Dohamide : Giấc mơ Chàm và Bangsa Champa (Ngô Thế Vinh)
Người viết vẫn có những trao đổi với anh Dohamide và cả hai cùng nhau đồng ý rằng : chừng nào Việt Nam chưa là một đất nước dân chủ, chưa có một chính sách đối xử hợp lý, công bằng và nhân đạo với các sắc dân thiểu số, thì mọi cội nguồn bất an (roots of unrest) vẫn còn đó. Sự ổn định bằng trấn áp như hiện nay không phải là giải pháp dứt khoát và lâu dài cho một quốc gia phát triển trong bối cảnh toàn cầu theo một chiều hướng bền vững.
Tiểu sử
Dohamide, người gốc Chăm, sinh năm 1934 tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang), có thêm ba bút hiệu nhưng ít được biết đến : Linh Phương, Châu Giang Tử, Châu Lang.
Từ trái, cây bút chuyên khảo
văn minh Champa trên tạp chí Bách Khoa Dohamide, chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ
Châu, Ngô Thế Vinh, nhà văn Võ Phiến [hình chụp 1994 tại Little Saigon, tư liệu
Ngô Thế Vinh]
Khi Dohamide có bài viết đầu
tiên"Người Chàm tại Việt Nam ngày nay" đăng trên tạp
chí Bách Khoa năm 1962, Chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã giới
thiệu anh với độc giả như sau :
"Bạn Dohamide, tác giả loạt
bài sau đây, là người gốc Chàm, sanh tại làng Katambong, Châu Đốc
(An Giang). Bạn đã có can đảm thoát ly những ràng buộc khắt
khe của tập tục địa phương để lên thủ đô Sài Gòn vừa đi
làm nuôi gia đình vừa đi học, và hiện nay bạn đã tốt
nghiệp ở Học viện Quốc gia Hành chánh. Ngoài tiếng Chàm là tiếng
mẹ đẻ, bạn Dohamide biết nói và viết các thứ tiếng Việt, Pháp,
Anh, Ả Rập, Mã Lai, Cam Bốt, những thứ tiếng
này đã giúp bạn Dohamide rất nhiều trong những thiên khảo cứu
như trình bày với bạn đọc".
[Bách Khoa, số 135,
15/8/1962]
*
Dohamide và người em Dorohiêm, cả hai"đã
sanh ra và lớn lên tại một thôn ấp người Chăm theo tôn giáo Islam hệ Sunni
Imam Shafi’y,vốn là hậu duệ của Vương quốc Champa lưu vong từ miền
Trung Việt Nam ngày nay. Do vào thời vua Minh Mạng áp dụng một chánh
sách đối xử khắc nghiệt tàn sát người Chàm, họ phải đào
thoát sang định cư bên đất Kampuchea và mãi về sau
này, do có chính sách chiêu dụ của nhà Nguyễn, một số đã trở về tái định
cư tại vùng Tây Nam Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trên vùng đất mới này,có 7
làng Chăm đã được thành lập, (con số 7 có ý nghĩa
thiêng liêng với người Chàm), trong đó, ngôi làng chúng tôi có từ thời
thuộc Pháp, lấy tên là làng Katambong tức Koh Ta-boong thuộc tỉnh
Châu Đốc.
Lời tòa soạn của chủ nhiệm
Lê Ngộ Châu giới thiệu Dohamide, tác giả bài viết đầu
tiên "Người Chàm tại Việt Nam ngày nay" trên tạp
chí Bách Khoa, số 135, 15/8/1962.
Koh tiếng Chàm có nghĩa
là cồn hay cù lao, Ta-boong là cây gậy, ngụ ý hình dáng
cù lao này giống như một cây gậy".Koh Ta-boong nguyên là một cồn
cát, do phù sa từ sông Mekong tạo nên dọc theo một bên bờ sông Hậu,
hàng năm đều có lụt với mùa"nước nổi, nước giựt" và hiện
tượng bên lở bên bồi. Làng Katambong nằm phía bên bồi, nay là một ấp
lấy tên Việt Nam là Khánh Mỹ thuộc xã Khánh Hòa, huyện Châu
Phú, tỉnh An Giang.
"Ngoài ra còn có 6 làng
người Chăm khác là Mat Chruk, Koh Kaboak, Plây Kênh, Plao Ba, Koh Ghoi,
Koh Kaghia, Sabâu, với địa danh Việt tương ứng là Châu
Giang, Đa Phước, Châu Phong, La Ma hoặc Vĩnh Trường, Bún Lớn hoặc Bún Bình
Thiên, Đồng Cô Kỵ… với địa thế không liền nhau" [1].
