Nhìn lại những chính sách hội nhập cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung - 6 (Nguyễn Văn Huy)

Phụ lục

Sau đây là ba bài viết của Học giả Nguyễn Văn Nghiêm (Annaheim, California, Hoa Kỳ) gởi Nguyễn Văn Huy.

I. Những nỗi bất bình của đồng bào Thượng

Thân tặng Nguyễn Văn Huy,

Nếu có thể được, Huy cho đăng phần 2 trên báo Thông Luận để nhiều người được biết vấn đề đồng bào Thượng ở Việt Nam

Anh,

Nguyễn Văn Nghiêm

(Trả lời cuộc phỏng vấn lần thứ hai của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) sáng Chủ nhật, ngày 9/2/2003)


Một toán lính người Thượng thuộc quân đội Việt Nam Cộng Hòa chuẩn bị đi tuần tại Buôn Đôn, Cao nguyên Trung phần vào năm 1964

VOA : Kinh nghiệm về các sắc dân Thượng từ đâu mà có ? Ông tiếp xúc với của sắc dân Thượng trong trường hợp như thế nào ? Người dân miền núi có những đặc tính gì nổi bật ?

Nguyễn Văn Nghiêm : Tôi có kinh nghiệm về các sắc dân Thượng ở miền Bắc từ nhỏ. Quê tôi ở Sơn Tây. Quê bà nội là nơi đã sinh ra hai vị vua anh hùng cứu nước là Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng và Vua Ngô Quyền. Cửa hàng buôn bán của mẹ tôi ở gần núi Ba Vì. Trong số khách mua hàng có nhiều đồng bào thiểu số, người Mường, người Mán, bây giờ gọi là người Dao. Một bà người Mường là vợ vị quan lang ở núi Ba Vì đã nhận tôi làm con nuôi. Mỗi lần ra mua hàng bà thường bế ẵm tôi và cho tôi nhiều quà. Bây giờ tôi vẫn thương nhớ bà. Lớn lên đi học, đến kỳ nghỉ hè, thỉnh thoảng tôi lại được lên chơi trên đồn điền bác tôi ở Tuyên Quang. Dân trong vùng toàn là người Thổ, bây giờ gọi là người Tày. Họ rất thương yêu tôi, thường cõng tôi đi rừng tìm hoa quả và các thứ củ. Tôi cũng rất thương yêu họ.

Sau năm 1954, vào Nam, tôi được bổ nhiệm làm việc ở Cao Nguyên, nhất là được làm việc trực tiếp với đồng bào Thượng, thổ dân ở trên đó, gần 20 năm, nên tôi lại có thêm nhiều kinh nghiệm về đồng bào Thượng ở miền Nam.

Đặc tính nói chung của đồng bào miền núi Việt Nam thường là chân chất, mộc mạc, thật thà, nhất là đức tính trọng sự tín nghĩa. Nếu đã hứa điều gì thì phải thực hiện điều đó, nếu hứa rồi mà không thi hành hoặc thi hành khác đi thì đồng bào Thượng bảo là "nói dối, nói láo", họ không còn tin nữa. Đồng bào có phong tục kết anh em rất cảm động. Những người hợp nhau, thông cảm với nhau thường kết anh em với nhau. Khi đã kết anh em thì coi nhau còn hơn ruột thịt, quan tâm đến nhau, giúp đỡ nhau, và nhất là trung thành với nhau suốt đời. Tôi rất hân hạnh và rất sung sướng được kết anh em với rất nhiều đồng bào Thượng ở các bộ lạc trên Cao Nguyên.

VOA : Trong mấy năm trở lại, báo chí cả trong lẫn ngoài nước đều loan tin về vụ nổi dậy của các sắc tộc thiểu số ở Cao Nguyên Trung Phần theo một mức độ hoặc một góc cạnh nào đó. Điều này chắc chắn đã gợi lại cho ông nhớ lại những kinh nghiệm khi ông còn phục vụ trong tư cách sĩ quan cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũ. Xin ông vui lòng thuật lại những nỗi bất bình của đồng bào Thượng mà ông đã được nghe tận tai, thấy tận mắt trong lúc làm việc với đồng bào ngày đó, và nguyên nhân vì đâu mà đồng bào lại bất bình như vậy ?

Nguyễn Văn Nghiêm : Sự bất bình của đồng bào Thượng bắt đầu từ sau tháng 3/1955, khi tổ chức Hoàng Triều Vương Thổ bị hủy bỏ, quy chế riêng biệt ban hành bới Cựu Hoàng Bảo Đại, trong đó có sự tôn trọng quyền lợi của đồng bào và dành nhiều ưu đãi cho đồng bào không còn nữa. Lúc ấy người Kinh bắt đầu lên Cao Nguyên đông đảo. Sĩ quan, công chức, trí thức Thượng rành tiếng Pháp, chưa rành tiếng Kinh, nên không được trọng dụng. Họ bị thay thế bởi người Kinh, lại thêm có chỉ thị buộc họ phải thay đổi tên họ Thượng sang tên họ Kinh, nên họ rất bất mãn. Trong trường học, tiếng Thượng không còn được dạy nữa, học sinh chỉ còn học tiếng Việt. Sách học tiếng Thượng ở trong kho các trường học được lệnh đem đốt bỏ. Tòa án phong tục Thượng ở các Tỉnh không còn được cấp ngân khoản hoạt động. Nhưng điều làm người Thượng phẫn nộ nhất lại là vấn đề quyền sở hữu đất đai. Năm 1958, Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành một Nghị định với nội dung như sau : "Người Thượng không có quyền sở hữu đất đai mà chỉ có quyền hưởng dụng hoa màu canh tác". Căn cứ vào Nghị định này, các chính quyền tự do lấy đất của các buôn Thượng để lập các dinh điền, chẳng cần hỏi ý kiến đồng bào cũng chẳng phải bồi thường cho các chủ đất nữa. Vì bất bình như vậy nên sĩ quan, công chức, trí thức và đồng bào Thượng mới nổi lên chống đối chính quyền.

