quốc gia
thì đứng vào hàng ngũ cộng sản, mặc dầu cũng biết bản chất bạo ngược của nó,
còn người thấy rằng để đất nước lọt vào tay cộng sản là một tai họa quá lớn thì
đứng vào hàng ngũ quốc gia, mặc dầu cũng chán ghét sự tồi dở của nó. Anh em ruột
thịt, bạn bè thân thích đã chỉ vì một sự lượng định nặng nhẹ khác nhau, hay đã
chỉ bị hoàn cảnh xô đẩy, thậm chí bị bắt buộc, mà phải quay lưng lại với nhau,
mạt sát nhau, bắn giết nhau. Cho nên, ngoài những đổ vỡ về vật chất và sinh mạng,
còn có một đổ vỡ lớn hơn trong lòng mỗi người Việt Nam. Để rồi, kẻ thì đã thua
trận, bị tù đày và nhục mạ, người thì nhận ra tất cả những hy sinh của mình chỉ
là để đóng góp cho một công trình đập phá đất nước. Chẳng có ai có lý do gì để
bắt lỗi ai, tất cả chúng ta đều đã thất bại bẽ bàng. Chúng ta đều là nạn nhân. Chúng
ta phải bắt tay nhau cùng làm lại lịch sử.
Thách đố trước mắt chúng ta là một tập
đoàn cầm quyền đã gây đổ vỡ trầm trọng cho đất nước, đã thất bại trên tất cả mọi
phương diện và trong tất cả mọi địa hạt, nhưng vẫn xấc xược tự cho mình độc quyền
cai trị đất nước vô thời hạn và đàn áp thô bạo mọi tiếng nói đối lập, dù là ôn
hòa. Tập đoàn này dùng mọi biện pháp để ngăn chặn hòa giải và hòa hợp dân tộc vì
họ biết rằng chỉ có thể duy trì được sự thống trị của họ nếu dân tộc Việt Nam bất
lực vì hận thù và chia rẽ. Không những không xoa dịu những vết thương của cuộc
chiến họ còn mở rộng hiềm khích tới nhiều thành phần dân tộc và kéo dài hận thù
tới thế hệ vừa lớn lên bằng những biện pháp đàn áp chính trị, xếp loại dân
chúng và phân biệt đối xử.
Ngày hôm nay khát vọng của tuyệt đại đa
số nhân dân Việt Nam là dân chủ. Nhìn lại anh em, nhận lại bạn bè phải là tinh
thần chỉ đạo của một tập hợp dân tộc mới, trong đó không có kẻ đúng người sai
mà chỉ có những người anh em bình đẳng cùng ngậm ngùi cho đất nước và cùng kết
hợp trong một cuộc vận động dân chủ. Hòa giải và hòa hợp dân tộc chính là điều
kiện cốt lõi để cô lập và đánh bại tập đoàn độc tài ngoan cố.
Nhưng vượt lên trên những sôi động nhất
thời, hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là một đoạn tuyệt lịch sử cần thiết để bẻ
gãy cái vòng luẩn quẩn của hận thù và chia rẽ đã giam hãm chúng ta từ nhiều thế
kỷ qua, nhất là từ nửa thế kỷ nay. Đây là một đoạn tuyệt lịch sử rất khó khăn
vì ý niệm hòa giải dân tộc hoàn toàn thiếu vắng trong tập quán chính trị Việt
Nam. Trong gần tám thế kỷ, kể từ nhà Trần, nhổ cỏ tận gốc, tru di tam tộc, tiêu
diệt toàn bộ vẫn là những biện pháp được người cầm quyền sử dụng thay cho hòa giải.
Dần dần cách ứng xử hung bạo đó đã ăn rễ vào tâm lý tập thể và làm cho ý niệm
hòa giải trở thành xa lạ đối với người Việt Nam. Vì thế nhiều người đã nói rằng
dân tộc Việt Nam không có nhu cầu hòa giải trong khi thực sự chúng ta là một
trong những dân tộc cần hòa giải nhất. Chính vì thiếu tinh thần hòa giải mà
chúng ta đã bị tù hãm trong hận thù. Cái vòng oan nghiệt đó đã khiến chúng ta
không động viên được mọi sinh lực của đất nước để vươn lên và giải thích tại
sao chúng ta đã phải quằn quại mãi trong nghèo khổ và thua kém.
Hòa giải và hòa hợp dân tộc là điều kiện
cần cho thắng lợi của cuộc vận động dân chủ hiện nay và cũng là điều kiện cần
cho thành công của cố gắng phục hưng đất nước ngày mai.
