Theo đuổi Chủ nghĩa Hiện thực, Mỹ từ bỏ dân chủ, nhân quyền trong đối ngoại (Daniel Fried)

Chủ nghĩa hiện thực hoài nghi vẫn có ảnh hưởng cho đến ngày nay, nhưng có một mô hình để dung hòa giữa quyền lực và giá trị.
Chính quyền Trump đã tiếp tục loại bỏ các yếu tố nhân quyền và dân chủ khỏi chính sách đối ngoại của mình. Vào ngày 17/07, Ngoại trưởng Marco Rubio được cho là đã chỉ thị các nhà ngoại giao Mỹ ở nước ngoài ngừng bình luận về tính công bằng của các cuộc bầu cử nước ngoài, và chỉ đơn giản chúc mừng những người chiến thắng. Điều này đã đi ngược lại với thông lệ hàng thập kỷ qua của Mỹ, trong đó Washington thường xuyên bày tỏ sự phản đối đối với các cuộc bầu cử bị đánh cắp hoặc mang tính hình thức.
Chính sách mới này tiếp nối các động thái khác nhằm loại bỏ các công cụ thúc đẩy dân chủ và nhân quyền. Chính quyền đã cố gắng chấm dứt tài trợ cho Quỹ Quốc gia vì Dân chủ (NED), được thành lập dưới thời Ronald Reagan. (Xin tiết lộ: Tôi nằm trong hội đồng quản trị của tổ chức này.) Họ cũng đang nỗ lực phá hủy Đài Châu Âu Tự do/Đài Tự do (phát sóng đến Đông Âu, Trung Á, Caucasus, và Trung Đông), Đài Martí (Cuba), Đài Châu Á Tự do, và Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Tất cả các tổ chức này đều tìm cách thúc đẩy lợi ích của Mỹ thông qua việc thúc đẩy các giá trị của Mỹ. Trong số đó, dân chủ và nhân quyền là những vấn đề được quan tâm hàng đầu.
Thay vào đó, chính quyền dường như đang quay trở lại với một phiên bản hẹp hơn của chủ nghĩa hiện thực trong chính sách đối ngoại. Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth đã tóm tắt lối tư duy này trong một bài phát biểu ở Singapore vào ngày 31/05. “Mỹ không còn quan tâm đến cách tiếp cận chính sách đối ngoại mang tính đạo đức và giáo điều như trong quá khứ,” ông nói. “Chúng tôi không ở đây để gây áp lực buộc các nước khác phải chấp nhận hoặc áp dụng các chính sách hay ý thức hệ… Chúng tôi muốn hợp tác với các bạn khi lợi ích chung của chúng ta phù hợp.”
Việc xây dựng quan hệ với các quốc gia dựa trên lợi ích chung và gác lại các giá trị chung – tránh “cách tiếp cận đạo đức và giáo điều,” như lời Hegseth – đã thu hút một lượng lớn người ủng hộ trong phong trào MAGA và hơn thế nữa, bao gồm cả những người theo chủ nghĩa tiến bộ vốn xem những nỗ lực của Mỹ nhằm thúc đẩy dân chủ là đạo đức giả. Một phần nguyên nhân không nhỏ là do những thất bại và thất vọng đối với những nỗ lực được cho là nhằm thúc đẩy dân chủ bằng vũ lực ở Afghanistan và Iraq. Hegseth, Rubio (dù trước đây ông ủng hộ nhân quyền và dân chủ), và nhiều nhân vật cấp cao khác trong chính quyền, chẳng hạn như Giám đốc Tình báo Quốc gia Tulsi Gabbard, dường như đều đang trong “chế độ thoái lui.” Các giá trị giờ đây là một thứ xa xỉ. Phiên bản chủ nghĩa hiện thực của họ dường như muốn nói rằng: Mỹ không đủ khả năng theo đuổi những lý tưởng phổ quát như dân chủ, mà phải chăm lo cho các lợi ích chiến lược và kinh tế trước mắt của mình trong một thế giới vô cùng khắc nghiệt.