Làng Katambong là một xã hội
Chăm thu nhỏ và khép kín. Người Việt bên kia sông thì quen gọi họ là Chà
Châu Giang, trong khi người Chàm thì vẫn gọi người Việt
là "Yuôn", tuy sống kế cận nhưng họ thuộc hai nền
văn minh khác nhau : một bên là nền văn minh cầm đũa (civilisation
de la baguette), một bên là nền văn minh ăn bốc.
Thân phụ anh Dohamide là một
trong hai vị giáo làng trong 7 làng Chăm địa phương, một
mình ông phải phụ trách luôn cả ba lớp : đồng ấu
(cours enfantin), dự bị (cours préparatoire) và sơ đẳng
(cours élémentaire), học đến đó là hết lớp ; muốn tiếp
tục học thêm thì phải ra trường tỉnh nhưng hầu hết các học sinh Chăm trong
làng Katambong đều nghỉ học và sau đó chỉ đến trường để được
dạy thêm kinh sách giáo lý Islam.
Qua sông thăm Cồn Tơ Lụa làng Đa Phước :
Trái : Người viết đến thăm giáo đường Mubarak (có nghĩa là được ban ân phước) của người Chăm Islam ở làng Đa Phước Châu Đốc ; công trình kiến trúc nguy nga này được hoàn tất từ 1992 do tiền từ các cộng đồng Chăm hải ngoại gửi về, cả được hậu thuẫn rất mạnh từ các nước Hồi giáo nhất là Mã Lai ;
Phải, ngôi nhà sàn
ngói đỏ của người Chàm, trên Cồn Tơ Lụa An Giang, Châu Đốc,
mùa lũ nước có thể ngập tới sàn nhà [photo by Nguyễn Kỳ Hùng]
Trái : Người viết đứng bên một khung dệt lụa cổ truyền, nghề này vẫn được duy trì, và đã gắn bó những người phụ nữ Chàm với gia đình trong một xã hội khép kín ;
Phải : Tác giả bế em
bé Chàm tên Karim từ tay mẹ của em [photo by Nguyễn Kỳ Hùng]
Năm 1943, đã 9 tuổi, như một
trường hợp hiếm hoi, Dohamide được thân phụ khuyến khích ra trường tỉnh
học tiếp lớp nhì (cours moyen). Đi học hàng ngày, phải qua sông bằng
xuồng. Ra tỉnh, được tiếp xúc với một xã hội xa lạ giữa những
người Yuôn (Kinh), cũng là lúc Dohamide bắt đầu có những thắc mắc
về cội nguồn của mình. Bangsa Champa, tìm về cội nguồn, có lẽ bắt đầu
từ đây.
Năm 1948, sau bậc tiểu học,
Dohamide lại được cha mẹ thu xếp cho đi tàu sông rời quê nhà lên
Sài Gòn học tiếp bậc trung học. Tại Hòn Ngọc Viễn Đông, Dohamide được tiếp
cận với một xã hội mở rộng gồm nhiều sắc tộc, không phải chỉ có người
Việt, người Pháp, người Hoa mà còn có cả người Ấn Độ,
người Mã Lai theo đạo Islam, họ làm ăn rất thành công và
giàu có.
Nhưng cảnh sống đạm bạc của
Dohamide vẫn thu hẹp trong một khu xóm lao động Nancy nghèo nàn, gồm những
căn nhà cây vách ván lụp xụp thuộc quận 2. Dohamide sống chung với mấy
gia đình Chăm cũng đến từ Châu Đốc, họ lên Sài Gòn kiếm
sống bằng cách làm thuê, buôn bán nhỏ rải rác nhưng vẫn tìm đến với
nhau để gần gũi nương tựa, lâu dần cũng hình thành được một
mô thức jam’ah (cộng đồng).Để duy trì đức tin, họ tạo được
riêng một giáo đường (masjid) khởi đầu chỉ là căn nhà gỗ nhỏ thô sơ nhưng
đó vẫn là nơi để duy trì những sinh hoạt xã hội tôn
giáo y khuôn như tại quê nhà khiến chàng trai Dohamide tuy sống
thiếu thốn nhưng vẫn cảm thấy được ấm lòng.
Năm 1953, xảy ra một trận hoả hoạn
tại khu Nancy đã khiến cho cộng đồng người Chăm đang sinh sống ở đây
bị trắng tay. Cố gắng xây dựng lại, chưa được bao lâu lại xảy ra
vụ Bình Xuyên 1955, xóm Nancy một lần nữa lại bị thiêu rụi. Điều
tiếc nuối nhất với Dohamide là bao nhiêu ghi chép về lịch sử Champa
từ Thư viện Việt Nam cũng thành tro than. Dohamide viết :"Nhưng
dầu sao, qua quá trình lần mò ghi chép, ít nhất tôi cũng
có được trong đầu một ý niệm tổng quát sơ khởi về Bangsa
Champa gốc nguồn và biết được những sự kiện căn bản bao quanh
người Chăm Châu Đốc, trong đó có bản thân
tôi"[1] .