Thực thi hòa giải dân tộc không phải
chỉ đơn thuần là một tình cảm mà còn đòi hỏi những biện pháp cụ thể. Nhà nước
Việt Nam tương lai sẽ đặt con người tự do làm đối tượng phục vụ cao nhất. Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ coi đa nguyên
như một giá trị nền tảng. Đa nguyên về mọi mặt tâm linh, văn hóa, chính trị, kinh
tế, xã hội. Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ chế tài nghiêm khắc mọi ngôn ngữ và
thái độ xúc phạm với mọi sắc tộc, mọi cộng đồng, mọi tín ngưỡng, mọi quan điểm.
Ngược lại nhà nước sẽ khuyến khích và giúp đỡ tận tình mọi sáng kiến và cố gắng
đem mọi người Việt Nam thuộc mọi vùng, mọi sắc tộc, mọi tôn giáo, mọi nhân sinh
quan, mọi chính kiến đến gần nhau hơn trong tinh thần tôn trọng mọi khác biệt. Nhà
nước Việt Nam tương lai sẽ phải phục hồi danh dự cho những người đã bị hạ nhục,
phải bồi thường thiệt hại, dù chỉ là một cách không đầy đủ, cho những nạn nhân
mà không tạo ra những nạn nhân mới. Xóa bỏ hận thù có nghĩa là sẽ không có những
vụ án chính trị, ngược lại sẽ có một đạo luật cấm nhà nước truy tố bất cứ ai vì
chức vụ mà họ đã giữ, trừ khi họ đã vi phạm một cách rất nghiêm trọng ngay
chính những luật lệ đương hành lúc họ tại chức. Mọi công dân có quyền tố cáo những
hà hiếp mà mình đã là nạn nhân, và nhà nước sẽ xử lý những tranh tụng đó như những
tranh tụng giữa những công dân bình đẳng trước pháp luật trong tinh thần hòa giải
dân tộc.
Những
biện pháp đó, được thực hiện với thành tâm hàn gắn những vết thương do lịch sử để
lại, sẽ giúp chúng ta dần dần tiến tới hòa hợp dân tộc trong cố gắng xây dựng
và chia sẻ một tương lai Việt Nam chung. Chúng ta sẽ khép lại một trang sử đau
buồn của đất nước và mở ra một trang sử mới viết bằng tình tự dân tộc. Hoà giải
và hòa hợp dân tộc sẽ phải là chính sách quả quyết của đất nước ta trong nhiều
thế hệ.
4. Chấp nhận và thể hiện quả quyết những giá trị
tiến bộ
Một xã hội tiến bộ phải được xây dựng
trên nền tảng của những giá trị tiến bộ.
Các nước phương Tây sở dĩ phát triển mạnh
mẽ và vượt hơn hẳn phần còn lại của thế giới là vì xã hội của họ đặt nền tảng
trên những giá trị cơ bản đúng. Những giá trị đó là hòa bình, tự do, dân chủ,
bình đẳng, nhân quyền, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp tác, lợi nhuận, môi
trường và liên đới. Những giá trị này
không phải của riêng người phương Tây mà vốn đã hiện diện trong mọi xã hội và
trong mọi nền văn minh. Ưu điểm của các nước phương Tây là họ đã biết đề cao và
phát huy triệt để một phần lớn trong số các giá trị này để lấy làm nền tảng cho
xã hội. Nhờ vậy họ đã có được sức mạnh và sự phồn vinh. Tiếp xúc với các nước
phương Tây, các quốc gia đều nhận ra sự thua kém của mình và đều tìm cách thỏa
hiệp với nền văn minh phương Tây. Tuy nhiên quán tính tự nhiên đã khiến hầu hết
các quốc gia đều có khuynh hướng chỉ chấp nhận một phần những thành tố của xã hội
phương Tây để hội nhập nó vào truyền thống của mình, chẳng hạn như học hỏi kỹ
thuật phương Tây trong khi vẫn giữ nguyên cơ cấu xã hội cũ. Nhưng một nền văn
minh là một tổng thể cấu tạo bởi những giá trị gắn bó với nhau cho nên rất khó
lấy một thành tố của một nền văn minh để ghép vào một nền văn minh khác. Không
thể chấp nhận kỹ thuật của Phương Tây trong khi vẫn từ chối những giá trị cơ bản
đã làm nẩy sinh và đã thúc đẩy sự tiến phát của các kỹ thuật đó. Kinh nghiệm của
các quốc gia đã chứng tỏ rằng thái độ nửa chừng này chỉ đem lại những thành
công giới hạn, trước khi dẫn tới khủng hoảng. Nước Nga mặc dầu đã bắt đầu canh
tân từ cuối thế kỷ 17 đã không bắt kịp được Tây Âu và đã phân hóa, cuối cùng trở
thành một chế độ cộng sản với hậu quả tai hại mà thế giới đã thấy; nước Nhật đã
tích lũy những mâu thuẫn để rồi bị dẫn đến chiến tranh tự hủy. Ngày nay Nhật đã
nhận ra sai lầm đó và đã chấp nhận toàn bộ các giá trị của thế giới tiến bộ từ
sau Thế Chiến II và vừa hoàn tất một cuộc cải tổ cơ cấu kéo dài ba thập niên để
thích nghi xã hội với những giá trị này. Nga cũng sẽ không có chọn lựa nào
khác, chế độ nửa dân chủ nửa mafia hiện nay đã bắt đầu chao đảo. Trung Quốc với
chính sách "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" và khôi
phục Khổng Giáo cũng đã đến rất gần khủng hoảng.
