Đảng cộng sản Việt Nam, ngã ba đường lịch sử (phần 2) (FB Lang Anh)
Các lợi ích kinh tế được tạo ra cùng với quyền lực độc
tài không được kiểm soát đã khiến toàn bộ đội ngũ cai trị tại Trung Quốc
và Việt Nam nhanh chóng thoái hóa và đánh mất chút niềm tin lý tưởng
cuối cùng. Kết quả là họ trở thành một tập đoàn tội phạm gắn kết với
nhau bởi những khẩu hiệu chẳng ai còn tin và các món lời được tạo ra từ
bòn rút ngân sách, từ việc lạm dụng quyền lực hoặc kiếm lợi từ lợi thế
thông tin bất bình đẳng. Thực tế chế độ cộng sản đã chết từ lâu ở cả
Trung Quốc lẫn Việt Nam, còn lại chỉ là một tập đoàn cai trị độc tài
tham nhũng dưới cái vỏ cộng sản.
Những người cộng sản ở hầu hết các nước
đều giành được quyền cai trị theo những cách thức giống hệt nhau. Bằng
những khẩu hiệu tuyên truyền về một xã hội ảo tưởng, họ đặt trước mặt
những người nghèo và thất học một cái bánh vẽ và xúi họ vào lò lửa chiến
tranh. Tuy nhiên cơn điên dại tập thể cuối cùng cũng qua đi và hầu hết
người dân nhận ra mình đã bị lừa vì không hề thấy sự bình đẳng cũng như
phồn thịnh ở đâu mà chỉ thấy những ông chủ mới. Cho đến khi hàng loạt
chế độ cộng sản sụp đổ vào cuối những năm 1980, nhân loại và chính người
dân các nước đó đã phải trả những cái giá quá mức nặng nề. Dẫu sao họ
đã gặp may vì cuối cùng cũng thoát khỏi một thứ quái vật ghê sợ trong
lịch sử.
Tôi không phủ nhận rằng đã có những lớp
người cộng sản sống vì lý tưởng với niềm tin cuồng tín rằng mình duy
nhất đúng. Họ sẵn sàng phạm những tội ác không ghê tay để tiêu diệt và
buộc những người khác phải nghe mình. Giữa những người cộng sản cuồng
tín thời kỳ đầu và những tay đao phủ của nhà nước hồi giáo IS hiện nay
có sự tương đồng giống hệt nhau: Khi cắt cổ người, chúng đều cho rằng
mình đang làm vì điều đúng.
Với thứ bùa thiêng về một xã hội ảo
tưởng, nơi con người có thể hưởng thụ theo nhu cầu bất chấp năng lực tạo
ra của cải, những người cộng sản thế hệ đầu đã rất thành công trong
việc nhồi sọ và lôi kéo con người. Họ đặc biệt thành công ở những xã hội
đói nghèo với nền tảng dân trí thấp. Nhưng có lẽ khả năng trại lính hoá
xã hội, triệt hạ tri thức độc lập mới là thứ vũ khí siêu hạng của những
người cộng sản. Lenin và những đệ tử của ông ta đã diệt không gớm tay
những người Mensevich và Trotsky, dù họ cùng là những đệ tử của Marx.
Tất nhiên là bằng chuyên chính vô sản, số phận của trí thức và những kẻ
thù giai cấp còn lại thì cực kỳ thê thảm. Mao Trạch Đông diệt hàng chục
triệu người và tận diệt mọi tri thức đối lập cũng như các đối thủ chính
trị trong Đại Cách Mạng văn hoá. Ở Việt Nam, ông Hồ Chí Minh cũng dìm
chết mọi tư tưởng độc lập bằng cuộc thanh trừng nhân văn giai phẩm. Họ
hành động rất giống nhau dù quy mô khác biệt nhau và mục đích thì chỉ có
một: Tạo ra một xã hội tê liệt về tư duy và chỉ biết cúi đầu. Ở đây có
lẽ nên có một nhận xét công bằng, Hồ Chí Minh không tàn bạo như hai tiền
bối của ông ta. Trong hầu hết trường hợp, Hồ Chí Minh luôn tìm cách nấp
phía sau giật dây và đẩy thuộc cấp ra hứng chịu búa rìu (Trường Chinh
với cải cách ruộng đất, Tố Hữu với nhân văn giai phẩm).
