Khúc Quanh Lịch Sử Trọng Đại Và Một Khế Ước Xã Hội Mới (Trần Khánh Ân)

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế ngày càng nghiêm trọng và niềm tin trong xã hội suy giảm sâu sắc, những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đang chuẩn bị thực hiện một số thay đổi lớn về chính sách kinh tế và chính trị. Tuy nhiên, những điều chỉnh này phần lớn mang tính phản ứng, nửa vời và né tránh căn bản của vấn đề.

Chính quyền đã tiến hành bước đầu việc bãi bỏ cấp huyện, đồng thời có kế hoạch sửa đổi Hiến pháp vào giữa năm 2025 để hợp thức hóa thay đổi tổ chức hành chính. Dư luận Việt Nam gọi đây là “bình mới rượu cũ”. Có lẽ người dân Việt Nam luôn có sẵn cụm từ này khi Chính quyền chuẩn bị thực hiện một thay đổi hay cải cách nào đó. Một dấu hiệu đáng chú ý là đề xuất đổi tên nước và đổi tên Đảng từ “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” thành “Cộng hòa Việt Nam”, và từ “Đảng Cộng sản” thành “Đảng Lao động Việt Nam”. Nếu được thực hiện, đây sẽ là thay đổi mang tính biểu tượng rất lớn vì đồng nghĩa với việc rời bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin. Tuy nhiên, nếu không gắn với thay đổi thể chế thì thay đổi tên gọi cũng chỉ mang tính đối phó với khủng hoảng niềm tin khi Đảng cộng sản điều hành Đất nước đã thất bại trong mọi lĩnh vực, trong mọi địa hạt, trên mọi phương diện. Trong khi đó Đại hội 14 của Đảng cộng sản đang bị trì hoãn do chưa thống nhất được về nhân sự và định hướng. Nhiều dự liệu có tính thuyết phục cho rằng đây có thể là đại hội cuối cùng của Đảng Cộng sản Việt Nam, một viễn cảnh phản ánh mức độ bế tắc trong nội bộ lãnh đạo hiện nay.

Về kinh tế, chính quyền tuyên bố sẽ xem kinh tế tư nhân là nòng cốt, thay vì tiếp tục bám víu vào các tập đoàn quốc doanh yếu kém. Đây là một sự thay đổi quan trọng trong ngôn từ, nhưng chưa đi kèm với cải cách thể chế bảo vệ quyền tài sản và môi trường cạnh tranh bình đẳng. Chính phủ cũng đặt mục tiêu tăng trưởng GDP hơn 8% vào năm 2025 và trên 10% trong giai đoạn 2026 – 2030,  những con số bị giới chuyên gia đánh giá là hoàn toàn ảo tưởng. Song song đó, nhà nước sẽ bơm 2,5 triệu tỷ đồng (khoảng 100 tỷ USD) vào nền kinh tế thông qua đầu tư công và tín dụng rẻ. Các dự án lớn như đường sắt cao tốc Bắc – Nam (67 tỷ USD), nhà máy điện hạt nhân, và khai thác 2 triệu tấn đất hiếm/năm đang được xúc tiến bất chấp các lo ngại nghiêm trọng về nợ công, môi trường, và năng lực kỹ thuật. Trong khi đó, về đối ngoại, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ rơi vào khủng hoảng thương mại kép. Mỹ có thể áp thuế cao do cáo buộc thao túng thương mại, trong khi Trung Quốc đang rút đầu tư khỏi Đông Nam Á. Điều này khiến chiến lược đứng giữa hai siêu cường của Việt Nam mất hiệu quả. 


Cấu trúc bộ máy nhà nước hiện nay là cồng kềnh quá đáng, mâu thuẫn và kém hiệu quả. Một quốc gia chỉ có 100 triệu dân nhưng có tới hàng trăm cục, tổng cục, bộ và cơ quan ngang bộ. Ngay cả khi cắt giảm 35 – 40% viên chức cũng không ảnh hưởng đến hoạt động, cho thấy sự phung phí ghê gớm. Mọi sáng kiến tinh giản biên chế đều thất bại, phần lớn vì tham nhũng và phe nhóm quyền lực trong bộ máy hành chính.


Theo khảo sát của Minh bạch quốc tế (Transparency International), Việt Nam đạt 40 điểm trên 100

Tham nhũng tại Việt Nam không còn là hiện tượng cá biệt mà đã trở thành một hệ thống quyền lực ngầm. Có nhiều nhận định chắc chắn rằng không có một người nào ở cấp vụ trưởng trở lên mà chưa là triệu phú đô la. Đây là tình trạng tham nhũng nội tại, ăn sâu vào kết cấu của chế độ. Việc mua quan bán chức phổ biến tới mức một chức vụ có thể tiêu tốn 10 năm lương. Tham nhũng không thể bị cải cách, chỉ có thể bị thay thế. Chính quyền đang đưa ra những mục tiêu tăng trưởng hoang đường, bất chấp bối cảnh kinh tế toàn cầu và nội địa cực kỳ khó khăn. Việc vội vàng thông qua dự án đường sắt 67 tỷ USD khi thiết kế còn chưa xong, hay kế hoạch xây nhà máy điện hạt nhân trong khi dân trí, kỹ thuật và an toàn không bảo đảm cho thấy một lối quản trị nghiệp dư và nguy hiểm. Đồng thời, trong khi đó Việt Nam có tỷ lệ xuất khẩu/GDP lên đến trên 200%, trong đó riêng Mỹ chiếm khoảng 30%. Nếu Mỹ đánh thuế hoặc áp rào cản thương mại, nền kinh tế có thể sụp đổ tức thì vì thị trường nội địa không đủ lớn để hấp thụ hàng hóa.