Chấp nhận một cách thành thực và quả
quyết những giá trị chính trị, văn hóa, xã hội của thế giới tiến bộ là điều kiện
tiên quyết. Nhật Bản vì chọn lựa như vậy đã trở thành một cường quốc hàng đầu
thế giới. Một số nước Châu Á, như Nam Cao Ly và Đài Loan, từ bốn thập niên gần đây
đi theo khuôn mẫu Nhật Bản cũng đang trỗi dậy mạnh mẽ. Chấp nhận toàn bộ các
giá trị tiến bộ là chọn lựa chúng ta phải làm và phải làm một cách thật quả quyết.
Giữa sự dùng dằng, lưỡng lự của các nước trong vùng, chọn lựa này là một cơ may
cho phép chúng ta vươn lên bắt kịp và vượt qua họ.
Trong những giá trị trên đây, giá trị
mà ta cần nhất là hòa bình. Truyền thống chống ngoại xâm dần dần đã khiến ta
coi bạo lực như là phương cách tự nhiên để giải quyết xung đột. Ta quen tôn
vinh những anh hùng có chiến công hiển hách mà coi nhẹ những cố gắng xây dựng
âm thầm, nền tảng của mọi tiến bộ. Từ nay chúng ta phải nguyền rủa bạo lực và
nâng hòa bình lên làm một giá trị tuyệt đối.
Chúng ta đừng lo sợ chấp nhận những
giá trị mới sẽ làm ta mất đi quốc hồn quốc túy. Những giá trị này đã có sẵn trong
mọi xã hội, kể cả xã hội ta, chỉ tiếc rằng ta đã không phát huy chúng một cách đầy
đủ đến nỗi phải khổ nhục và thua kém như ngày nay. Chấp nhận chúng không phải
là tự phủ nhận chúng ta mà chỉ có nghĩa là phát huy cái hay sẵn có trong chúng
ta. Vả lại, tiến lên và bắt kịp thế giới là điều kiện để chúng ta có thể tồn tại
như một quốc gia và giữ được văn hóa và bản sắc dân tộc.
Trên những giá trị chung các nước
phương Tây đã xây dựng nên nhiều nếp sống khác nhau tùy đặc thái riêng của mỗi
nước. Xã hội Anh khác với xã hội Pháp, văn hóa Đức khác với văn hóa Ý, nước Mỹ
không giống như nước Thụy Điển. Trên căn bản các giá trị mới Nhật Bản và nhiều
nước Châu Á khác vẫn giữ được truyền thống của họ. Trên căn bản các giá trị tiến
bộ Việt Nam cũng vẫn sẽ là Việt Nam, nhưng là một Việt Nam vinh quang hơn.
Chúng ta cần một cuộc vận động tư tưởng
lớn. Giáo dục của ta, luật pháp của ta, các sinh hoạt văn hóa, xã hội, kinh tế
của ta đều phải nhấn mạnh và tôn vinh các giá trị tiến bộ. Trường học ngoài sứ
mệnh cốt lõi của nó là chuyển giao kiến thức, còn phải là môi trường tập quen
tuổi trẻ với tinh thần bao dung, tinh thần trách nhiệm, cách suy nghĩ tự do và
khách quan và lòng yêu quý đất nước, đồng bào, nhân loại và thiên nhiên. Một cố
gắng đặc biệt cũng sẽ được dành cho thể dục thể thao nhằm phát huy óc khách
quan, tinh thần tranh đua trong hòa bình, tinh thần thượng tôn luật pháp. Cuộc
vận động tư tưởng này là cố gắng quan trọng nhất trong mọi cố gắng, bởi vì đây
chính là cố gắng xây dựng nền tảng của xã hội mới. Chúng ta sẽ không chỉ chấp
nhận mà còn phải có tham vọng đóng góp bổ túc và kiện toàn các giá trị phổ cập.
