Bài học từ cuộc hải chiến Hoàng Sa (Lê Vĩnh Trương -Quỹ Nghiên cứu Biển Đông)
Những hành động thôn tính hay gây
ảnh hưởng thực chất đã diễn ra từ trước 1949 kéo dài đến Hiệp định
Geneva 1954, Cải cách Ruộng đất 1956, song tất cả đều không phải dễ nhận
thấy với mọi người - ít nhất trong điều kiện thông tin thời trước.
Ngày 19/1/1974 Trung Quốc tấn công
quân đội Việt Nam Cộng Hòa đồn trú tại quần đảo Hoàng Sa và chiếm trọn
quần đảo này từ ngày đó đến nay.
Hành động tấn công này là đỉnh điểm của nhiều bước đi và toan tính từ trước, cũng như mang lại những hệ quả về sau.
Có một số điều có thể điểm lại để tham khảo ngày hôm nay:
Thứ nhất,
điểm đặc biệt của hành động này là tính dễ nhận thấy, rất lộ liễu so
với các hành động thù địch của Bắc Kinh đối với Việt Nam nói chung và
Bắc Việt nói riêng trước đây.
Những hành động thôn tính hay gây
ảnh hưởng thực chất đã diễn ra từ trước 1949 kéo dài đến Hiệp định
Geneva 1954, Cải cách Ruộng đất 1956, song tất cả đều không phải dễ nhận
thấy với mọi người - ít nhất trong điều kiện thông tin thời trước.
Riêng việc xâm chiếm Hoàng Sa đã là một điển hình xâm lăng rõ ràng và không thể chối cãi.
Sự kiện Hoàng Sa thực sự đã phơi bày hành vi xâm lăng ở mức hiển nhiên và nghiêm trọng.
Đây cũng là một điều đáng quan tâm đối với giới khoa học và quân sự của Việt Nam.
Thứ hai,
hành động chiếm đóng Hoàng Sa đã mang một nhận thức mới đến người Việt
Nam ở các quan điểm chính trị khác biệt rằng không có tình đồng chí ý
thức hệ, không có tình chiến hữu thế giới tự do, chỉ có sự ưu tiên vì
lợi ích dân tộc vượt lên trên và lắng đọng tại cột mốc lịch sử này.
Từ đó, những nhà hoạch định chính sách có đánh giá
mới về Trung Quốc, Hoa Kỳ và tương quan lực lượng của Việt Nam giai đoạn
hậu Thông cáo Thượng Hải 1972, khi Henry Kissinger và Richard Nixon
cùng Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai nâng cốc thỏa thuận trên đầu hai nước
Việt Nam.
Ưu tiên cho lợi ích dân tộc từ sự kiện Hoàng Sa 1974
cũng chính là khuynh hướng mới trong vận hành những cỗ máy chính trị dù
dưới màu áo nào đi nữa.
Lợi ích dân tộc một mặt sẽ quyết định tính
chính danh của nhà cầm quyền và mặt khác là ngọn lửa dễ bùng dậy dẫn
đến chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Thứ ba, xâm chiếm
Hoàng Sa, Trung Quốc có một tiền đồn có vị trí địa lý quan trọng có thể
tận dụng dòng chảy-khí hậu biển Đông: dòng hải lưu Luzon-Đài Loan mang
cá, tôm, ấu trùng cá con, san hô vào đến khu vực Hoàng Sa. Một phần tụ
bám lại đây, phần còn lại trôi về Nam Trung Bộ Việt Nam tạo nên sự đa
dạng sinh học biển, ngư trường và cảnh quan.
Vị thế tàu bè Bắc Nam của Việt Nam khi đi qua khu vực này hầu như sẽ dễ bị kiểm soát.
Thứ tư,
bài học thất thủ Hoàng Sa đã được tiếp nhận nhiều chiều và nhưng không
hẳn là thấu suốt. Bài học này gợi ý cho Bắc Việt tiếp quản Trường Sa
thật nhanh ngày 4/4/1975 song nước Việt Nam thống nhất vẫn sảy chân tại
Gạc Ma 18/3/1988, mất cảnh giác tại Bauxite Tây Nguyên, rừng đầu nguồn,
bãi biển Đà Nẵng và những vị trí địa chiến lược khác, vốn không dễ thấy
và dễ biết như việc Hoàng Sa thất thủ.
Trung Quốc luôn tấn công Việt Nam với yếu tố bất ngờ
vào các thời điểm lễ Tết 19/1/1974, 17/2/1979 và 18/3/1988 và khi nội bộ
Việt Nam suy yếu, mất cảnh giác nhất.
Việc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc một
lợi thế chiến lược quan trọng nhưng đồng thời cũng làm lộ rõ ý đồ của
Bắc Kinh và cảnh tỉnh thế giới.
Nó là mắt xích quan trọng trong
chiến lược của Trung Quốc: xác lập đường chữ U và các hành động bành
trướng tại Trường Sa sau này.
Vấn đề Hoàng Sa và Biển Đông cho
thấy mưu đồ tranh thủ thời gian, truyền thông, tiến hành cuộc chiến tiêu
hao sinh lực và tinh thần của nước khác mà Trung Quốc đang tiến hành.
Cũng vì hành động đó, Trung Quốc sẽ phải giải quyết câu chuyện Hoàng Sa với người Việt Nam sau này và mãi mãi.
Bài thể hiện quan điểm riêng của tác giả, từ Quỹ Nghiên cứu Biển Đông. Cảm ơn hai ông Dự Văn Toán và Lê Trung Tĩnh đã đóng góp.