*
Tuy nghèo xác xơ, nhưng những người
Chăm này vẫn cố bám đất, từng bước xây dựng lại đời sống mới. Do
thấy rõ được nhu cầu phải liên hệ với xã hội bên ngoài,
Dohamide được mấy vị trưởng thượng đề nghị anh mở lớp
dạy chữ Việt cho các đồng tộc Chăm. Qua lớp học này, qua ngôn ngữ Việt, ý niệm
về cội nguồn Bangsa Champa được đánh thức dậy. Số người
Chăm Châu Đốc lên sống ở Sài Gòn ngày càng nhiều, không phải chỉ ở khu
xóm Nancy, nay lan ra các xóm lao động khác như Hòa Hưng,
Phú Nhuận… dần dà họ kết nối lại được thành những
jam’ah (cộng đồng nhỏ), nhưng xóm Nancy vẫn là khu sinh hoạt trung
tâm. Và nơi đây cũng là cái nôi cho Hiệp hội Hồi giáo Việt
Nam được hình thành vào năm 1959.
Xong chương trình Tú tài I,
Dohamide chọn thi vào học Ban Tham sự Đặc biệt Cao Nguyên chương
trình 2 năm (dành cho người sắc tộc thiểu số) thuộc Học viện Quốc gia Hành
chánh và cũng là lần đầu tiên trong đời Dohamide được
gặp một số bạn đồng khóa thuộc các sắc tộc Tây nguyên như Ê-đê,
Churu, Jarai, Bahnar… và cả những người thiểu số Thái, Tày, Nùng di
cư từ miền Bắc vào. Và đặc biệt hơn nữa, Dohamide còn có được
hai người bạn Chăm tới từ Phan Rang, nhưng với cảm giác đau xót
là họ đã không thể hiểu nhau bằng ngôn ngữ Chăm, vốn gốc
là tiếng mẹ đẻ của mình, và cả ba không có cách
nào khác hơn là phải dùng tiếng Việt pha với tiếng Pháp để trao đổi
chuyện trò.
Dohamide tốt nghiệp Thủ khoa Ban
Cao nguyên (1958). Khi có thêm Tú tài II, Dohamide được học tiếp lên Ban Đốc sự Hành
chánh Khóa 7 chương trình 3 năm, Học viện Quốc gia Hành chánh (1959-1962). Sau
khi tốt nghiệp, Dohamide được bổ nhiệm làm việc trong ngạch hành
chánh công quyền.
Từ năm 1956, do chánh sách có từ thời Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa,quy định Việt Nam hóa tên họ các sắc dân thiểu số. Theo anh Nguyễn Đắc Điều (Đốc sự Khóa 6), anh Dohamide không tự chuyển tên mình sang tiếng Việt, nhưng khi danh sách tốt nghiệp Đốc sự Khóa 7 (1962) trình lên Tổng thống Ngô Đình Diệm thì tên Dohamide đã trở thành "Đỗ Hải Minh" [Nghị định bổ nhiệm đính kèm].
Hình trái : Nghị định của
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa hợp thức hóa việc bổ dụng 56 sinh viên tốt
nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh Khóa VII năm 1962, tên
Dohamide đã chính thức đổi thành Đỗ Hải Minh qua Nghị định
này [tư liệu Nguyễn Đắc Điều]
Hình phải : Dohamide nay
có tên Đỗ Hải Minh (người đứng ngoài cùng từ trái) tốt
nghiệp Khóa VII Ban Đốc sự Học viện Quốc gia Hành chánh 1962 [album
gia đình anh chị Dohamide]
*
Năm 1964, Dohamide lập
gia đình với cô giáo người Việt Phan Thị Hoàng Hoa,
lúc đó đang dạy học ở một trường trung học Gia Định. Cũng khi đó Dohamide được một vài bô lão Chăm có tinh
thần Bangsa cực đoan nhắc nhở anh, việc vua Chăm
Pô Rômê ngày xưa đã chết vì cưới vợ Việt.
Là người Chăm, không thể không
bị xúc động thấm thía khi được đọc về câu chuyện – dù biết
rõ nội dung mang nặng tính huyền thoại dân gian – vị vua
Champa đã say mê sắc đẹp mỹ nhân Yuôn (là tên người
Chàm và người Khmer gọi người Việt), để rồi chính nàng Yuôn đã ra
tay đốn cây Krêk vốn là tiêu biểu linh hồn Vương quốc Champa khiến phải
bị địch bắt đi và chết thảm.
Nhưng rồi đám cưới Chăm-Việt
vẫn cứ diễn ra. Chú rể Chăm Dohamide và cô dâu Yuôn Phan Thị Hoàng Hoa
sau này đã có một cuộc sống lứa đôi rất hạnh phúc, họ có được ba
con : hai trai, một gái là con út đều thành đạt khi tới tuổi
trưởng thành.