VOA : Những bất bình đó đã có lần bùng nổ thành một biến cố suýt gây đổ máu và đáng lẽ gây thiệt hại lớn cho cuộc tranh đấu quốc cộng đang diễn ra thời bấy giờ. Diễn biến về vụ này như thế nào và nó đã được chính phủ miền Nam giải quyết ra sao ?

Nguyễn Văn Nghiêm : Biến cố này xảy ra vào ngày 20/9/1964. Năm (5) trại Lực Lượng Đặc Biệt Thượng ở hai tỉnh Quảng Đức và Đắc Lắc đã bị chính phủ Miên xúi giục nổi loạn, tàn sát một số cố vấn người Kinh, rồi kéo về chiếm đài phát thanh Ban Mê Thuột và bao vây thành phố này. Để giải quyết biến cố này, chính phủ miền Nam không dùng giải pháp quân sự để đàn áp mà dùng giải pháp chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội để giải quyết. Một mặt chính phủ công nhận và tích cực sửa chữa những sai lầm và bất công đối với đồng bào Thượng của chính phủ Ngô Đình Diệm cũ còn để lại ; một mặt ban hành một chính sách mới tôn trọng quyền công dân và quyền của con người đối với đồng bào Thượng ; đồng thời chính phủ kiên trì thảo luận và thuyết phục những người cầm đầu tổ chức Fulro Thượng trong cái tổ chức Fulro do chính phủ Miên tổ chức và tài trợ. Kết quả là sau 8 ngày thì 5 trại làm phản nói trên trở về trung thành lại với chính phủ, và đến ngày 1/2/1969 thì toàn bộ tổ chức Fulro Thượng đã trở về hợp tác với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

VOA : Đối với bất cứ chính phủ nào thì họ cũng rất sợ một nhóm người sắc tộc nổi dậy đòi thành lập một vùng tự trị hoặc ly khai thành một quốc gia riêng bởi vì điều này vi phạm đến sự toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi quốc gia. Theo nhận xét của ông thì người Thượng có thực sự mưu tìm một quốc gia độc lập hay vùng tự trị riêng cho họ hay không ?

Nguyễn Văn Nghiêm : Theo những tin tức phổ biến của nhà cầm quyền Việt Nam thì cuộc biểu tình của đồng bào Thượng ở Cao Nguyên vào tháng 2/2001 là do một nhóm người thuộc tổ chức Fulro cũ hiện ở Hoa Kỳ trong một tổ chức gọi là "Tổ chức Đê Ga", đứng đầu là một người tên là Ksor Kơk. Tổ chức này đã móc nối với một số người Thượng khác ở Cao Nguyên để thành lập các Tổ chức Đê Ga tại các địa phương, và kích động đồng bào Thượng biểu tình gây rối nhằm thành lập ra "Một Nhà nước Đê Ga độc lập". Tìm hiểu trên trang nhà của Hội Sáng Lập của người Thượng do Ksor Kơk làm Chủ tịch thì thấy Ksor Kơk cực lực bác bỏ lập luận của nhà cầm quyền Việt Nam mà ông ta cho là bóp méo và xuyên tạc lập trường tranh đấu của tổ chức của ông ta.

Nguyên văn lời của Ksor Kơk dịch sang tiếng Việt như sau : "Đã nhiều lần, tôi từng tuyên bố rằng tôi không hề phát biểu công khai ủng hộ sự thành lập một (Nhà nước) Đê Ga độc lập, dù là dưới tư cách cá nhân hay dưới tư cách là Chủ tịch của Hội Sáng Lập người Thượng".

Ksor Kơk bảo rằng nhà cầm quyền Việt Nam đã dịch sai danh từ "êngiê" (ê-nghi-ê) một ông ta dùng. Danh từ tiếng Thượng này có nghĩa là "tự do", người Thượng tranh đấu cho "tự do" chứ không phải cho "độc lập". Còn danh từ "President" có nghĩa là "Chủ tịch" của Hội Sáng Lập của người Thượng chứ không phải là "Tổng thống" của "cái Nhà nước Đe Ga độc lập" do nhà cầm quyền Việt Nam tuyên truyền. Ksor Kơk còn xác nhận, theo lời ông ta : "Chúng tôi chỉ mong muốn nhân dân chúng tôi được hưởng những quyền con người theo những tiêu chuẩn quốc tế đã được chấp thuận".

Tôi cũng đã phỏng vấn một số đồng bào Thượng định cư ở North Carolina thì ai cũng trả lời là họ không hề có ý định mưu cầu một quốc gia độc lập, hay một vùng tự trị riêng tách ra khỏi nước Việt Nam. Một người Thượng nói vói tôi như sau : "Chúng em chỉ chống nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, vì họ đã tước đoạt nương rẫy, đất đai của ông bà tổ tiên chúng em và đã không cho dân tộc chúng em được tự do tín ngưỡng. Chúng em mong muốn đồng bào Kinh hiểu rõ là chúng em không chống đồng bào Kinh, không chống nước Việt Nam, hay dân tộc Việt Nam, vì chúng em cũng là những sắc tộc thuộc dân tộc Việt Nam. Chúng em chỉ mong đồng bào Kinh cứu chúng em ra khỏi cái ngu, cái dốt, nó làm chúng em không có khả năng cạnh tranh sinh sống được như đồng bào Kinh, và làm cản trở sự hội nhập của chúng em vào đời sống chung của đất nước".

VOA : Theo như chỗ tôi được biết, ông vẫn có tiếp xúc qua điện thoại thăm hỏi những anh em sắc tộc thiểu số sang tị nạn tại North Carolina. Ông có nhận xét gì về sự thích ứng của họ nơi miền đất mới ? Họ có còn hoạt động để tranh đấu cho gia đình, bạn bè của họ hay không ? Nếu có, cuộc tranh đấu đó sẽ ra sao, có đạt được những bước tiến khả quan hay không ?