Chiến lược của Mỹ đã từng áp dụng kiểu thoái lui này trước đây. Trong lúc mọi người thất vọng trước diễn biến ngày càng thảm khốc của Chiến tranh Việt Nam – “cuộc chiến mãi mãi” của thế hệ trước, thứ đã kết thúc bằng một thất bại gây mất tinh thần vào năm 1975 – Cố vấn An ninh Quốc gia lúc bấy giờ là Henry Kissinger, người được Tổng thống Richard Nixon hậu thuẫn, đã phát triển một chính sách đối ngoại hiện thực, cứng rắn để ngăn chặn những gì họ tin là sự suy tàn của nước Mỹ. Chính sách này bao gồm hòa hoãn với Liên Xô, lúc đó vẫn đang trong chế độ đàn áp toàn diện; tiếp cận Trung Quốc, đang ở dưới chế độ chuyên chế bạo lực của Mao Trạch Đông; và Học thuyết Nixon, tuyên bố rằng Mỹ sẽ tránh tham gia trực tiếp vào các cuộc xung đột trên toàn thế giới và ủy thác công việc đó cho các đồng minh đáng tin cậy. Hình ảnh đại diện cho Học thuyết Nixon là Quốc vương Iran, người đã tự biến mình là một nhà độc tài hiện đại hóa có thể giúp ổn định Trung Đông (và là một khách hàng mua vũ khí lớn của Mỹ) trong khi vẫn cai trị theo cách đàn áp.
Phiên bản chủ nghĩa hiện thực của Kissinger dường như phù hợp với thời đại. Sự can dự quân sự của Mỹ vào Việt Nam đã được “bán” cho người dân Mỹ như một cuộc chiến phổ quát chống lại chủ nghĩa cộng sản, nhưng đến cuối thập niên 1960 – với hơn 500.000 lính Mỹ tham chiến tại Việt Nam và thương vong quân sự cao hơn nhiều so với bất kỳ cuộc chiến nào sau đó ở Iraq và Afghanistan – người Mỹ đã không còn hứng thú làm theo lời kêu gọi của Tổng thống John F. Kennedy “trả bất kỳ giá nào, chịu bất kỳ gánh nặng nào, đương đầu bất kỳ khó khăn nào, hỗ trợ bất kỳ bạn bè nào, chống lại bất kỳ kẻ thù nào,” như ông đã nói trong diễn văn nhậm chức năm 1961.
Chủ nghĩa hiện thực của Kissinger chắc chắn không phải là “cách tiếp cận đạo đức và giáo điều.” Việc hòa hoãn với Moscow đã tạo ra sự ổn định chiến lược thông qua kiểm soát vũ khí, một thành tựu đáng kể. Nhưng Kissinger lại sẵn sàng chấp nhận các điều khoản của Điện Kremlin: Ông và Nixon đã hạ thấp vấn đề nhân quyền ở Liên Xô và phản đối (không thành công) các nỗ lực của Quốc hội nhằm gây sức ép buộc Điện Kremlin cho phép di cư hạn chế sang phương Tây. Hơn nữa, Kissinger còn ngầm chấp nhận việc Liên Xô tiếp tục kiểm soát một phần ba châu Âu. Tuyên bố chung Mỹ-Xô năm 1972, bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau trong quan hệ giữa hai nước, đã không hề đề cập đến nhân quyền hay Bức màn Sắt. Và đó là một thỏa thuận tuyệt vời cho Điện Kremlin.
Nixon tỏ ra ít quan tâm đến việc Moscow đàn áp các quốc gia trong đế chế châu Âu của mình – cũng như đàn áp chính người dân Liên Xô – và ông không phải là người duy nhất. Lyndon Johnson đã chẳng mấy quan tâm đến Tiệp Khắc, ngay cả khi quân đội Liên Xô xâm lược nước này một cách tàn bạo vào tháng 08/1968, để đè bẹp chính quyền cộng sản Tiệp Khắc chủ trương cải cách. Về phần mình, Dwight Eisenhower hầu như không phản ứng gì trước cuộc xâm lược Hungary của Liên Xô năm 1956.
