Giải quyết khủng hoảng căn cước để ra khỏi bế tắc chính trị (Nguyễn Gia Kiểng)
"...mỗi người trong số những người đấu tranh cho dân chủ, còn khá
thưa thớt hiện nay, cần một cố gắng nội tâm để hoà giải với chính mình,
để là chính mình, sống với căn cước thực của mình và đóng góp xây dựng
một căn cước thực cho tập thể của mình. Cố gắng nội tâm này sẽ bớt khó
khăn nếu mỗi chúng ta tự trang bị cho mình một chút triết lý: điều cao
cả nhất trong một đời người là góp phần vào một dự án đổi đời, là làm
tác nhân thay vì nạn nhân của đời minh và của lịch sử..."
Giải quyết khủng hoảng căn cước để ra khỏi bế tắc chính trị (Nguyễn Gia Kiểng)
Nếu không tự dối mình thì phải nhìn nhận đối lập dân chủ Việt Nam đang
rất bối rối. Các tổ chức đối lập hải ngoại không nhiều và không phải tất
cả đều là những tổ chức dân chủ đúng nghĩa. Trong nước, phong trào dân
chủ không tiếp nhận được nhiều người mới trong khi giữa những khuôn mặt
quen biết, vốn đã không bao nhiêu, thì sự gắn bó có phần giảm đi thay vì
tăng lên.
Qua những trao đổi gần đây, một người đấu tranh rất
tích cực bày tỏ với tôi sự thất vọng đối với hầu hết các khuôn mặt dân
chủ và với tình trạng của phong trào dân chủ nói chung. Một thân hữu có
uy tín khác nhận định : "Nói bi quan là còn nhẹ đấy, số người tự coi là
dân chủ đã thưa thớt mà lại còn chê bai nhau, bôi nhọ nhau, có khi chỉ
vì những chuyện nhỏ nhặt, chưa nói là còn có những thành phần thực sự
không đáng tin cậy. Mạnh ai nấy làm, chẳng ra hàng ngũ, lớp lang gì cả".
*
Sự
rã rượi này thoạt nhìn có vẻ nghịch lý. Mức độ đàn áp của chính quyền
cộng sản đã giảm rõ rệt. Chính chế độ cộng sản cũng đang chao đảo. Phân
hóa nội bộ đã đạt tới cao điểm, và đà phân hóa này khó có thể đảo ngược
bởi vì đảng cộng sản không còn một nhân vật nào đủ uy tín để hòa giải và
hàn gắn các phe phái. Kinh tế cũng đang khủng hoảng nặng, đời sống của
đại bộ phận dân chúng suy sụp, bất mãn lên cao như chưa từng thấy trong
hơn hai mươi năm qua. Mọi người, kể cả đa số đảng viên cộng sản, chờ đợi
một thay đổi. Bối cảnh này đáng lẽ phải rất thuận lợi cho đối lập dân
chủ.
Nhưng nếu nhìn kỹ hơn một chút thì không có gì phải ngạc
nhiên. Quả nhiên chính sách đàn áp đã là một lý do khiến một kết hợp dân
chủ không hình thành được, nhưng nó không phải là lý do duy nhất. Tại
hải ngoại không hề có đàn áp, nhưng sau 33 năm vẫn chưa có được một tổ
chức chính trị có tầm vóc. Một cách lương thiện, có thể nói rằng chính
sách đàn áp đối lập của đảng cộng sản vừa là một nguyên nhân vừa cung
cấp một biện minh cho sự yếu kém nội tại của đối lập dân chủ Việt Nam.
Tại hải ngoại người ta nói rằng muốn đấu tranh thì phải ở trong nước,
quốc nội là chủ lực, hải ngoại chỉ có vai trò yểm trợ. Còn ở trong nước
người ta biện luận rằng vì chính quyền cộng sản đàn áp thẳng tay nên
không làm gì được. Sự giảm sút của mức độ đàn áp đã có tác dụng buộc
những người dân chủ Việt Nam phải đối diện với chính mình.