Nguyễn Văn Nghiêm : Tôi thấy thế hệ thứ nhất mới sang Hoa Kỳ chưa thích ứng được nhiều. Họ thiếu ngôn ngữ để giao thiệp, thiếu kỹ năng để làm được những công việc có nhiều tiền lương. Vì vậy cả vợ lẫn chồng thường phải làm hai công việc để nuôi sống gia đình và lo cho cái ăn học, và cũng vì vậy họ không có thì giờ để đi học thêm, lại cũng đã nhiều tuổi, sức khỏe cũng mau sa sút và mắc nhiều bệnh tật lắm.

Tuy nhiên sự hy sinh của họ đã không uổng phí, thế hệ thứ hai, con cái họ đã có một số người tốt nghiệp đại học, người là bác sĩ, người là kỹ sư, nhiều người khác đang là học sinh trung tiểu học và sinh viên đại học. Họ xin được nhiều loại trợ cấp để phát triển văn hóa, nghệ thuật, và làm các công tác xã hội như dạy kèm song ngữ, tiếng Mỹ và tiếng Thượng, giúp các gia đình làm thủ tục đoàn tụ, giúp người già hiểu biết luật để được hưởng trợ cấp của chính phủ theo luật định, giúp thanh thiếu niên, sinh viên học sinh phát triển đời sống lành mạnh, v.v. Tỉnh thoảng họ cũng về Việt Nam thăm viếng gia đình, cũng như cố gắng bớt ra những khoản tiền nhỏ bé của họ để chuyển về buôn làng giúp bà con bớt cảnh đói nghèo.

Họ vẫn hoạt động để tranh đấu cho quyền bình đẳng công dân và quyền sống của gia đình, bạn bè họ ở Việt Nam. Theo tôi thì tuy chỉ có 7 hay 8 ngàn người, và lại thuộc nhiều sắc tộc khác nhau nhưng họ đã biết đoàn kết keo sơn, gắn bó để tranh đấu cho một mục tiêu chung hơn là hơn một triệu đồng bào Kinh ở Hoa Kỳ này. Hoạt động của họ nặng về phương thức vận động. Họ đã vận động được cả Liên Hiệp Quốc, nhiều nước trên thế giới, nhất là Chính phủ, Quốc hội Hoa Kỳ quan tâm đến số phận đồng bào Thượng đang bị nhà cầm quyền Việt Nam bao vây, cô lập với thế giới bên ngoài để tự do đàn áp, kết án nặng nề. Cuộc tranh đấu của họ được cả đồng bào Kinh, và nhất là những cựu chiến binh Hoa Kỳ, đặc biệt là những cựu Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ giúp đỡ, ủng hộ nhiệt tình. Trong đợt gần một ngàn đồng bào Thượng được sang định cư ở Hoa Kỳ, đồng bào Kinh ở Orange County đã quyên góp được trên 20.000 đô la để gửi sang North Carolina giúp đỡ đồng bào Thượng mới tới. Ngoài phương thức vận động, biểu tình, họ còn biết sử dụng cả kỹ thuật cao như Internet, điện thoại di động để phổ biến tin tức, phổ biến lập trường tranh đấu của họ, và nhất là để liên lạc. Dù nhà cầm quyền Việt Nam có dùng cán bộ, quân đội, công an rải ra ở từng buôn, từng plei, từng gia đình Thượng trên Cao Nguyên như hiện nay cũng không thể nào tuyệt đối ngăn cản nổi họ đâu. Chứng cớ là họ vẫn lấy được tin tức chính xác từ Cao Nguyên để phổ biến trên Internet nhằm tố cáo những hành động vi phạm nhân quyền của nhà chính quyền Việt Nam với các tổ chức nhân quyền trên thế giới.

VOA : Với kinh nghiệm trước đây, với những kiến thức mà ông thu thập được trong ngành nhân chủng, ông có thể đóng góp một số ý kiến gì với hy vọng giúp chính phủ Việt Nam hiện nay giải quyết được tình trạng bất bình vẫn còn âm ỉ kéo dài từ sau năm 1975 và đã bùng nổ lớn, và được báo chí nói đến rất nhiều ?

Nguyễn Văn Nghiêm : Có một sự thật hiển nhiên là, mỗi sắc tộc thiểu số đều có một khoảng không gian sinh tồn truyền thống từ nhiều thế hệ. Họ thật sự đã làm chủ đất đai, tài nguyên ở nơi đó từ lâu đời rồi. Nhà cầm quyền trong nước hầu hết đều thuộc sắc tộc đa số, khi bành trướng sự cai trị của mình đến vùng của bất cứ sắc tộc thiểu số nào, nếu muốn tránh sự chống đối của dân chúng địa phương thì phải tôn trọng quyền lợi cố hữu của họ. Cụ thể là phải công nhận quyền sở hữu đất đai canh tác của các gia đình dân chúng. Khi khai thác tài nguyên trong vùng thì phải biết phân bố công bằng lợi tức kinh tế, phần nào dành để điều hành quốc gia, phần nào dành để giúp đỡ, phát triển đời sống của thổ dân đã từng làm chủ những tài nguyên này. Mỗi sắc tộc thiểu số lại thường có ngôn ngữ, chữ viết, tín ngưỡng, văn hóa, phong tục, tập quán riêng. Nhà cầm quyền phải biết vừa tôn trọng vừa bảo vệ sự khác biệt đó của họ, đồng thời phải có những biện pháp nâng đỡ đặc biệt để giúp họ có thể mau chóng hội nhập chung vào sinh hoạt kinh tế, văn hóa, giáo dục, quản lý hành chánh chung của cả nước. Những trí thức thiểu số một khi đã được đào tạo ra cần phải có chính sách trọng dụng với một tỷ lệ tương xứng với dân số sắc tộc thiểu số để họ có thể phục vụ nhân dân họ tại địa phương, cùng với quân nhân, công chức đa số được thuyên chuyển đến. Trong sự chung sốn phải hết sức tránh nạn kỳ thị chủng tộc, những sự khinh rẻ hay ghét bỏ người thiểu số đều phải bị trừng phạt xứng đáng.