Cuộc vận động tư tưởng này cũng sẽ giúp ta tăng cường và thăng tiến một lớp người
tối cần thiết cho quốc gia nhưng chúng ta mới chỉ bắt đầu có: những trí thức
chính trị, những người đầu tư thời giờ và cố gắng để hiểu rõ những vấn đề của đất
nước, dám có ý kiến của mình và sẵn sàng trả giá để dấn thân tranh đấu cho những
gì mình nghĩ là đúng cho đất nước. Họ là những người hướng dẫn quần chúng và là
trí tuệ của dân tộc. Chính sự thiếu vắng thành phần trí thức chính trị này
trong suốt dòng lịch sử đã khiến nước ta thua kém và trôi dạt từ sai lầm này đến
thảm kịch khác.
5.
Phát triển đất nước trên nền tảng dân chủ, kinh tế thị trường và sáng kiến cá
nhân
Điều nhức nhối nhất của chúng ta là
tình trạng lạc hậu và nghèo khổ. Do đó trọng tâm của mọi cố gắng quốc gia phải
là phát triển, và một cái nhìn thấu đáo về vấn đề phát triển là vô cùng quan trọng.
Một nửa nhân loại vẫn còn đang sống
trong nghèo khổ, gần một phần tư đang sống trong nghèo khổ cùng cực. Cách đây
hai thế kỷ, ngay tại các nước phát triển nhất, quá phân nửa dân số đã chết trước
tuổi dậy thì. Phát triển như vậy là một hiện tượng rất mới tại một số nước nhờ
một số điều kiện đặc biệt mà chúng ta cần nhận diện để nắm bắt.
Trước hết phải hiểu phát triển như thế
nào?
Phát triển là một thay đổi liên tục và
kéo dài trong thời gian, cho phép sử dụng ngày một hữu hiệu hơn tài nguyên và
nhân lực, đem lại cho quốc gia lợi tức ngày một lớn hơn và cho con người cuộc sống
ngày càng cao hơn về cả vật chất lẫn tinh thần.
Phát triển là một khái niệm tương đối.
Một quốc gia được coi là phát triển khi đạt thành tích cao so với phần còn lại
của thế giới về lợi tức bình quân trên mỗi đầu người, về giáo dục, y tế, gia cư
và cơ sở hạ tầng, khi hoạt động kinh tế mạnh và hiện đại, môi trường sinh sống
sạch và đẹp, các phương tiện di chuyển, thông tin, học hỏi và giải trí dồi dào.
Phát triển, ngay cả với định nghĩa
trên đây, cũng không phải là tất cả. Sự thành công của một quốc gia, ngoài phát
triển, còn là sự kiện mọi người gắn bó một cách tự nguyện trong cố gắng xây dựng
một tương lai chung và mỗi người cảm thấy được làm chủ đời mình, được sống theo
ý mình, được quý trọng trong một xã hội không đe dọa, được hưởng phúc lợi do cố
gắng của mình, được bảo đảm những cơ hội thăng tiến công bình, và có lý do để
tin rằng ngày mai sẽ hơn ngày hôm nay và cuộc sống của con cái mình sẽ hơn cuộc
sống của mình. Đó là mục tiêu chúng ta muốn đạt tới.
Phát triển không phải chỉ là sự gia tăng
tổng sản lượng quốc gia. Do đó, một mức độ tăng trưởng 5% của tổng sản lượng quốc
gia với những hệ thống giáo dục và y tế hoàn chỉnh, môi trường thiên nhiên được
bảo vệ và cải thiện, lợi tức được phân chia tương đối công bằng, phải được đánh
giá là tốt hơn nhiều lần một tăng trưởng 15% trong đó mọi vấn đề văn hóa, xã hội
và môi sinh bị bỏ rơi. Một thí dụ cụ thể
là trường hợp của Trung Quốc. Mức độ tăng trưởng tuy khá cao, nhưng sự thiệt hại
gây ra cho môi trường nếu quy ra chi phí để phục hồi còn cao hơn. Sự chênh lệch
giàu nghèo quá lố và sự chênh lệch giữa các vùng ngày càng trở thành báo động,
thêm vào đó là một phần đáng kể dân số trở thành du mục sống vất vưởng trên các
hè phố hay các khu tập trung đột xuất tại các vùng ngoại ô. Chúng ta không thể
chấp nhận một tăng trưởng như thế. Chúng ta tìm kiếm một phát triển hài hòa và
cân bằng, bởi vì chỉ có phát triển đó mới có thể bền vững và mới xứng đáng được
coi là một mục tiêu quốc gia.