Ngày
nay nếu muốn và biết hành động một cách khôn ngoan chúng ta có thể xây
dựng được một lực lượng dân chủ hiện diện ở cả trong lẫn ngoài nước, và
đủ mạnh để áp đặt tiến trình dân chủ hóa. Lực lượng này cũng sẽ có sức
thu hút với chính các đảng viên cộng sản mà đa số, theo tôi, cũng muốn
đất nước được quản trị một cách dân chủ và lương thiện. Trở ngại chính
cho sự hình thành của lực lượng dân chủ này phải được tìm kiếm trong
chính con người Việt Nam, kể cả những người dân chủ.
Và nhiều
người đã tìm kiếm. Đã có nhiều bài nghị luận đặc sắc của các tác giả có
uy tín nói đến khủng hoảng lòng tin, khủng hoảng đạo đức, khủng hoảng
nhân cách. Những suy tư đó nhiều khi đưa đến những kết luận thực tiễn,
như trước hết phải tập trung cố gắng nâng cao dân trí đã, hay chỉ có thể
hy vọng là đảng cộng sản tự vỡ hay tự tách.
Nhưng nếu như thế
thì tương lai dân chủ Việt Nam rất mờ mịt, bởi vì nâng cao dân trí là
một cố gắng dài hạn. Nếu trong suốt một thế hệ - cứ tạm lấy cột mốc 1975
- chúng ta vẫn chưa đi đến đâu, thậm chí có người coi người Việt Nam đã
xuống cấp chứ không cải thiện, thì đến bao giờ mới nâng được dân trí
lên tới mức độ cần thiết để cuộc vận động dân chủ có thể thực sự bắt đầu
?
Còn chờ đợi đảng cộng sản tự vỡ hay tự tách cũng rất khó, bởi
vì nó đi ngược với một nhận định đã được lập lại nhiều lần trong nhiều
khảo cứu tâm lý, xã hội cũng như chính trị, và qua các kinh nghiệm lịch
sử : đó là không thể chờ đợi những người đang thụ hưởng một thực tại xã
hội tự nguyện hành động để thay đổi thực tại đó. Trong chiều sâu, con
người luôn luôn hành xử một cách thuần lý, do đó không muốn và cũng
không thể thay đổi một thực tại đang có lợi cho mình, ngay cả nếu trong
thâm tâm mình thấy thực tại này là tệ hại. Dĩ nhiên vẫn có những người
đủ lương thiện và dũng cảm để chống lại một chế độ đang có lợi cho mình,
nhưng họ là một thiểu số rất nhỏ và không thể áp đặt được sự thay đổi.
Một
cách nhìn khác về tình trạng bần thần hiện nay của đối lập dân chủ Việt
Nam là coi nó như là hậu quả tất nhiên của một giai đoạn xét lại bắt
buộc. Niềm tin của tôi là phong trào dân chủ, và đất nước, sẽ vươn lên
sau cuộc xét lại này.
*
Tôi cũng đã tìm nguyên nhân yếu
kém của phong trào dân chủ trong chính con người Việt Nam và nhận định
rằng chúng ta thiếu văn hóa tổ chức. Giải thích "văn hóa tổ chức" là một
giải thích lạc quan. Nó không cho rằng dân trí Việt Nam thấp, nó chỉ
xác định một yếu tố thiếu trong văn hóa của chúng ta và cần được học
hỏi: văn hóa tổ chức. Nó cũng dễ hiểu vì sinh hoạt tổ chức là một
môn học không được giảng dạy trong các trường học Việt Nam, do đó người
ta có thể có học vị và kiến thức cao mà không biết đến ngay cả sự hiện
hữu của nó. Dầu vậy nó rất cần thiết và cũng không khó ; một người bình
thường có thể học những điểm chính trong một thời gian vừa phải.