Nếu làm khác sự thật trên đây, như là không công nhận quyền sở hữu đất đai canh tác, chiếm đoạt tất cả đất đai, tài nguyên của họ, rồi đẩy họ phải di chuyển ra sinh sống bên ngoài lề khoảng không gian sinh tồn của họ, làm cho họ trở nên nghèo đi, không đủ ăn, thiếu dinh dưỡng, đói sinh bệnh tật, văn hóa tín ngưỡng mai một, dân số suy giảm nhanh chóng thì nhà cầm quyền của sắc dân đa số đã có những hành động y hệt như thực dân, đế quốc đã từng làm với dân chúng thuộc địa. Dù nhà cầm quyền có cố ý hay không cố ý, họ cũng phạm tội ác diệt chủng, mà theo danh từ luật quốc tế ngày nay thì đã phạm tội ác chống nhân loại.

Trong cuộc phỏng vấn của hãng Internet Kicon vào tháng 2/2001, tôi có kêu gọi đội ngũ các nhà khoa học nhân văn, xã hội ở trong nước nên mạnh dạn đem kiến thức hiểu biết của mình về đời sống của đồng bào Thượng ra trình bày với nhà cầm quyền Việt Nam để tìm những biện pháp giải quyết thỏa đáng những nguyện vọng chính đáng của đồng bào. Tôi đã thấy đài BBC loan tin nhà dân tộc học Bùi Văn Đạo đã đề nghị chính phủ Việt Nam nên lấy bớt những khoảnh đất trước đây tịch thu của đồng bào Thượng để lập những nông trường của đảng, nay vẫn dư thừa còn bỏ hoang chưa khai thác thì nên trả lại cho đồng bào. Đây là một ý kiến đúng đắn làm tôi rất chú ý. Tôi cũng được đọc bài "Những Buôn Um và Cánh Rừng Chư Pá" của ký giả Uông Ngọc Dậu phổ biến trên trang nhà của Đài Tiếng Nói Việt Nam. Ngoài tính nhân bản của nội dung bài viết, tôi nghĩ ý kiến của Uông Ngọc Dậu còn đáng được dùng làm tài liệu nghiên cứu để duy trì, củng cố lại Chế độ dân chủ tự trị Buôn Plei của đồng bào Thượng. Chế độ này sẽ đem lại nhiều lợi ích về mặt ổn định an ninh, đảm bảo đời sống của đồng bào, nhất là còn bảo vệ được tài nguyên thiên nhiên nữa. Lợi ích thật lớn lao.

Cuối cùng tôi thấy nhà cầm quyền Việt Nam đã công nhận có những sai lầm trong việc thực thi chính sách đối với đồng bào Thượng. Nếu đúng như vậy, nhà cầm quyền Việt Nam nên sửa chữa những sai lầm, thật tâm hòa hợp hòa giải với đồng bào Thượng, bãi bỏ những biện pháp bao vây, cô lập các buôn làng để đồng bào được trở lại sinh sống bình thường, và những tổ chức thiện nguyện quốc tế có thể được phép đến Cao Nguyên để giúp đỡ đồng bào. Những người đã bị kết án nặng nề nên được cứu xét lại bản án và trả tự do ngay cho họ. Đó là điều mong mỏi nhất của tôi.

Nguyễn Văn Nghiêm

05/11/2003

*************************

II. Những chuẩn bị về chính sách Thượng vụ của giới tướng lãnh

Lời tòa soạn : Người góp công nhiều nhất trong việc xây dựng một chính sách Thượng vụ chấp nhận được cho mọi người trong giai đoạn này là Đại úy Nguyễn Văn Nghiêm, Trưởng phòng Thượng vụ Quân Đoàn II. Ông là người ghi chép và đúc kết tất cả những nguyện vọng của các sắc tộc Thượng, Chăm và trình bày lại một cách mạch lđể đệ trình lên Chính phủ duyệt xét.

Chúng tôi xin đăng lại dưới đây nguyên văn lá thư và bài viết của học giả Nguyễn Văn Nghiêm nhân đọc những bài viết về người Thượng tại Việt Nam của tôi trên báo Thông Luận. (NVH)


Một nhóm phụ nữ người Thượng trở về sau một buổi huấn luyện quân sự tại Cao nguyên Trung phần, Việt Nam Cộng Hòa năm 1962

1. Chính sách đối với các sắc tộc thiểu số của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa từ 1964 đến 1975

Gần đây Giáo sư Nguyễn Văn Huy, một nhà dân tộc học, phụ trách Khoa các dân tộc Đông Nam Á tại Đại học Paris 7, có viết một số bài về người Thượng trên Cao Nguyên miền Trung Việt Nam, được đăng trên báo Người Việt ở Quận Cam, California, Hoa Kỳ. Ông có cho rằng thời gian mười năm 1965 – 1975 là thời kỳ vàng son của người Thượng, và sở dĩ người Thượng có được thời kỳ như vậy là nhờ áp lực của các cường quốc Pháp và Mỹ. Nguyên văn câu viết của ông như sau :

"Vì không muốn bị diệt vong, từ 1956 người Thượng tìm hậu thuẫn ở các thế lực phương Tây (Pháp và Mỹ) để được tồn tại, và dưới áp lực của các cường quốc này cộng đồng người Thượng mới có một chỗ đứng vinh dự hơn, nhưng thời vàng son này đã không kéo dài lâu, chỉ được mười năm thì chấm dứt (từ 1965 đến 1975)" (Người Việt, ngày 11/4/2001, trang B2).