Bên ngoài châu Âu, Kissinger đã phản đối sự bành trướng quyền lực của Liên Xô trên khắp thế giới, dù với kết quả trái chiều: Ông khéo léo đẩy Liên Xô ra khỏi Trung Đông, nhưng lại đầu tư quá mức vào Quốc vương Iran, người cuối cùng đã sụp đổ vì chế độ đàn áp trong nước. Kissinger cũng ủng hộ cuộc đảo chính đẫm máu năm 1973 nhằm lật đổ tổng thống xã hội chủ nghĩa được bầu cử dân chủ của Chile, Salvador Allende.

Tổng thống Jimmy Carter và chiến lược gia chính sách đối ngoại hàng đầu của mình, Zbigniew Brzezinski, đã thực hành một kiểu chủ nghĩa hiện thực chính sách đối ngoại khác: chính trị cường quyền dựa trên các giá trị phổ quát. Giống như cách tiếp cận của Nixon-Kissinger, họ ủng hộ việc Mỹ kiểm soát vũ khí cùng với Liên Xô và tăng cường tiếp cận Bắc Kinh, bao gồm cả việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và cắt đứt quan hệ ngoại giao chính thức với Đài Loan. Trong quyết định có lẽ mang đậm chất hiện thực Kissinger nhất của họ – và hóa ra là sai lầm thảm khốc nhất – họ vẫn duy trì sự phụ thuộc mạnh mẽ vào Quốc vương Iran, bỏ qua những dấu hiệu cho thấy sự yếu kém chính trị của ông ta cho đến khi quá muộn. Trong nước cờ táo bạo và thành công nhất của Carter, ông đã giám sát việc bình thường hóa quan hệ Israel-Ai Cập với Hiệp định Trại David.
Tuy nhiên, trong hai lĩnh vực quan trọng, Carter và Brzezinski lại bất đồng quan điểm với Nixon và Kissinger. Thứ nhất là việc Carter nhấn mạnh nhân quyền là lợi ích cốt lõi của Mỹ; thứ hai là việc Brzezinski sử dụng nhân quyền và các quyền tự do dân chủ để thách thức Liên Xô và đế chế Xô-viết. Đã có một số hành động mang tính biểu tượng: Theo khuyến nghị của Kissinger, Tổng thống Gerald Ford đã không gặp nhà văn bất đồng chính kiến Liên Xô lưu vong Aleksandr Solzhenitsyn, điều có thể khiến Moscow phật lòng. Tuy nhiên, Carter đã nghe theo lời khuyên của Brzezinski ngay từ đầu nhiệm kỳ của mình và chấp nhận gặp Vladimir Bukovsky, một nhà bất đồng chính kiến Liên Xô lưu vong khác.
Ngoài những cử chỉ mang tính biểu tượng đó, sự chuyển dịch sang chủ nghĩa hiện thực dựa trên giá trị đã để lại những hậu quả sâu sắc. Nhiệm kỳ tổng thống của Carter trùng hợp với giai đoạn trỗi dậy của phong trào bất đồng chính kiến dân chủ ở Liên Xô – bao gồm cả các nước cộng hòa Baltic và Ukraine – và phần châu Âu do Liên Xô thống trị, đặc biệt là Ba Lan, Tiệp Khắc và Hungary. Phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan đã bùng nổ vào năm 1980, khi những người bất đồng chính kiến dân chủ tham gia cùng công nhân đóng tàu đình công và nhanh chóng thu hút hàng triệu thành viên.
Khác với những người tiền nhiệm, Carter và Brzezinski đã ủng hộ các phong trào này. Họ hậu thuẫn cho phong trào Công đoàn Đoàn kết và, thông qua sự ủng hộ đó, đã thể hiện sự quan tâm tích cực của họ đối với việc Ba Lan cuối cùng được giải phóng khỏi ách thống trị của Liên Xô. Khi Liên Xô chuẩn bị xâm lược Ba Lan nhằm đàn áp Công đoàn Đoàn kết, Brzezinski đã lên tiếng cảnh báo giới lãnh đạo Liên Xô rằng Mỹ sẽ phản ứng, và để đạt được mục tiêu đó, ông đã hợp tác với Đức Giáo hoàng John Paul II, một giáo sĩ người Ba Lan sắc sảo và lôi cuốn, người rất được yêu mến ở quê hương mình.