Một
trong những khái niệm cơ bản của môn tâm lý xã hội, cốt lõi của văn hóa
tổ chức, là khái niệm căn cước. Những điều thường được gọi là khủng
hoảng đạo đức, khủng hoảng nhân cách, v.v. thực ra chỉ là những thể hiện
cá biệt của một khủng hoảng nền tảng hơn : khủng hoảng căn cước
(identity crisis). Người ta không biết mình là ai, có thể và phải sống
như thế nào, có thể và phải làm gì. Cần ghi nhận là đã có nhiều người, ở
những góc nhìn khác nhau cảm nhận được cuộc khủng hoảng căn cước này.
Một thí dụ : có một tờ báo điện tử có phẩm chất cao lấy cuộc khủng hoảng
này làm tên gọi cho mình : Talawas. Ta là cái gì ? Một chất vấn về căn
cước.
*
Nhưng khái niệm căn cước là gì ?
Đó
là toàn bộ những yếu tố định nghĩa mỗi người và cho phép mỗi người ý
thức về sự hiện hữu của mình. Mỗi người đều mang một căn cước và được
nhìn như một căn cước. Mỗi chúng ta đều có một căn cước cá nhân và nhiều
căn cước tập thể. Những căn cước tập thể này mô tả chúng ta là thành
viên của tổ chức nào hay thuộc thành phần nào. Thí dụ một người Việt
Nam, theo đạo Phật, công nhân hãng Nam Thành.
Hai điểm quan trọng
cần được đặc biệt nhấn mạnh. Một là phần lớn những hành động của ta đều
nhắm cải thiện một yếu tố nào đó trong căn cước cá nhân, căn cước của
ta là chính ta. Hai là căn cước cá nhân chủ yếu gồm những căn cước tập
thể, cho nên khi những căn cước tập thể này quá ít, hoặc không rõ ràng
thì chính căn cước cá nhân cũng nghèo nàn, mờ nhạt hay rối loạn.
Trước hết cần một định nghĩa cho căn cước tập thể.
Đó là một phần của mỗi người và gồm hai thành tố, một là ý thức rằng mình là thành viên của một tập thể nào đó, hai là giá trị, ý nghĩa và sự gắn bó mà ta dành cho tư cách thành viên này.
Cả
hai yếu tố này đều quan trọng. Ý thức rằng mình là người Việt chưa đủ
khiến ta thực sự là người Việt. Thái độ và hành động của ta như là một
người Việt Nam còn tùy thuộc tình cảm mà ta dành cho sự kiện mình là
người Việt.
Trong một hồ sơ nộp cho một cơ quan nhà nước, anh
Nguyễn Văn Ba khai anh cao 1m70, tóc đen, mắt nâu, lông mày rậm, sinh
năm 1968 tại Sài Gòn, có vợ và hai con, tốt nghiệp trường Đại Học Sư
Phạm năm 1991, dạy học tại trường trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu
cho đến năm 2000, rồi làm kế toán trong công ty giầy dép Nam Thành cho
tới nay.
Ngoài những dữ kiện rất cá nhân như chiều cao và màu
tóc, ta có thể nhận xét là anh Ba thuộc nhiều tập thể : tập thể những
người trung niên, tập thể những người tốt nghiệp đại học, tập thể những
người xuất phát từ những gia đình thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa, tập
thể giáo chức, tập thể công nhân hãng Nam Thành. Đồng thời cũng có những
tập thể mà anh Ba không khai ra nhưng người ta có thể đoán được : anh
ta thuộc loại người tương dối năng động vì đã dám đổi nghề để có thu
nhập cao hơn. Rất có thể anh ta thuộc thành phần bất mãn đối với chế độ
cộng sản vì đã phải bỏ nghề dạy học, một nghề tương đối được kính trọng,
để đi làm công nhân ; hơn nữa trong thời gian đi học anh không tham gia
Đoàn Thanh Niên Cộng Sản bởi vì nếu có anh đã khai, điều này chỉ có lợi
khi giao dịch với một cơ quan nhà nước.
Thí dụ này cho thấy căn
cước của một người chủ yếu là những tập thể mà người đó đã là thành
viên, nghĩa là những căn cước tập thể. Mỗi căn cước tập thể, tùy mức độ
chính xác, nói lên một khía cạnh của đương sự.