Tuy nhiên những xã hội cộng sản đời đầu
nhanh chóng đối diện với thực tại mà họ không thể vượt qua. Do xuất phát
từ một lý tưởng sai lầm, họ thất bại trong việc tạo ra đủ của cải vật
chất nuôi sống xã hội. Mục tiêu về sự công bằng thì lại càng xa vời vì
cách thức họ kiểm soát quyền lực độc tài tự thân nó là gốc rễ tạo ra bất
bình đẳng. Cuối năm 1980, sự tan rã của hàng loạt nhà nước cộng sản
đánh dấu sự cáo chung của phong trào cộng sản toàn cầu.
Trong lúc đó, những người cộng sản ở
Trung Quốc và Việt Nam loay hoay tìm cách thay đổi để kéo dài thời gian
cai trị. Họ thấy rằng có thể vay mượn nền kinh tế thị trường vốn có năng
lực nổi trội để tạo ra của cải ở phương Tây, và dựa vào đó làm bầu sữa
nuôi sống cho bộ máy cai trị độc tài của mình. Trung Quốc tiến hành
những cải cách cho phép sự hiện diện của đầu tư nước ngoài và kinh tế tư
nhân vào cuối những năm 1970. Việt nam nối gót chậm hơn, vào khoảng
cuối những năm 1980. Cả hai chế độ cộng sản này đều gặp may, vì các nước
phương Tây sau khi chứng kiến sự tan rã của hàng loạt nhà nước cộng sản
đã cho rằng sớm muộn gì Trung Quốc hay Việt Nam cũng sẽ phải từ bỏ con
đường bế tắc ấy. Vốn nước ngoài và công nghệ đổ vào những đất nước này
và tạo ra những nguồn lực mới. Trong khi đó việc giành được quyền tồn
tại cũng khiến các lực lượng tư nhân tham gia vào việc tạo ra của cải.
Tuy nhiên đây cũng là lúc đánh dấu sự tuyệt chủng của những người cộng
sản cuối cùng. Các lợi ích kinh tế được tạo ra cùng với quyền lực độc
tài không được kiểm soát đã khiến toàn bộ đội ngũ cai trị tại Trung Quốc
và Việt Nam nhanh chóng thoái hóa và đánh mất chút niềm tin lý tưởng
cuối cùng. Kết quả là họ trở thành một tập đoàn tội phạm gắn kết với
nhau bởi những khẩu hiệu chẳng ai còn tin và các món lời được tạo ra từ
bòn rút ngân sách, từ việc lạm dụng quyền lực hoặc kiếm lợi từ lợi thế
thông tin bất bình đẳng. Thực tế chế độ cộng sản đã chết từ lâu ở cả
Trung Quốc lẫn Việt Nam, còn lại chỉ là một tập đoàn cai trị độc tài
tham nhũng dưới cái vỏ cộng sản.