Đây là một bước ngoặt rõ ràng so với chính sách của Nixon-Kissinger: Washington sẽ không còn ngầm thừa nhận phạm vi thống trị của Liên Xô nữa, mà sẽ ủng hộ những người dám thách thức nó từ bên trong. Sau này, sự ủng hộ mạnh mẽ của Tổng thống Ronald Reagan đối với Công đoàn Đoàn kết và sự tự do của Ba Lan, cũng như lời kêu gọi nổi tiếng của ông tại Berlin vào năm 1987 – “Ông Gorbachev, hãy phá bỏ bức tường này” – đã nhận được sự ngưỡng mộ xứng đáng. Nhưng tất cả chỉ là sự tiếp nối của chính sách dân chủ và nhân quyền mà Brzezinski đã đề ra.

Đến cuối thập niên 1970, đã xuất hiện nhiều so sánh giữa Kissinger và Brzezinski, hai chính khách vĩ đại của Mỹ thuộc thế hệ khi đó. Cuốn tiểu sử tuyệt vời mới xuất bản của Edward Luce về Brzezinski, Zbig, đã đề cập một số điểm so sánh này. Tôi từng là học trò của Brzezinski vào giữa những năm 1970 và đã làm việc bên cạnh ông khi còn là nhân viên chính phủ (một nhiệm kỳ kéo dài từ chính quyền Carter đến những tuần đầu nhiệm kỳ đầu tiên của Trump, bao gồm cả trong vai trò đại sứ Mỹ tại Ba Lan) và có thể bổ sung thêm cho phép so sánh này.
Là những người tị nạn từ các chế độ chuyên chế châu Âu, cả Kissinger và Brzezinski đều là người ngoài cuộc đối với giới tinh hoa chính sách đối ngoại WASP[1] thời bấy giờ. Cả hai đều trở thành những người yêu nước nhiệt thành, tin tưởng vào sức mạnh và vai trò lãnh đạo của Mỹ trên thế giới. Và cả hai đều có tư tưởng hiện thực về sự cần thiết của sức mạnh cứng và việc đưa ra những lựa chọn khó khăn.
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa họ rất sâu sắc. Kissinger đặt niềm tin vào trật tự và các chế độ sẽ duy trì trật tự đó trước những hỗn loạn, bạo lực, và các ý thức hệ độc hại đã gây ra hỗn loạn. Cuốn sách nổi tiếng của ông, A World Restored (Một Thế giới được Khôi phục, xuất bản năm 1957), là một sự tôn vinh đối với chính khách và chiến lược gia người Áo thế kỷ 19 Klemens von Metternich, người căm ghét chủ nghĩa yêu nước, quyền tự quyết dân tộc, và những sức mạnh khác được giải phóng bởi Cách mạng Pháp. Đại chiến lược của Kissinger dường như thấm đẫm một sự bi quan lịch sử về cơ hội của nước Mỹ trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa cộng sản, sức bền của nền dân chủ, và giá trị của nhân quyền.
Trong khi đó, Brzezinski lại gần gũi hơn với truyền thống chính trị Ba Lan, vốn xuất hiện lần đầu vào cuối thế kỷ 18 và đã gắn kết sự nghiệp dân tộc của Ba Lan với cuộc đấu tranh cho dân chủ ở trong và ngoài nước. Kỹ sư quân sự, tướng lĩnh, và chính khách lỗi lạc người Ba Lan Tadeusz Kosciuszko đã tham gia chiến đấu trong Cách mạng Mỹ vì ông cho rằng sự nghiệp của cuộc cách mạng này tương đồng với sự nghiệp của đất nước mình, khi đó đang bị đe dọa bởi Áo, Phổ, và đặc biệt là Nga. Vì những lý do tương tự, Tướng Ba Lan Jozef Bem đã chiến đấu cùng người Hungary trong cuộc nổi dậy toàn quốc chống lại Áo năm 1848-1849, cho đến khi ông bị đánh bại bởi quân đội Nga mà Vienna đã mời đến để dập tắt cuộc nổi dậy. Khẩu hiệu của Ba Lan từ thời đại đó – “vì tự do của các bạn và của chúng tôi” – đã gói gọn truyền thống đoàn kết với các quốc gia đang đấu tranh cho tự do. Nó vẫn được sử dụng cho đến ngày nay, bao gồm trong việc kêu gọi viện trợ của Ba Lan cho Ukraine.