Chúng ta biết rất
ít về anh Ba. Lý lịch của anh, cũng giống như trường hợp của đa số người
Việt, chỉ gồm những tập thể mà anh là thành viên một cách ngẫu nhiên.
Anh không chọn được ngày sinh, nơi sinh và cha mẹ. Anh học đại học sư
phạm có lẽ là vì đằng nào cũng phải học một trường nào đó. Những tập thể
trung niên, người miền Nam, có trình độ đại học... không phải là những
tập thể do anh chọn và cũng không thể từ chối anh. Vả lại, đây chỉ là
những tập thể thụ động, những sự xếp loại, không thành tổ chức và không
có sinh hoạt. Quan hệ của anh đối với công ty Nam Thành, cũng như với
trường Nguyễn Đình Chiểu có thể chỉ là những quan hệ trao đổi lạnh nhạt,
anh bán thời gian của công sức để được trả lương nuôi gia đình. Rất có
thể anh chẳng có ràng buộc tình cảm nào với hai tập thể này ; chúng
không phải là những căn cước tập thể đúng nghĩa đối với anh bởi vì, một
lần nữa, cần nhắc lại là một căn cước tập thể đòi hỏi cả ý thức rằng
mình thuộc một tập thể lẫn sự ràng buộc tình cảm với tập thể đó. Hai tập
thể công ty Nam Thành và trường Nguyễn Đình Chiểu cũng không làm phong
phú hơn bao nhiêu căn cước cá nhân của anh Ba. Căn cước cá nhân của anh
Ba thật nghèo nàn. Anh gần như một người không căn cước, một con số
trong một dãy số.
Anh ta chưa hề tự nguyện dấn thân trong một tập
thể có tổ chức nào cả cho nên người ta khó có thể biết anh ta là người
như thế nào, có khả năng đến đâu và muốn gì. Chính qua các tổ chức mà
mình tham gia và gắn bó mà một người tự tiết lộ về những nguyện vọng, ý
chí và khả năng. Tại sao ? Khi một người thực sự muốn đổi hiện trạng -
xã hội mà mình đang sống hoặc chỗ đứng của mình trong xã hội - thì phản
ứng tự nhiên là tìm những người cùng mục tiêu để kết hợp, tạo sức mạnh
để thực hiện mục tiêu chung, và bù lại chấp nhận một số hệ lụy và hy
sinh như là cái giá phải trả để đạt nguyện ước. Tổ chức như vậy là dụng
cụ của sự thay đổi, một nhịp cầu nối liền một hiện tại phải từ bỏ với
một tương lai phải đạt tới. Mặt khác, xét cho cùng thì mọi hành động có
chủ ý của chúng ta đều nằm trong một dự kiến tương lai, nghĩa là một
thay đổi so với hiện tại, nào đó. Khi dự kiến tương lai này thiếu vắng
thì mọi hành động của chúng ta đều mất định hướng và trở thành vô nghĩa.
Sự kiện một người không tham gia một tổ chức nào nói lên một điều
nghiêm trọng : đây là một người không có dự án tương lai, cuộc sống và
những hành động không có ý nghĩa.
Các tổ chức, mà ta gọi chung là
xã hội dân sự, không thể thiếu trong cuộc sống của những con người văn
minh. Nhưng không phải chỉ có thế. Tổ chức ngoài chức năng dụng cụ của
sự thay đổi còn tác động trên các thành viên và thay đổi chính họ. Tổ
chức là một môi trường hội nhập gắn bó các thành viên với nhau khiến họ
có cùng một số kiến thức và cùng một cách nhìn trên nhiều vấn đề. Tổ
chức cũng là một môi trường thi đua, một môi trường trong đó các ý kiến
được sản xuất, phê phán và sàng lọc. Ý kiến của các cá nhân riêng lẻ vì
vậy thường chỉ là những ý kiến chưa qua thử thách và do đó không có gì
bảo đảm là đúng.