Là một sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, có may mắn được phục vụ trong các cơ quan Thượng vụ từ 1956, tôi thấy rằng thời kỳ vàng son nói trên của người Thượng tuy một phần có ảnh hưởng của người Mỹ, nhưng của người Pháp thì còn cần phải xem xét lại. Nguyên nhân chính đem lại một chỗ đứng vinh dự cho người Thượng, là do những nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Việt Nam sau chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm đều là những người đã từng chỉ huy ở Cao nguyên từ lâu năm và rất có ý thức về những vấn đề của người Thượng. Chính những vị này đã ban hành và liên tục thực thi một chính sách bảo đảm đem lại đầy đủ quyền công dân và quyền sống của con người, không chỉ cho người Thượng trên Cao nguyên nói riêng mà còn cho cả người Thượng miền Bắc di cư vào miền Nam từ 1954, người Chàm, và sau này cho cả người Miên ở Hậu Giang nói chung nữa.

1.1 Tìm hiểu nguyện vọng của người Thượng và Chàm

Ý thức được những bất công đối với người Thượng do chính sách của Chính phủ Ngô Đình Diệm để lại, ngay sau khi đảo chánh lật đổ Chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã quan tâm đến vấn đề này. Thiếu tướng Đỗ Mậu, cựu Tư lệnh Phân khu Duyên Hải gồm 4 Tiểu khu : Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận (1955 – 1956), Ủy viên Chính trị trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã đệ trình một kế hoạch đặc biệt nâng đỡ đồng bào Thượng nhằm giải quyết vấn đề nói trên. Một số lớn lãnh tụ Thượng trong phong trào BaJaRaKa chống chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bị bắt từ 1958, đã được Đại tướng Dương Văn Minh cho lệnh thả ngày. Ông Paul Nur, sắc tộc Bahnar, Phó Chủ tịch Phong Trào sau khi được tha về, đã được bổ nhiệm ngay vào chức vụ Phó Tỉnh trưởng Thượng tỉnh Kontum. Tuy nhiên kế hoạch nâng đỡ đồng bào Thượng của Thiếu tướng Đỗ Mậu đệ trình chưa kịp được thi hành thì ngày 29/1/1964 đã xảy ra một cuộc Chỉnh Lý lật đổ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.

Chính phủ mới do Trung tướng Nguyễn Khánh, nguyên Tư lệnh Quân Đoàn II và Vùng II Chiến Thuật ở Cao Nguyên về làm Thủ tướng, là người đặc biệt chú trọng đến vấn đề người Thượng. Việc làm đầu tiên của Thủ tướng Nguyễn Khánh là ngày 11/2/1964, thả nốt người đứng đầu phong trào BaJaRaKa, ông Y Bham Enuol, sắc tộc Rhade, Chủ tịch Phong Trào. Ông cũng được bổ nhậm vào chức vụ Phó Tỉnh trưởng Thượng tỉnh Đắc Lắc. Sau đó chính phủ và chính quyền tại Cao Nguyên đã liên tiếp tổ chức nhiều Hội nghị các lãnh tụ người Thượng, Chàm, để tìm hiểu nguyện vọng của họ hầu ban hành một chính sách mới phù hợp với nguyện vọng chính đáng của đồng bào.

Hội nghị đầu tiên do Phòng 5 Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Khu 23 Chiến Thuật tổ chức ngày 9/1/1964, tại Banmêthuột, dưới quyền chủ tọa của Đại tá Lê Quang Trọng, Tư lệnh Sư Đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Ông Y Chôn Mlô Đuôn Đu, Tham sự Hành chánh, sắc tộc Rhade, đã đại diện các lãnh tụ Thượng trong hội trường xin chính phủ có một chính sách công bằng và những chương trình hữu hiệu, thực tế để nâng cao đời sống của đồng bào Thượng, Chàm.

Thủ tướng Nguyễn Khánh cũng cho lệnh Nha Đặc Trách Thượng Vụ tổ chức mời 55 lãnh tụ Thượng, Chàm trên Cao Nguyên và các tỉnh miền Trung về thăm viếng Thủ đô Sài Gòn ngày 5/5/1964. Nhân dịp này Thủ tướng đã chủ tọa một hội nghị với các lãnh tụ Thượng, Chàm, và tiếp nhận tất cả những nguyện vọng của họ. Đây là lần đầu tiên từ 1954, người Thượng, Chàm có cơ hội được tự do trực tiếp trình bày những ý kiến của mình trước người lãnh đạo cao cấp nhất của quốc gia.

Hội nghị lần thứ ba diễn ra tại Hội quán Phượng Hoàng, Pleiku, do Phòng Thượng Vụ Quân Đoàn II và Vùng 2 Chiến Thuật tổ chức trong hai ngày 25 và 26/8/1964, dưới quyền chủ tọa của Trung tướng Nguyễn Hữu Có, Tư lệnh Quân Đoàn II. Một Ủy ban gồm Thiếu tá Ya Ba, Đại úy Y Pem Knul, Tham sự hành chánh Y Chôn Mlô Đuôn Đu, và Đại úy Nguyễn Văn Nghiêm, Trưởng Phòng Thượng Vụ Quân Đoàn II, được thành lập để đúc kết tất cả những nguyện vọng của các sắc tộc Thượng, Chàm đệ trình lên Chính phủ.