Nếu khát vọng dân chủ phổ quát của người Ba Lan đôi khi bị xem là một phiên bản Ba Lan của chủ nghĩa duy tâm lãng mạn, thì Brzezinski lại hoàn toàn không phải là một người duy tâm. Ông tin vào quyền lực. Nhưng ông cũng tôn trọng sức mạnh của các giá trị phổ quát gắn liền với lòng yêu nước đã giúp các quốc gia chống lại quyền lực của Liên Xô theo cách mà Kissinger dường như không làm. Brzezinski đã sử dụng các giá trị như một công cụ của quyền lực Mỹ chống lại chủ nghĩa cộng sản Liên Xô, và kết quả là, ông bắt đầu tấn công sang ý thức hệ trong Chiến tranh Lạnh.
Kissinger và Brzezinski đại diện cho hai phiên bản của chủ nghĩa hiện thực. Chủ nghĩa hiện thực của Kissinger là sự tôn trọng quyền lực tức thời, và ông có xu hướng tuân theo nó. Chủ nghĩa hiện thực của Brzezinski lại thừa nhận sức mạnh lâu dài của khát vọng con người hướng tới tự do dân tộc và tự do cá nhân. Kissinger dường như đã chiếm ưu thế trong cuộc tranh luận suốt nhiều năm, và cách tiếp cận của ông vẫn được những người hoài nghi về quyền lực và các giá trị của Mỹ ngày nay đồng tình. Nhưng cách tiếp cận của Brzezinski, ủng hộ nhân quyền và khát vọng dân tộc trước chủ nghĩa cộng sản Liên Xô, đã chứng tỏ khả năng tiên tri và cuối cùng là tính hiệu quả của mình. Quan điểm của ông và Carter về dân chủ và nhân quyền trong chính sách đối ngoại đã dễ dàng vượt qua ranh giới đảng phái để đi vào chương trình nghị sự thúc đẩy tự do của Reagan. Sự hậu thuẫn của cả hai đối với các phong trào yêu nước gắn liền với các giá trị dân chủ đã chứng tỏ tính hiện thực hơn so với giả định của Kissinger rằng đế chế Liên Xô chuyên đàn áp phải được dung thứ vô thời hạn.
Chủ nghĩa hiện thực của Brzezinski, được hình thành dựa trên các giá trị phổ quát, có lẽ gần gũi hơn với tín điều chính trị của Mỹ, một quốc gia được xây dựng trên nền tảng những nguyên tắc áp dụng “cho mọi con người và mọi thời đại,” như Abraham Lincoln đã khẳng định. Việc từ bỏ những nguyên tắc nền tảng của Mỹ, gọi chúng là “đạo đức và giáo điều,” và xem quyền lực là công cụ duy nhất cho chính sách đối ngoại có thể phù hợp với tâm lý hoài nghi và thực dụng của thời đại. Tuy nhiên, một chính sách đối ngoại dựa trên chủ nghĩa hiện thực, được định hướng bởi sự tôn trọng đối với những gì người hùng trong cuốn tiểu sử bom tấn này đại diện – “sự thật, công lý, và phong cách Mỹ” – dường như vẫn phù hợp và đầy hứa hẹn như nó đã từng trong thời đại của Brzezinski.
Daniel Fried là thành viên danh dự của Hội đồng Đại Tây Dương, cựu điều phối viên Mỹ về chính sách trừng phạt trong chính quyền Obama và Trump đầu tiên, cựu trợ lý ngoại trưởng phụ trách các vấn đề châu Âu và Á-Âu trong chính quyền Obama và George W. Bush, và cựu đại sứ Mỹ tại Ba Lan.
Nguồn: Daniel Fried, “Kissinger, Brzezinski, and the Promise of Realism” Foreign Policy, 01/08/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng, Nghiên Cứu Quốc Tế