Trở lại trường hợp của anh Nguyễn Văn Ba, rất có
thể anh không hài lòng với hiện tại nhưng không có chỉ dấu nào là anh
sẵn sàng hành động để thay đổi nó. Anh có thể tự nghĩ là mình có phẩm
cách và văn hóa hơn hẳn anh chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Phường, anh cũng có
thể nghĩ viên phó giám đốc công ty Nam Thành là một tên thượng đội hạ
đạp, anh cũng có thể nghĩ là mình có một số ý kiến về đất nước. Tuy vậy,
tất cả chỉ là những suy nghĩ riêng tư chưa qua thử thách, rất có thể là
sai.
Tóm lại, chúng ta không biết gì chính xác về anh Ba. Đây là
một con người hầu như không có căn cước. Con người này có thể phản ứng
một cách không ngờ trong một hoàn cảnh nào đó. Nguyên nhân khiến căn
cước của anh Ba mờ nhạt là sự thiếu vắng những căn cước tập thể. Sự
thiếu vắng này có thể là vì xã hội dân sự bị bóp nghẹt và các tổ chức bị
cấm đoán dưới chế độ cộng sản nhưng vẫn là một thảm kịch đối với anh
Ba. Ai cũng muốn được quí trọng. Cái nhìn của người khác về ta quan
trọng lắm, cho nên dù có những người tự nhủ rằng "chí ta ta biết, lòng
ta ta hay", sự tìm kiếm một căn cước tốt nằm trong bản năng của con
người. Vì vậy mới có sự khoe khoang, mới có những người cố học để lấy
cho bằng được những bằng cấp cao, v.v. Nhưng quả thực là ít người Việt
Nam ý thức được rằng giá trị thực sự của một con người được biểu lộ qua
những căn cước tập thể đúng nghĩa, nghĩa là những tổ chức mà mình tự
nguyện tham gia.
Trong căn cước của anh Ba có một tập thể khá rõ
rệt trong đó, dù không chọn lựa tham gia, anh có đóng góp và cũng chịu
nhiều hệ lụy : dân tộc Việt Nam. Nhưng tư cách thành viên trong tập thể
này có thể là thảm kịch lớn nhất đối với anh. Đây là một tập thể trong
đó không những anh ta không được nói và làm những gì mình muốn mà còn
bắt buộc phải dối trá, phải khen những gì mình muốn chê, phải ca tụng
những người mình muốn chửi. Tóm lại, phải giấu mặt và mang căn cước giả.
Tình trạng này không phải là một đặc sản của chế độ cộng sản. Trong
suốt dòng lịch sử, người Việt Nam đã chỉ là những người nô lệ, phải cúi
đầu trước vua quan ; sự kềm kẹp có lẽ còn hà khắc và dữ dội hơn nhiều so
với ngày nay. Nhưng điều khác là thế giới đã thay đổi. Ngày xưa người
ta nghĩ thân phận nô lệ là một định mệnh, ở đâu cũng thế, không có giải
pháp nào khác. Ngày nay người ta biết có những cuộc sống xứng đáng hơn.
Người ta biết thân phận bị chà đạp của mình là một ngoại lệ chứ không
phải là một thông lệ, người ta biết mình là nạn nhân, và người ta rất
đau đớn.
Chân dung của anh Ba cũng là chân dung tiêu biểu của đại
đa số người Việt Nam hiện nay. Trừ một thiểu số hãnh tiến rất nhỏ nhưng
chiếm đoạt và khống chế tất cả, xã hội Việt Nam ngày nay là xã hội của
một khối người không được sống thực, cô đơn và bất lực, nhẫn nhục ngoài
mặt nhưng nổi loạn trong lòng. Trong cuộc sống bị dồn ép trong sự giả
dối đó, mỗi người, để tồn tại, cố gắng bằng mọi phương tiện để khôn hơn
người khác, cuối cùng người tốt cũng trở thành kẻ gian. Sự băng hoại đạo
đức, khủng hoảng nhân cách chỉ là những biểu lộ của một cuộc khủng
hoảng khác : khủng hoảng căn cước.
*
Tại sao các tổ chức dân chủ không mạnh lên được ?