Các dự án Vành đai Con đường bị ngưng, vốn Trung Quốc rút khỏi Đông Nam Á. Ngay cả Lào và Campuchia đang bị Trung Quốc kiện đòi nợ. Việt Nam vì vậy mất đi một nguồn tài trợ hạ tầng quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh đầu tư công đang được xem là cứu cánh. Cả Mỹ và Trung Quốc đều đang khủng hoảng từ bên trong. Châu Âu ngày càng độc lập hơn, và trật tự thế giới dân chủ không còn một người lãnh đạo như trước. Trong bối cảnh này, Việt Nam không thể tiếp tục chiến lược đu dây. Quốc gia cần một định hướng rõ ràng và độc lập hơn về chiến lược phát triển.

Tham nhũng đã siết cổ chế độ 

Tham nhũng ở Việt Nam không phải là hành vi bất thường mà là cơ chế vận hành quyền lực thực tế. Một người không thể lên làm lãnh đạo nếu không tham nhũng, và khi đã lên rồi thì phải tham nhũng để duy trì quyền lực. Sự suy thoái đạo đức trong bộ máy không còn thuốc chữa, vì bản thân chế độ là người sản sinh và bảo vệ nó.

Bộ máy như một con quái vật vô dụng. Các cơ quan nhà nước được lập ra không vì nhu cầu xã hội mà vì nhu cầu quyền lực và chia ghế. Mỗi khi có vấn đề mới, thay vì tổ chức lại, họ lại thành lập thêm bộ mới, tổng cục mới. Kết quả là một mạng lưới hành chính chồng chéo, ai cũng có quyền nhưng không ai chịu trách nhiệm. Điều này khiến chính quyền yếu kém trong quản lý nhưng lại rất mạnh trong kiểm soát và đàn áp. Tham nhũng và cấu trúc nhà nước yếu kém không chỉ song song tồn tại mà còn cộng hưởng để hủy hoại hiệu quả quản lý. Một dự án dù tốt đến đâu cũng không thể triển khai được nếu phải đi qua 5 tầng giấy phép, 7 tầng phê duyệt và 10 tầng bôi trơn. Khi chính sách trở thành công cụ làm giàu, nhà nước mất đi khả năng thực thi chính sách thực sự. 

Một khế ước xã hội mới

Việt Nam đang ở trong giai đoạn cuối cùng của một mô hình lịch sử đã lỗi thời. Không có cải cách bề mặt nào như đổi tên Đảng, thay tên nước, bỏ cấp huyện,… mà có thể thay thế cho một thay đổi chính trị thực sự. Chúng ta phải nhìn nhận sự thật là chính quyền hiện nay không còn khả năng tự cải cách. Những người hưởng lợi từ hệ thống không thể và không muốn thay đổi hệ thống đó. Thay vào đó, một thay đổi chỉ có thể đến từ một khế ước mới giữa toàn thể nhân dân và thể chế cầm quyền, đó là khế ước của dân chủ, đa nguyên, minh bạch và trách nhiệm.

Chỉ có một khế ước mới, một thiết kế mới cho một tương lai chung của Việt Nam đó là chế độ đại nghị tản quyền, như đã được Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã kiên trì bổ túc và đề nghị liên tục trong suốt hơn 40 qua mới có thể bảo đảm được: Quyền lực không bị tập trung vào một nhóm người. Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước quốc hội, không phải trước Đảng. Báo chí và tư pháp độc lập trở thành thiết chế kiểm soát quyền lực. Mỗi người dân là một công dân có quyền, không phải thần dân phục tùng.

Đây không chỉ là một mô hình đẹp về lý thuyết, mà còn là phương án khả thi duy nhất để tránh hỗn loạn, chuyển hóa ôn hòa, và tái lập tính chính danh cho bộ máy quốc gia. Trí thức Việt Nam phải lựa chọn tiếp tục bảo vệ một chế độ đang mục ruỗng từ bên trong hay can đảm xây dựng một xã hội dân chủ, pháp trị, nhân bản. Mọi con đường nửa vời sẽ chỉ kéo dài khủng hoảng, gia tăng bất ổn, và đẩy đất nước vào ngõ cụt. Chúng ta đang sống trong một thời điểm mà lịch sử mở ra ngã ba đường. Hoặc là cải cách thực sự, hoặc là sụp đổ. Không có con đường thứ ba. Những người có trách nhiệm với tương lai dân tộc cần dám nói, dám hành động, và dám đoạn tuyệt với quá khứ sai lầm.

Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã chỉ rõ con đường đó là dân chủ đa nguyên, đại nghị tản quyền, nhà nước pháp trị và Dự án chính trị mới. Đó là lựa chọn tốt nhất để đất nước bước vào Kỷ Nguyên Mới với tư cách một quốc gia văn minh, được xây dựng trong tinh thần hoà giải, trong sự bao dung của tình anh em tìm lại, bằng trí tuệ và lòng yêu nước. 

Trần Khánh Ân

21/06/2025