Tuy phát triển không phải chỉ là phát
triển kinh tế, nhưng phát triển kinh tế là yếu tố quan trọng nhất và cũng là
chìa khóa cho phát triển cân đối toàn bộ. Chúng ta là một trong những dân tộc
nghèo khổ và chậm tiến nhất nên phát triển kinh tế là mục tiêu cấp bách nhất đối
với chúng ta.
Cần đánh tan ngay một lấn cấn tai hại.
Bịp bợm chính trị lớn nhất vẫn còn tiếp
tục là luận điệu cho rằng một xã hội muốn tiến nhanh cần một chế độ độc tài
sáng suốt, cần đình hoãn xây dựng dân chủ và hy sinh một số tự do căn bản. Bịp
bợm này đã là nguyên nhân của những tang tóc ghê gớm. Nó đã tạo ra và nuôi dưỡng
các chế độ phát xít quân phiệt tại Ý, tại Đức và tại Nhật. Nó đã giúp cho phong
trào cộng sản nảy sinh, phát triển và tồn tại. Nó đã tiếp tay duy trì các chế độ
độc tài tại Châu Mỹ La Tinh và Châu Á trước đây. Và nó vẫn đang được dùng làm
chỗ dựa lý luận của nhiều chế độ độc tài khác, trong đó có Việt Nam.
Những chế độ này đã chỉ đem lại những
kết quả tồi tệ. Các chế độ độc tài tại Ý, Đức và Nhật đã tích lũy mâu thuẫn, đã
bế tắc và phải lao đầu vào các cuộc chiến tự hủy. Chế độ cộng sản tại Liên Xô đã
hủy hoại tài nguyên, môi trường, đã đày đọa dân chúng rồi sụp đổ. Tất cả những
chế độ độc tài khác đều có một thành quả giống nhau: nghèo khổ, lạc hậu và áp bức.
Sự thực, phát triển là hệ quả của tự
do và dân chủ. Nhưng vì tự nó phát triển cũng thúc đẩy và phát huy tự do dân chủ
nên dễ có ngộ nhận giữa hậu quả và nguyên nhân đưa đến sự nhẫn nhục sai lầm là
hãy tạm chấp nhận độc tài để có phát triển rồi sau đó phát triển sẽ đem tới dân
chủ. Sự ngộ nhận này đã bị các tập đoàn độc tài khai thác.
Kinh nghiệm của các dân tộc chứng minh
dân chủ và phát triển đi đôi với nhau.
Hiện tượng phát triển trên quy mô quốc
gia đã bắt đầu xuất hiện tại Châu Âu và Hoa Kỳ sau khi những xã hội đặt nền tảng
trên dân chủ được thành lập. Nguyên nhân đã làm nảy sinh ra phát triển là trọng
lượng của nhà nước trong đời sống thường ngày được giảm nhẹ, một hiến pháp dân
chủ và ổn vững được thượng tôn, luật pháp thay thế cho các quyết định tùy tiện
của người cầm quyền, con người được tôn trọng và được bảo vệ, kinh tế hoạt động
theo quy luật của thị trường, hoạt động kinh doanh được tôn vinh, buôn bán và
trao đổi được đề cao, ý kiến và sáng kiến được khuyến khích và tưởng thưởng, lợi
nhuận được nâng lên hàng một giá trị.
Quốc gia Châu Á duy nhất đã bắt kịp
các nước phương Tây ngay đầu thế kỷ 20 là Nhật đã phát triển được nhờ mau chóng
chấp nhận sinh hoạt kinh tế phương Tây. Dưới cái vung thống trị của một giai cấp
hiệp sĩ kiêu căng sống tách rời hẳn khỏi quần chúng, một xã hội dân chủ đã âm
thầm hình thành giữa đại đa số người Nhật và đã khiến cho nước Nhật vươn lên
ngay từ thế kỷ 18, rồi vươn lên mạnh mẽ từ nửa sau thế kỷ 19.
Sự kiện hai chế độ phát xít Ý và quốc
xã Đức đã đem lại một số tiến bộ lúc ban đầu, và chế độ quân phiệt Nhật đã duy
trì được phát triển trong vài thập niên, giúp ta nhận diện một yếu tố khác của
phát triển vốn đã có trong những phát triển trước đây: đồng thuận dân tộc. Cả
ba dân tộc này vào thời điểm đó đều cùng bực tức vì thua kém và đều có được những
lãnh tụ đủ sức lôi cuốn để đoàn kết họ trong một cố gắng chung.
Kinh nghiệm của các nước vừa phát triển
tại Châu Á cần được nhìn một cách chính xác bởi vì, trái với nhận định hời hợt
của một số người và trái với giải thích gian trá của các chế độ độc tài, các quốc
gia này đã phát triển được vì họ đã dân chủ hơn và tự do hơn các nước chậm tiến
khác, dù có thể chưa đạt tới dân chủ trọn vẹn và đúng nghĩa.