Nhưng đáng kể nhất là Đại hội đại diện đồng bào thiểu số họp tại Pleiku trong ba ngày 15, 16 và 17/10/1964, và cuộc họp của Hội Đồng Nội Các Chính Phủ tại Biệt điện của Tổng thống, một biệt thự bằng gỗ trên những cột cao, kiến trúc theo kiểu nhà sagn của đồng bào Thượng, tại Pleiku đêm 16/10/1964. Thủ tướng Nguyễn Khánh, hai vị Phó Thủ tướng, các vị Tổng trưởng các Bộ Tư Pháp, Giáo Dục... Trung tướng Nguyễn Hữu Có, Tư lệnh Quân Đoàn II, ông Tổng giám đốc Nha Điền Địa, và Trung tá Ngô Văn Hùng nguyên Giám đốc Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng, đã nghe Đại úy Trưởng Phòng Thượng Vụ Quân Đoàn II trình bày những nguyện vọng của đồng bào Thượng, Chàm, và những đề nghị về một chính sách mới, cùng những biện pháp thiết thực giúp đỡ đồng bào về mọi mặt chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, kinh tế, y tế, luật pháp, v.v. Hội Đồng Nội Các đã thảo luận kỹ càng từng điểm một, do đó cuộc họp đã kéo dài suốt bốn tiếng rưỡi đồng hồ, từ 8 giờ 30 tối đến 1 giờ sáng ngày hôm sau. Chính trong cuộc họp này Thủ tướng Nguyễn Khánh và Hội Đồng Chính Phủ đã chấp thuận những đề nghị của Trưởng Phòng Thượng Vụ Quân Đoàn II và quyết định ban hành một chính sách mới không chỉ áp dụng cho người Thượng nói riêng mà còn áp dụng cho cả người thiểu số Việt Nam nói chung. Người thiểu số ở đây bao gồm người Thượng miền Nam, người Thượng miền Bắc di cư tị nạn Cộng sản năm 1954, hầu hết đang định cư trên Cao Nguyên, và người Chàm. Chính sách này về sau cũng được áp dụng cho người Miên ở Hậu Giang nữa.

1.2 Chính sách đối với các sắc tộc thiểu số Việt Nam

Chính sách được ban hành dưới dạng một Thông điệp của Thủ tướng Chính phủ gửi nhân dân cả nước, và do Thủ tướng đọc trước Đại hội đại diện người Thượng miền Nam, miền Bắc, và người Chàm ngày 17/10/1964. Chính sách mới được đặt trên ba nguyên tắc căn bản:

1. Đồng bào Thiểu số Việt Nam là công dân của nước Việt Nam. Đồng bào có quyền được hưởng đầy đủ quyền công dân như mọi công dân thuộc những sắc tộc khác.

2. Tuy nhiên vì đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn, Chính phủ có trách nhiệm phải hoạch định ra những chương trình, kế hoạch hầu giúp đồng bào mau chóng tiến bộ theo kịp đà tiến bộ chung của toàn dân tộc.

3. Chính phủ tôn trọng phong tục, tập quán, ngôn ngữ, chữ viết, văn hóa của đồng bào thiểu số. Tòa án phong tục Thượng sẽ được thành lập trở lại. Tiếng Thượng sẽ được dạy lại trong các trường học. Quyền sở hữu đất đai canh tác của người Thượng được tôn trọng, và một chương trình Kiến Điền sẽ được tiến hành để cũng cấp bằng khoán về quyền sở hữu đất đai cho đồng bào.

Ngay trong buổi họp này vị Tổng trưởng Bộ Tư Pháp đã thảo một Nghị định hủy bỏ Nghị định cũ của Chính phủ Ngô Đình Diệm không công nhận quyền sở hữu đất đai canh tác của người Thượng, tái xác nhận chính phủ tôn trọng quyền sở hữu đất đai của các gia đình người Thượng, và hứa hẹn sẽ ban hành một chương trình Kiến Điền để đảm bảo quyền sở hữu đất đai canh tác của đồng bào. Chương trình Kiến Điền sẽ do Tổng Nha Điền Địa thực hiện sau này. Bộ trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục cũng ban hành một Thông tư ấn định nhiều biện pháp nâng đỡ học sinh, sinh viên Thượng và Chàm.

1.3 Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa, ngày 1/4/1967

Ngày 1/4/1967, Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa được ban hành, trong đó có những điều khoản 2, 24, 97 và 98 liên quan đến chính sách đối với người Thiểu số.

Điều 2 công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của mọi công dân. Mọi công dân đều bình đẳng không phân biệt sắc tộc. Đồng bào Thiểu số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến hóa chung của dân tộc.

Điều 24 công nhận sự hiện hữu của các sắc tộc thiểu số trong cộng đồng Việt Nam. Phong tục, tập quán của đồng bào Thiểu số được tôn trọng. Các tòa án phong tục phải được thiết lập để xét xử những vụ án về phong tục giữa các đồng bào Thiểu số. Một đạo luật sẽ qui định những quyền lợi đặc biệt để nâng đõ đồng bào Thiểu số.

Điều 97 và 98 qui định việc tổ chức một Hội Đồng Các Sắc Tộc. Nhiệm vụ của Hội đồng là cố vấn Chính phủ về các vấn đề liên quan đến đồng bào Thiểu số. Với sự chấp thuận của Quốc hội, Hội Đồng Các Sắc Tộc có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc hội về các vấn đề liên hệ. Các dự luật liên quan đến đồng bào Thiểu số có thể được Hội Đồng Các Sắc Tộc tham gia ý kiến trước khi đưa ra Quốc hội thảo luận. Về thành phần của Hội đồng thì hai phần ba hội viên là do các sắc tộc Thiểu số đề cử. Một phần ba hội viên do Tổng thống chỉ định. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng Các Sắc Tộc. Ngoài 4 điều nói trên, còn Điều 66 qui định Phó Tổng thống là Chủ tịch Hội Đồng Sắc Tộc.

Như vậy, ngoài những điều 66, 97, 98, liên quan đến Hội Đồng Các Sắc Tộc, ba nguyên tắc căn bản trong chính sách mới do Thủ tướng Nguyễn Khánh ghi trong Thông điệp gửi quốc dân đồng bào ngày 17/10/1964 đã được ghi lại đầy đủ trong hai điều 2 và 24 của Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa.