Trước
hết, phải nhắc lại một lần nữa, là phần lớn những người dân chủ không ý
thức được sự cần thiết của đấu tranh có tổ chức đến mức độ phải tham
gia một tổ chức bằng mọi cách cho nên vẫn tạm hài lòng với lối đấu tranh
nhân sĩ hoặc trong khuôn khổ những nhóm bạn bè vài người. Cũng có những
người có ý định kết hợp với một số người khác để tiến tới một tổ chức,
nhưng rồi thất vọng và bỏ ý định đó vì khám phá ra rằng những người mà
mình muốn kết hợp không như mình nghĩ lúc ban đầu, nghĩa là đã hiểu lầm
căn cước. Và cũng có những người đã tham gia những tổ chức nhưng rồi
thất vọng và ra đi. Lý do thường được nêu ra là họ thấy tổ chức chẳng ra
gì, hoặc có những người chẳng ra gì, nghĩa là họ đã lầm về căn cước của
tổ chức. Điều này có thể đúng nhưng không đúng trong mọi trường hợp.
Một lý do khác là họ đã đến với tổ chức với một căn cước không trung
thực, hoặc chủ quan, hoặc giả tạo, đẹp hơn sự thực, và muốn được đánh
giá cao, được có những vai trò quan trọng. Sau một thời gian sinh hoạt,
căn cước thực sự của họ được phơi bày, hình ảnh mà họ muốn có không phải
là hình ảnh mà tổ chức nhìn thấy nơi họ.
Tuy nhiên, lý do quan
trọng hơn cả là một ngộ nhận về bản chất của đấu tranh chính trị, theo
đó người ta có thể đấu tranh chính trị mà không cần tổ chức, hoặc một tổ
chức chính trị có thể chế tạo ra một cách nhanh chóng khi cần, trong
một vài tháng hoặc một vài năm, chung quanh một hay một vài nhân vật có
uy tín. Nếu không có ngộ nhận này thì đã không có hiện tượng nhiều "nhà
dân chủ" tuyên bố một cách rất tự nhiên là không thuộc một tổ chức nào.
Nhưng đấu tranh chính trị bao giờ cũng chỉ là đấu tranh giữa các tổ
chức. Không thể có đấu tranh giữa những cá nhân và một chính quyền, hay
một đảng cầm quyền. Một khối cá nhân dù đông đảo và nhất trí đến đâu
cũng không thể đánh bại được một chính quyền dù rất yếu, rất chao đảo và
bị thù ghét. Đây là một qui luật không có ngoại lệ trong lịch sử của
mọi dân tộc.
Nhưng một tổ chức chính trị là gì ? Đó là một đội
ngũ gắn bó, có phân công và có kỷ luật, được nhìn nhận như là đại diện
cho một số giá trị và chọn lựa chính trị. Nó là một căn cước chính trị
cho các thành viên và cảm tình viên. Nó chỉ có thể là thành quả của một
cố gắng bền bỉ trong nhiều năm.
Căn cước tập thể là cốt lõi của
mọi cuộc đấu tranh chính trị ; nó có sức động viên mạnh hơn hẳn những
mâu thuẫn quyền lợi. Giai đoạn Pháp thuộc đã là giai đoạn mà nước ta
được thăng tiến về mọi mặt, cả đời sống vật chất lẫn phẩm giá con người
Việt được cải thiện như chưa từng thấy trước đó. Dầu vậy đã có rất nhiều
người Việt Nam sẵn sàng hy sinh tính mạng để chống lại người Pháp và
những người này được đại bộ phận quần chúng Việt Nam ủng hộ. Tại sao nếu
không phải là vì căn cước Việt Nam ? Một cách tương tự, người Mỹ đã
giúp Việt Nam rất nhiều và không hề cướp đoạt một tài nguyên nào của
Việt Nam, hơn nữa họ lại can thiệp vào Việt Nam vì một lý do chính đáng
là bảo vệ tự do và dân chủ, nhưng vẫn có đông đảo người Việt, kể cả
nhiều trí thức lớn, ủng hộ đảng cộng sản "chống Mỹ cứu nước".