Các nước Châu Mỹ La Tinh với tài
nguyên phong phú đã quằn quại trong hơn một thế kỷ rưỡi trong lạc hậu dưới các
chế độ độc tài và đã chỉ vươn lên từ thập niên 1980 nhờ dân chủ.
Tại Châu Âu, ba nước Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha và Hy Lạp, vì vướng mắc vào các chế độ độc tài mà đã tụt hậu bi đát; họ đã
chỉ vươn lên từ thập niên 70 nhờ vứt bỏ được ách độc tài.
Ngay cả những tiến bộ kinh tế được ghi
nhận gần đây tại Trung Quốc và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ: chúng đã
có được nhờ kinh tế thị trường và nhờ một mức độ tự do lớn hơn.
Kinh nghiệm của mọi dân tộc đã chứng
minh: dân chủ, quyền tư hữu, kinh tế thị trường, nhà nước nhẹ là những yếu tố
làm nảy sinh ra phát triển kinh tế.
Nhưng kinh nghiệm cũng cho thấy cùng
những yếu tố ấy đã tạo ra những phát triển kinh tế khác nhau về vận tốc và về
cường độ tại các quốc gia khác nhau, và nhiều quốc gia với điều kiện thiên
nhiên bất lợi đã phát triển mạnh mẽ hơn những quốc gia khác, cũng dân chủ và
còn có tài nguyên phong phú hơn nhiều. Các yếu tố tâm lý và văn hóa đã đóng góp
vai trò quyết định.
Sau khi đã quan sát lịch sử của các
dân tộc chúng ta cũng có thể tiếp cận hiện tượng phát triển bằng lý luận kinh tế.
Phát triển kinh tế đòi hỏi ba yếu tố vừa
cần vừa đủ: con người có ước muốn kinh doanh, có thể kinh doanh, và có phương
tiện để kinh doanh.
Để ước muốn kinh doanh người dân cần một
bối cảnh tâm lý thuận lợi: hoạt động kinh doanh được xã hội quý trọng, ý kiến
và sáng kiến được đề cao, sự chấp nhận rủi ro được tôn vinh; họ cũng cần có lý
do để lạc quan tin tưởng rằng kinh doanh sẽ có lợi và lợi tức đó sẽ là của họ. Nói
một cách khác, để muốn kinh doanh, cùng với một bối cảnh kinh tế lạc quan, nhà
kinh doanh cần một tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh doanh và một bảo đảm chắc
chắn về quyền tư hữu. Yếu tố khởi động này của phát triển giải thích tại sao
các nước cộng sản đã suy sụp vì không tôn trọng quyền tư hữu. Nhưng quan trọng
hơn, nó giải thích tại sao hiện tượng phát triển đã chỉ có tại một số quốc gia
nhờ một tâm lý xã hội thuận lợi.
Để có thể kinh doanh, doanh nhân cần một
xã hội có trật tự và an ninh, cần được luật pháp đảm bảo và được tự do hành động;
họ không thể bị trói buộc bởi quá nhiều quy định, không bị gò bó trong một kế
hoạch quốc gia cứng chắc, không phải nộp thuế quá cao, không bị sách nhiễu bởi
một guồng máy chính quyền tham nhũng. Chúng ta nhìn thấy ở đây sự cần thiết của
một thể chế dân chủ pháp trị, của một hoạt động kinh tế thị trường thay vì kinh
tế hoạch định, của một guồng máy nhà nước nhẹ.
Nhưng chúng ta cũng nhìn thấy một lần nữa các yếu tố tâm lý: đạo đức và
lương thiện. Tham nhũng cũng là hậu quả của sự suy đồi của đạo đức xã hội.
Người kinh doanh dĩ nhiên cũng cần có
phương tiện, nghĩa là có nguồn nhân lực cần thiết với những khả năng cần có, có
một cơ sở hạ tầng tốt, có vốn đầu tư, có một hệ thống tín dụng ngân hàng đắc lực
để huy động vốn luân chuyển. Vốn đầu tư chỉ là một trong những yếu tố và cũng
không phải là yếu tố quan trọng nhất. Vốn có ít thì đầu tư ít, và lợi nhuận sẽ đẻ
ra vốn. Vả lại tư bản có trí khôn và logic riêng của chính nó, nhất là trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay; ở đâu kinh doanh có lợi vốn sẽ tìm đến. Điều quan
trọng hơn hết vẫn là con người, những con người thực thà, lương thiện, có kỹ năng
và có tinh thần trách nhiệm. Một lần nữa yếu tố tâm lý và văn hóa là nòng cốt.