1.4 Quy chế quy định những quyền lợi đặc biệt để nâng đỡ đồng bào thiểu số

Để thực hiện điều 2 và điều 24 của Hiến pháp, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương đã đệ trình lên Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia ký Sắc Luật số 033/67, ngày 29/8/1967. Nội dung Sắc Luật có 10 điều họp thành một Quy Chế quy định những quyền lợi đặc biệt để nâng đỡ đồng bào Thiểu số. Điều 1 và Điều 10 là phần mở đầu vàkết luận. Các điều còn lại từ điều 2 đến điều 8 ấn định những nguyên tắc căn bản nâng đỡ đồng bào thiểu số về mọi mặt Hành Chánh, Công Chức, Quân Sự, Kinh Tế, Nông Nghiệp, Quyền Sở Hữu Đất Đai, Y Tế, Xã Hội, Giáo Dục, Văn Hóa. Sẽ thành lập Viện Bảo Tàng Nhân Chủng để bảo vệ và phát huy nền văn minh cổ của các sắc tộc Thiểu Số, và Viện Nghiên Cứu Các Sắc Tộc để giúp Chính phủ thiết lập các kế hoạch phát triển đời sống đồng bào thiểu số. Riêng điều 9 quy định nguyên tắc nâng đỡ phải phù hợp với thực trạng của từng địa phương và trình độ của từng sắc tộc, để các sắc tộc thiểu số dù có tình trạng sinh hoạt không đồng đều cũøng có thể theo kịp đà tiến bộ chung của dân tộc.

1.5 Kết Luận

Chính nhờ việc ban hành chính sách nói trên và việc tích cực thi hành chính sách của các Bộ chuyên môn phối hợp cùng cơ quan đặc trách vấn đề thiểu số là Bộ Phát Triển Sắc Tộc, cùng với sự hỗ trợ dồi dào về ngân sách của Hoa Ky,ø màcó thời kỳ vàng son của người Thượng nói riêng và người Thiểu Số nói chung trong sinh hoạt chính trị tại Việt Nam từ 1964 đến 1975. Mong rằng những nhà viết sử sau này nên thăm khảo nhiều nguồn tin tức cả ở trong nước lẫn những nguồn tin của ngoại quốc để tránh tình trạng có những nhận định chưa được chính xác, vô tình đã bất công đối với mọi nỗ lực của những nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Việt Nam Cộng Hòa vào thời gian nói trên trong việc giải quyết vấn đề đồng bào thiểu số của đất nước.

Nguyễn Văn Nghiêm

(tháng 6/2001)

************************

III. Nói thêm về Les Kosem


Trung tướng Les Kosem ( 1927-1976).

Thư gởi Nguyễn Văn Huy

Anaheim, ngày 8/6/2001

Re : FULRO

Anh Huy thân mến,

Ông Nguyễn Trắc Dĩ là thư ký tại Văn phòng ông Tổng trưởng Phát Triển Sắc Tộc Paul Nur. Nhưng ông cũng đã làm việc cho cơ quan này từ thời còn là Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng ở Huế. Do đó ông biết rất nhiều về quá trình hoạt động của cơ quan này. Thêm nữa ông phụ trách giữ những tài liệu Mật của Bộ, nên ông biết rất rõ về tổ chức FULRO. Trong cuốn sách, ông không đả động gì đến tổ chức FULRO ở Phnom Penh vì đường lối chính trị của Bộ chỉ nhắm vào việc thuyết phục tổ chức FULRO Thượng mà thôi, Bộ làm như không quan tâm gì về những tổ chức khác cả.

Tuy nhiên, sau khi toàn bộ anh em FULRO Thượng trở về hợp tác vào ngày 17/1/1969, thì tháng 4/1970, tôi đích thân sang Phnom Penh để tìm Y Bham ngay. Qua những sĩ quan Miên, tôi thu thập được nhiều tin tức về Les Kosem. Qua những anh em Thượng ở Bộ chỉ huy FULRO, tôi được biết muốn đến thăm Y Bham phải hỏi Les Kosem mới được. Vì vậy tôi đã đến tận Bộ chỉ huy FULRO, một building bốn tầng mới xây ở một đại lộ lớn, cũng như đã đến nhà Les Kosem nhiều lần, thăm vợ con anh ta, tặng quà và yêu cầu được gặp anh ta. Nhưng anh ta nhất định lánh mặt.


Tướng Lon Nol là người đứng sau cuộc đảo chính lật đổ Vua Sihanouk (người theo chủ nghĩa trung lập). Ông đã mở đầu cho thời kỳ hỗn loạn ở Campuchia, kết thúc bằng việc Khmer Đỏ lên nắm quyền và thảm sát người Khmer.

Cuối cùng do sự giúp đỡ của hai người chú họ của tôi, Les Kosem đã phải tiếp tôi. Tôi chỉ được phép công tác ở Phnom Penh có 13 ngày là hết hạn. Chiều ngày thứ 11, chú tôi là Thiếu tướng Phan Phụng Tiên, Tư lệnh Sư đoàn 5 Không quân ở Biên Hòa sang thăm hai anh em Lon Nol. Họ là những bạn thân của nhau. Tối hôm đó, Thủ tướng Lon Nol và em đã thết tiệc chú Phan Phụng Tiên, và một người chú khác của tôi là Đại tá Lê Phúc Lộc, là anh rễ họ của Phan Phụng Tiên, và dượng là cố vấn không quân cho Thủ tướng Lon Nol, ở tại tư dinh. Trong bữa tiệc Lon Non em hỏi chú Tiên :

"Cái anh Nghiêm sang đây làm gì mà hắn cứ đòi gặp Les Kosem ?". Phan Phụng Tiên trả lời : "Hắn là cháu tôi, chắc hắn có công việc của hắn. Xin hai anh cho Les Kosem gặp hắn để cho hắn trở về Việt Nam". Thủ tướng Lon Nol bảo người em điện thoại cho lệnh Les Kosem tiếp anh Nghiêm ngay ngày mai đi, để cho anh ta về. Lon Non em đã thi hành ngay.