Hai thứ bùa thiêng từng giúp những người
cộng sản nắm quyền là cái bánh vẽ về một xã hội bình đẳng thì nay đã
chẳng còn lừa gạt được ai khi chính họ đang là một đẳng cấp ưu tiên với
mọi đặc quyền. Tuy nhiên, thứ vũ khí siêu hạng còn lại là kiểm soát
thông tin và tiêu diệt mọi trí thức có năng lực tư duy độc lập thì họ
vẫn đang làm rất tốt. Trung Quốc kiểm soát mạng xã hội cực kỳ ngặt nghèo
và thanh trừng khốc liệt mọi trí thức đối lập. Việt Nam cũng đàn áp và
triệt hạ không tiếc tay mọi trí thức phản biện với hàng loạt án tù. Bên
cạnh đó, họ vẫn tiếp tục cố gắng duy trì hoạt động tuyên truyền để có
thể lừa gạt càng lâu càng tốt những thành phần dân trí thấp nhằm kéo dài
thời gian tồn tại. Tất nhiên đó là những nỗ lực không có ngày mai vì
theo thời gian, khi chứng kiến tình trạng tham nhũng lan tràn, khi đối
diện với sự tận diệt môi trường, những món nợ khổng lồ mà những tay cộng
sản tham nhũng mang về cho đất nước, sự tuyên truyền của bộ máy cộng
sản ngày một mất thiêng. Và cuộc cách mạng Internet đã bồi thêm những
đòn trí mạng vào bức màn sắt kiểm duyệt tư tưởng và tuyên truyền của
những chế độ cộng sản. Họ càng lúc càng mất khả năng kiểm duyệt và bóp
nghẹt các luồng tư tưởng tự do. Bên cạnh đó chính nền kinh tế thị trường
mà họ vay mượn từ các xã hội phát triển phương tây đã tạo ra sự hội
nhập và giao lưu văn hoá mà họ không thể chặn lại được. Vấn đề mà tất cả
các lãnh tụ cộng sản đều nhận ra: Không phải là có tồn tại được hay
không mà là còn tồn tại được bao lâu nữa?
Những căn bệnh trầm kha mà Trung Quốc và
Việt Nam đang mắc phải gần như giống hệt nhau. Một bộ máy tha hoá tham
nhũng đến tận gốc rễ với hiệu năng cai trị ngày càng suy giảm. Các nguồn
tài nguyên cạn kiệt và môi trường bị tàn phá nặng nề đến mức mất khả
năng duy trì cuộc sống thông thường. Tình trạng bất công lan tràn với
nạn lạm dụng quyền lực của bộ máy cai trị đã bị lưu manh hoá. Gánh nặng
nợ công đè ngập cổ người dân cộng với mức thuế phí nặng nề trong khi các
dịch vụ an sinh xã hội vô cùng tồi tệ.
Nhà lãnh đạo thuộc thế hệ thứ 5 của chế
độ cộng sản Trung Quốc là Tập Cận Bình cố gắng tìm lối thoát bằng một
cuộc đại thanh trừng với chiến dịch đả hổ diệt ruồi, nhắm mục tiêu vào
những đối thủ chính trị của ông ta và những thành phần quan chức tham
nhũng không nằm trong phe cánh của Tập. Nhưng hơn ai hết Tập Cận Bình
hiểu rất rõ rằng ông ta đang dựa vào một phe cánh tham nhũng để triệt hạ
phe cánh còn lại. Cái gọi là đấu tranh tham nhũng của Tập Cận Bình tự
thân nó thất bại ngay từ đầu khi không giải quyết được sự cai trị độc
tài: Quyền lực độc tài không được kiểm soát tự thân nó là mảnh đất màu
mỡ cho tham nhũng. Tập triệt hạ được một phe nhưng nếu Tập tước đoạt
quyền lợi hoặc chĩa mũi dùi vào phe cánh đang phò trợ ông ta thì khi đó
cái gì sẽ bảo vệ được Tập?
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sau khi
thanh trừng được đối thủ chính trị lớn nhất của mình tại đại hội XII có
vẻ cũng muốn thừa thắng xông lên với một chiến dịch học theo Tập Cận
Bình. Nền chính trị của Việt Nam có độ tản quyền cao hơn và do đó dù có
học theo thì Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng chẳng diệt nổi muỗi, chưa nói
gì đến ruồi hay hổ. Và mục đích chống tham nhũng tự thân nó mâu thuẫn
ngay từ đầu với nền chính trị độc tài.
Lá bài nguy hiểm nhất của Tập Cận Bình
nhằm kéo dài thời gian cai trị lại chẳng dính dáng gì đến bộ máy nhà
nước hay các tư tưởng tự do. Nó chính là chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà
nhiều thế hệ lãnh đạo Trung Quốc đã nối tiếp nhau vun xới như một giải
pháp dự phòng cho các bất ổn xã hội.