Nói chung, phát triển cần một bối cảnh
tự do dân chủ và là một vấn đề chủ yếu văn hóa và tâm lý. Chính vì thế mà một số
quốc gia dù tài nguyên ít ỏi, dù bị tàn phá ghê gớm vẫn vươn lên mạnh mẽ. Nước Đức
và nước Nhật bại trận và tan hoang đã chỉ cần một vài thập niên để trở thành những
nước phát triển nhất. Dân tộc Hà Lan chen chúc trên một mảnh đất nhỏ với tài
nguyên thiên nhiên ít ỏi cũng đã xây dựng được một trong những quốc gia phồn
vinh nhất thế giới. Chính vì phát triển trước hết là một vấn đề văn hóa và tâm
lý mà cho tới nay nó đã chỉ giới hạn ở một số quốc gia.
Cần phân biệt tâm lý và văn hóa với
trí tuệ và kiến thức. Bẩm sinh con người có khả năng trí tuệ bằng nhau hay gần
bằng nhau và do đó nhờ giáo dục có thể đạt tới một trình độ hiểu biết ngang
nhau. Sự khác biệt là tâm lý và văn hóa, là các giá trị được trân trọng và thể
hiện trong xã hội, là óc cầu tiến, tính chấp nhận rủi ro của kinh doanh, là
tinh thần trách nhiệm, là cách ứng xử trong cuộc sống tập thể.
Chúng ta cần thay đổi xã hội và con
người để có phát triển.
Chúng ta cần một xã hội dân chủ, quý
trọng con người, đặt lòng tin ở con người, để cho con người tự do quyết định
xây dựng đời mình. Chúng ta cần một nhà nước pháp trị, có luật pháp đầy đủ và
không có quá nhiều thủ tục, chúng ta cần một cơ chế thị trường thay vì một kế
hoạch áp đặt.
Chúng ta cần những con người tự do,
trách nhiệm, lương thiện, gắn bó vào cộng đồng, cầu tiến và thi đua chứ không
ghen tức và phá hoại. Chúng ta cần những con người ham thích kinh doanh, khao
khát làm giàu một cách lương thiện.
Chúng ta cần một bộ máy kinh tế hoạt động
không cưỡng chế. Nhà kinh doanh phải được phép tự do hành động theo các quy luật
khách quan của kinh doanh và thị trường. Liên đới xã hội là một ưu tư thường trực
của một chính quyền đứng đắn, nhưng liên đới xã hội phải được thực hiện ở khâu
phân phối lợi tức quốc gia, qua thuế khóa, chứ không thể can thiệp trực tiếp
vào sự điều hành hoạt động kinh doanh.
Chúng ta cũng cần một bối cảnh pháp
lý, nghĩa là hiến pháp và pháp luật, ổn định để người dân có thể yên tâm xây dựng
cuộc sống và lập ra những dự định cho tương lai mà không lo sợ một thay đổi luật
chơi đột ngột làm hỏng dự án kinh doanh của mình.
Nhưng hiến pháp và luật pháp ổn vững
không có nghĩa là chính quyền ổn vững. Sự thay đổi thường xuyên người cầm quyền
trong một bối cảnh pháp lý ổn vững không hề cấm cản cảnh sát tiếp tục bảo vệ an
ninh trật tự, không hề cấm cản các thẩm phán tiếp tục xử án và cũng không hề cấm
cản một nhà máy tiếp tục hoạt động. Điều có thể tác hại cho sinh hoạt kinh tế
là những cuộc cách mạng làm đảo lộn tất cả, là những thay đổi đột ngột luật
pháp và định hướng quốc gia.
Đẩy xa lý luận hơn nữa, ta còn có thể
nói những chính phủ dân chủ không có đa số áp đảo để thay đổi tùy tiện luật
pháp và chính sách còn có thể là một đảm bảo cho sự ổn định bối cảnh pháp lý,
và do đó có lợi cho phát triển. Một chính quyền áp đảo và nhiều quyền lực chỉ cần
thiết để có thể quyết định mau chóng những thay đổi, và áp đặt một kế hoạch
phát triển quốc gia. Nhưng kế hoạch quốc gia là điều chúng ta nên tránh. Kế hoạch
quốc gia là một sản phẩm duy ý chí, tàn dư của thời đại thế giới chưa đủ sáng
suốt và kinh nghiệm để nhận định rằng cần để cho xã hội, qua quy luật thị trường
khách quan, quyết định những gì cần làm, làm tới mức nào và làm như thế nào. Kế
hoạch kinh tế là một cản trở cho phát triển mà chúng ta phải loại bỏ, điều
chúng ta cần là một định hướng cho quốc gia và những dự án cho từng vấn đề, đặc
biệt là những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Dĩ nhiên trong một hoàn cảnh còn
khó khăn và còn nhiều trở ngại cho phát triển, chúng ta cần một chính quyền có
khả năng quyết định những chọn lựa cần thiết nhằm tháo gỡ những ách tắc do quá
khứ để lại. Nhưng khả năng này một chính
quyền dân chủ và nhẹ vẫn có thể có được nhờ thuyết phục để tạo ra đồng thuận và
hậu thuẫn của quần chúng trên một số chọn lựa căn bản phải làm.