Khoảng 9 giờ 30 tối, về tới nhà chú Lê Phúc Lộc điện thoại cho tôi biết ngay, và bảo thế nào Les Kosem cũng sẽ gọi cho tôi. Quả nhiên, khoảng nửa giờ sau, Les Kosem điện thoại mời tôi sáng mai, khoảng 10 giờ, đến văn phòng hắn, hắn sẽ tiếp tôi.

Tôi đã dùng xe của ông Đại sứ Việt Nam, có một Thượng sĩ Miên đi hộ vệ, đến văn phòng Les Kosem. Les Kosem ra tận cửa Tòa Đô Chánh đón tôi đưa vào văn phòng, rất lịch sự, rất niềm nở. Chúng tôi dùng tiếng Pháp nói chuyện với nhau. Sau khi đã thăm hỏi nhau, tôi nói tôi là anh em kết nghĩa với ông Y Bham, nay nhân tiện sang thăm Phnom Penh nên có ý đến thăm ông bà Y Bham và các cháu. Do các anh em Thượng làm việc ở Bộ chỉ huy FULRO cho biết muốn thăm ông bà Y Bham thì phải hỏi Les Kosem. Do đó tôi đã nhiều lần đến nhà ông ta, thăm vợ con ông ta. Les Kosem nói, hắn đã được vợ cho biết, và cảm ơn tôi đã cho các con anh ta nhiều quà. Les Kosem cũng xác nhận là ông bà Y Bham có ở Phnom Penh. Tuy nhiên, để từ chối khéo, Les Kosem nói dối là ông bà Y Bham đang đi du lich ở xa chưa về. Les Kosem hứa sẽ chuyển lời thăm hỏi của tôi đến ông bà Y Bham. Tôi chỉ cần Les Kosem nhận là có ông Y Bham ở Phnom Penh thôi.


Lès Kosem, người sáng lập FLKK và là đại tá trong quân đội Campuchia.

Sáng hôm sau, ngày thứ mười ba ở Phnom Penh, hết hạn công tác tôi trở về Việt Nam. Ở Phnom Penh, mỗi ngày tôi phải báo cáo tiến triển công tác về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ba lần. Một Thiếu tá của Phủ Đặc ủy trung ương tình báo cũng đi sang Phnom Penh, những đi riêng rẽ, chỉ nhận báo cáo của tôi để điện về trình cho Tổng thống mà thôi. Về lại Việt Nam, tôi đã trực tiếp trình với Tổng thống và với ông Tổng trưởng Phát Triển Sắc Tộc kết quả công tác, và để nghị chính phủ chính thức gửi văn thư yêu cầu chính phủ Cambodia cho ông Y Bham được trở về Việt Nam, để tránh tình trạng họ tiếp tục dùng ông Y Bham làm con mồi dụ dỗ và mua chuộc những người Thượng trẻ làm tay sai cho họ lợi dụng.

Rất tiếc, tôi phải đi nhận chức Tỉnh trưởng Phú Bổn ngay để thay thế ông Tỉnh trưởng đang xin từ chức khẩn cấp. Lý do, tỉnh mất an ninh, mất một quận, chỉ còn lại hai quận. Về an ninh, tỉnh bị xếp hạng thứ 43 trong số 44 tỉnh và thành phố. Thêm nữa lại có tin người Thượng Jarai dự trù muốn nổi loạn nữa. Ít ngày sau đó, lại đến ông Paul Nur mất chức Tổng trưởng, Nay Luett về thay. Không có người tiếp tục đề nghị của tôi, việc đòi lại ông Y Bham bị bỏ quên luôn. Kết quả, khi Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh, ông Y Bham và gia dinh đã bị bắt đi, và chắc là đã chết chung cùng với số phận 1.700.000 người dân bị Khmer Đỏ tàn sát.

Tôi rất thương tiếc ông Y Bham ! Vì tuy bị bắt cóc đi, nhưng ông đã chịu ở lại để lãnh đạo tổ chức FULRO Thượng theo đường lối tranh đấu ôn hòa của ông. Và mặc dầu bị Les Kosem kềm chế, giật dây nhưng ông vẫn tìm cách cho người thân tín của ông tiếp xúc riêng với chúng tôi, cho đến khi diệt được nhóm Y Dhon theo đường lối bạo động của Les Kosem, và đưa được toàn bộ tổ chức FULRO Thượng và gia đình trở về hợp tác với chính phủ Việt Nam.


Y Bham Enuol

Trên đây là những bí mật mà nhóm Kinh Thượng anh em của chúng tôi, như Paul Nur, Ya Ba, Y Chon Mlo Duon Du, Touneh Han Thọ, Từ Công Thụ anh ruột của Từ Công Phụng, vân vân, và tôi cùng với một số bạn hữu của tôi như Giáo sư nhân chủng học Nghiêm Thẩm, Kỹ sư canh nông Nguyễn Văn Mừng làm việc ở Lò Nguyên Tử Đà Lạt, Giáo sư y khoa Bác sĩ Trần Anh chuyên dạy về Cơ thể học đã bị ám sát, cùng với sự giúp đỡ của thầy Nguyễn Đăng Thục, Chủ tịch Hội Văn Hóa Á Châu, đã chủ trương dùng đường lối ôn hòa, bất bạo động, hợp pháp, hợp hiến, để vận động cho một chính sách công bình cho đồng bào thiểu số Việt Nam nói chung, cho đồng bào Thượng nói riêng, đã làm để giải quyết vấn đề FULRO, và chống Cộng Sản giữ vững Cao Nguyên. Những tin tức này tôi chưa hề viết ra, ngoại trừ lần này viết cho Huy là lần đầu tiên. Ngay đến Giáo sư Gerald Canon Hickey thường phỏng vấn tôi và Touneh Han Tho cũng không biết được chính xác những việc làm của anh em chúng tôi.

Không phải ngẫu nhiên mà vấn đề Thượng được giải quyết liên tục theo một đường lối đã vạch sẵn suốt hàng chục năm trời. Hãy giữ lấy làm tài liệu riêng của Huy nhe.

Thân mến,

Nguyễn Văn Nghiêm