*
Vận
động quần chúng nổi dậy hình như là mục tiêu của hầu hết các tổ chức
đối lập. Niềm tin căn bản được nhắc lại nhiều lần là ở đâu có áp bức ở
đó có đấu tranh. Qui luật này không sai, vấn đề là giữa áp bức và vùng
dậy đấu tranh có một thời gian, mà thời gian lại là tất cả trong đấu
tranh chính trị. Tại sao phải có thời gian đó và thời gian đó cần có để
hoàn thành cái gì ?
Trong một bài viết trước đây ("Chọn lựa giữa vận động quần chúng và chính trị xa lông ?", Thông Luận số 213, tháng 4-2007), tôi đã phân tích điểm này. Muốn có nổi dậy đấu tranh phải có ít nhất ba điều kiện:
Một
là khối người bị áp bức ý thức rõ ràng rằng họ là một tập thể gắn bó
với nhau trong một số phận chung và chỉ có một giải pháp cho toàn bộ tập
thể chứ không thể có giải pháp cá nhân cho mỗi người. Nói cách khác,
khối nạn nhân phải có căn cước tập thể đúng nghĩa theo định nghĩa ở phần
trên.
Hai là tập thể nạn nhân phải nhận diện được rõ ràng một
tập thể địch như là nguyên nhân của những thua thiệt mà họ phải chịu
đựng. Nói cách khác, căn cước của tập thể địch đối tượng của cuộc đấu
tranh cũng phải được phát hiện.
Ba là phải có một tổ chức đủ mạnh để động viên và chỉ đạo cuộc đấu tranh đòi thay đổi.
Đây
không phải là một sáng tạo lý thuyết mới mà chỉ là một kết luận rút ra
từ kinh nghiệm lịch sử của mọi dân tộc và đã được sự đồng tình của mọi
nhà nghiên cứu chính trị và xã hội có thẩm quyền .
Sau Thế chiến
II, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã động viên được quần chúng khi họ nhân danh
giai cấp bần cố nông bị bóc lột (điều kiện 1) chống lại giai cấp địa
chủ bóc lột (điều kiện 2) và vì họ đã có sẵn một đảng được thành lập từ
hơn hai thập niên trước (Đảng Cộng Sản Việt Nam được chính thức thành
lập tại Quảng Châu năm 1930, nhưng thực ra họ đã bắt đầu hoạt động đầu
thập niên 1920). Tại mọi nước khác, các cuộc cách mạng cũng đều đã xảy
ra trong những điều kiện tương tự. Cũng cần lưu ý là một chính quyền khó
có thể được lấy làm tập thể địch, hay đối tượng đấu tranh, bởi vì nó
gồm đủ mọi loại người và do đó không có căn cước rõ rệt. Trong một chính
quyền có những cường hào nhưng cũng có những người đáng mến và đáng
thương, có Bùi Tiến Dũng cá độ bóng đá hai triệu USD, nhưng cũng có
những nhân viên sở giáo dục chạy gạo từng ngày. Các đảng cộng sản tấn
công các chính quyền bằng cách cáo buộc các chính quyền đó là dụng cụ
của giai cấp bóc lột. Marx mỉa mai các chính quyền như là "ban chấp hành
của giai cấp tư sản".
Chưa gây được ý thức căn cước rõ rệt của
tập thể ta và tập thể địch, chưa có đội ngũ mạnh mà đã kêu gọi quần
chúng nổi dậy, cùng lắm có thể gây được tiếng vang giới hạn nhất thời
nhưng chỉ có tác dụng đánh lạc sự chú ý khỏi những cố gắng nghiêm chỉnh,
trong đó cố gắng quan trọng nhất là xây dựng tổ chức đấu tranh.
*
Vậy phải làm gì để đưa cuộc vận động dân chủ ra khỏi bế tắc và vươn lên?