Tóm lại, để phát triển đất nước, và
trước hết là phát triển kinh tế, chúng ta cần một thể chế dân chủ, một nhà nước
pháp trị, một sinh hoạt kinh tế thị trường, một sự tôn trọng thành thực ý kiến
và sáng kiến cá nhân, một niềm tin mạnh mẽ vào con người. Thể chế đó sẽ làm nảy
nở óc sáng tạo, tinh thần cầu tiến, tinh thần trách nhiệm. Nhưng chúng ta cũng
cần một cố gắng văn hóa quan trọng để thượng tôn những giá trị của tiến bộ và đưa
những giá trị đó vào tâm hồn và phản xạ của mọi người. Những giá trị đó là hòa bình, tự do, dân chủ,
nhân quyền, bình đẳng, nhà nước pháp trị, hợp tác, lợi nhuận, liên đới và môi
trường.
Xây dựng một xã hội dân chủ đa nguyên,
phát huy các giá trị tiến bộ, chúng ta sẽ có phát triển, đặc biệt là phát triển
kinh tế. Đó là chủ thuyết phát triển của chúng ta. Chúng ta quả quyết rằng một
xã hội như thế và với những giá trị như thế dù muốn không phát triển cũng không
được. Ngược lại, một xã hội không dân chủ, hoặc không có những giá trị tiến bộ
thì dù muốn và cố gắng đến đâu cũng sẽ không có phát triển, hay chỉ có phát triển
ở một mức độ thấp. Tài nguyên thiên nhiên và vốn đầu tư là những yếu tố thứ yếu.
Trong một chủ thuyết phát triển như thế,
vai trò của nhà nước chủ yếu là gìn giữ hòa bình và trật tự an ninh, bảo đảm quốc
phòng và công lý, tạo những quan hệ bang giao tốt với cộng đồng thế giới, hòa
giải và trọng tài những tranh tụng của xã hội dân sự. Vai trò của nhà nước
trong kinh tế sẽ được giới hạn trong ba phạm vi: thuế, chi tiêu công cộng và điều
chỉnh khối lượng tiền tệ. Thuế để nhà nước có ngân sách làm nhiệm vụ của mình và
bảo đảm an sinh và liên đới xã hội. Các chi tiêu công cộng để xây dựng, bảo trì
và cải thiện cơ sở hạ tầng, thúc đẩy, kích thích một số ngành nghề. Việc điều
chỉnh khối lượng tiền tệ lưu hành, chủ yếu qua ấn định một mức lãi suất căn bản
và phát hành hoặc thu hồi công trái, có ảnh hưởng trực tiếp trên giá cả, đầu tư
và tăng trưởng. Trong cả ba phạm vi đó, nhà nước cũng cần hành động với tất cả
dè dặt để tránh đảo lộn sinh hoạt kinh tế. Ổn định là yếu tố cốt lõi của kinh
doanh. Riêng việc quản lý tiền tệ, chúng ta phải tránh trường hợp chính quyền
hành động theo những yêu cầu chính trị ngắn hạn, bằng cách giao phó cho một định
chế ngân hàng trung ương xuất phát từ chính phủ nhưng không chịu sự chi phối
tùy tiện của chính phủ.
Một lần
nữa, nhu cầu phát triển buộc ta phải có một nhà nước hòa giải và trọng tài để
cho xã hội dân sự lo việc phát triển thay vì một nhà nước chỉ huy và định đoạt
thay cho xã hội dân sự. Vai trò hòa giải và trọng tài trong sinh hoạt kinh tế
buộc nhà nước phải từ bỏ mọi chức năng kinh doanh. Các công ty quốc doanh không
nên có, hay nếu có thì cần được coi là những bó buộc chẳng đặng đừng trong một
thời gian nhất định. Trong chủ thuyết phát triển của chúng ta, nhà nước không
chen lấn với xã hội dân sự, mà tập trung mọi cố gắng để làm tròn và làm tốt chức
năng thực sự của một nhà nước.