Không
có giải pháp mầu nhiệm nào cả. Ai nói cứ làm như thế này thế nọ thì
chắc sẽ thắng lợi có nhiều triển vọng là một người tâm thần không bình
thường. Không thể có giải pháp đơn giản. Cuộc cách mạng dân chủ là một
cuộc cách mạng rất lớn và khó khăn, bởi vì nó không chỉ là một cuộc cách
mạng chính trị mà còn là một cuộc cách mạng văn hóa. Nó cũng không đi
theo con đường duy nhất được biết tới từ xưa đến nay trong lịch sử nước
ta: bạo lực. Nó càng khó vì nếu dân tộc ta có truyền thống chống ngoại
xâm thì lại hầu như không có kinh nghiệm đấu tranh thay đổi chính quyền
tồi dở.
Dầu vậy, sự hiểu biết tự nó cũng đã là một nửa của lộ
trình. Ít nhất nó giúp ta không phí phạm thời giờ và nghị lực cho những
động vọng vô ích, và không rơi vào sự tuyệt vọng. Nếu chúng ta hiểu rằng
khủng hoảng căn cước là trở ngại chính của cuộc vận động dân chủ thì
tình thế không đến nỗi bi quan như là nếu xã hội ta đang thực sự khủng
hoảng về đạo đức và nhân cách.
Khủng hoảng căn cước chủ yếu là do
con người không dám đảm nhận căn cước thực của mình. Người ta không dám
đảm nhận, để xây dựng, căn cước của mình - để là chính mình, nói điều
mình nghĩ, làm việc mình thấy nên làm - do cảm giác cô đơn và bất lực.
Như vậy thì có giải pháp. Đó là đem lại niềm tin rằng những người muốn
dân chủ cho đất nước có đội ngũ. Niềm tin này sẽ đem lại cho họ sự dũng
cảm cần thiết để đảm nhận căn cước của mình, từ đó tiến đến xây dựng một
căn cước tập thể của những người dân chủ. Dám đảm nhận căn cước thực
của mình tự nó đã là một vũ khí quyết định. Niềm tin này chỉ có thể đến
với sự xuất hiện của một lực lượng dân chủ mạnh, hoặc được nhìn nhận
như có tiềm năng trở thành mạnh và đưa cuộc vận động dân chủ đến thắng
lợi.
*
Làm thế nào đê xây dựng lực lượng này là một vấn
đề còn cần được thảo luận, nhưng ngay trong lúc này nếu chúng ta có thể
đồng ý với nhau trên một vài xác quyết thì chúng ta cũng đã khai thông
được khá nhiều.
Một là tất cả mọi hoạt động dân chủ phải được
đánh giá qua tiêu chuẩn chúng đóng góp gì cho việc xây dựng một lực
lượng dân chủ ?
Hai là không có việc một tổ chức được thành lập,
do cố gắng mà lớn dần lên và đi đến thắng lợi. Tổ chức chính trị có tầm
vóc nào cũng đều là thành quả của một tiến trình sáp nhập và thống nhất
liên tục của nhiều tổ chức. Thành công của một tổ chức nhỏ phải được
hiểu như là được góp phần xây dựng một tổ chức lớn. Tất cả mọi tổ chức
dân chủ hiện nay đều là những tổ chức nhỏ.
Ba là trên lộ trình
xây dựng tổ chức, trở ngại lớn nhất là người ta không đến với nhau và
với tổ chức với căn cước thực của mình, dù đó điều kiện bắt buộc cho một
hợp tác lâu dài.
Giải quyết được cuộc khủng hoảng căn cước này
thì cuộc vận động dân chủ có mọi triển vọng ra khỏi bế tắc. Muốn như thế
thì mỗi người trong số những người đấu tranh cho dân chủ, còn khá thưa
thớt hiện nay, cần một cố gắng nội tâm để hoà giải với chính mình, để là
chính mình, sống với căn cước thực của mình và đóng góp xây dựng một
căn cước thực cho tập thể của mình. Cố gắng nội tâm này sẽ bớt khó khăn
nếu mỗi chúng ta tự trang bị cho mình một chút triết lý: điều cao cả
nhất trong một đời người là góp phần vào một dự án đổi đời, là làm tác
nhân thay vì nạn nhân của đời minh và của lịch sử.
Nguyễn Gia Kiểng
(Thông luận 226, 2008)