Sau đại đăng khoa
là tiểu đăng khoa : chú rể Chăm Dohamide với chiếc áo
the đen, trao nhẫn cưới trong đám cưới với cô giáo Việt Phan Thị Hoàng
Hoa, ngày 24/5/1964 trước khi đi Mỹ du học [album gia đình anh
chị Dohamide]
Vào giai đoạn đó, trên Cao
Nguyên Trung Phần đang dấy lên cuộc đấu tranh đòi ly khai của
phong trào BAJARAKA (là chữ viết tắt của 4 sắc tộc Thượng lớn :BAhnar,
JArai, RhAdé và KAho), họ phản đối chính sách phân biệt đối xử người
Thượng của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. BAJARAKA được coi là tiền
thân của tổ chức FULRO về sau này.
Mặt Trận FULRO (Front
Unifié de Lutte des Races Opprimées) không chỉ bao gồm các sắc
dân Thượng Tây Nguyên, mà được mở rộng kết hợp thêm với :
1) Mặt trận Giải phóng Champa
(Front de Libération du Champa, FLC) tức FULRO Chăm, do Les Kosem (một tướng nhảy
dù người Khmer gốc Chăm) lãnh đạo.
2) Mặt trận Giải phóng Kampuchea Krom của nhóm người Việt gốc Miên sống ở vùng Tây-Nam Nam Bộ (Front de Libération du Kampuchea Krom, FLKK) tức FULRO Khmer, do Chau Dera làm đại diện, để thành lập một tổ chức thống nhất gọi là FULRO : Mặt trận Thống nhất đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức
Do những biến động trên, Bộ Nội
vụ Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã không bổ nhiệm những
khóa sinh sắc tộc tốt nghiệp vào các nhiệm sở trên vùng Tây Nguyên.
Dohamide ra trường được bổ nhiệm vào chức vụ không liên hệ gì tới
Nha Thượng Vụ, riêng Dorohiêm, thì bị đưa ra vùng địa đầu
Quảng Trị một thời gian 5 năm trước khi được về Sài Gòn làm
chuyên viên văn hóa giáo dục các sắc tộc thiểu số.
Do Dohamide là thành phần người
Chăm hiếm hoi có học, anh đã vận động và thành lập được
một Hiệp Hội Chàm Hồi giáo Việt Nam từ 1959. Năm 1964, Dohamide được đề cử là Đại
biểu Islam Việt Nam đầu tiên tham dự Hội nghị các nước
Islam Đông Nam Á và Viễn Đông tại Kuala Lumpur,
Malaysia.
Năm 1972, anh đại diện Việt Nam tham dự Hội nghị Islam Thế giới tại Thánh địa Mecca, Ả Rập Saudi. Và cũng từ đây, Dohamide đã xây dựng được mối quan hệ chính thức giữa cộng đồng Chăm Islam nhỏ bé ở Việt Nam với Liên minh Islam Thế giới.
Ngày 13/4/1974, cộng đồng
Chăm nồng nhiệt chào đón Dohamide trở về Sài Gòn sau một hội nghị quốc
tế Hồi giáo tại thánh địa Mecca [album gia đình anh chị Dohamide]
*
Mối duyên Bách Khoa
Và rồi không ai khác hơn, cũng
chính là chủ nhiệm Lê Ngộ Châu, người có mắt
xanh đã tìm ra và giới thiệu Dohamide trên báo Bách Khoa,
và có thể nói Dohamide là người Chăm đầu tiên trở thành
một tên tuổi quen thuộc với độc giả Bách Khoa từ thập niên
1960s, do loạt bài chuyên khảo về lịch sử và văn minh Champa.
Buổi đầu, Dohamide chập chững
cầm bút tập viết các bài phóng sự tiếng Việt về người Chàm được
chủ nhiệm Tam Mộc cho đăng trên nhật báo Buổi Sáng, tuần báo Thế Giới tại
Sài Gòn. Dohamide khai thác đề tài "nghề chài rà của
người Chàm Châu Đốc" do truyền thống của dân tộc Champa thời cổ rất
giỏi nghề đi biển và chài lưới. Loạt bài được đón nhận hào
hứng, Dohamide còn được đám độc giả Chăm bình dân yêu cầu
khai thác thêm về đề tài "bùa ngải Chà Châu
giang". Đây cũng là dịp để cộng đồng nhỏ bé Chàm
Châu Đốc trong khu xóm nghèo Nancy mới vừa học tiếng Việt đua nhau
mua báo để được hiểu thêm về sinh hoạt nơi quê nhà.
Trong thời gian học chương
trình Đốc sự tại Học viện Quốc gia Hành chánh, Dohamide có dịp được
làm việc với giáo sư Phó Viện trưởng Nghiêm Đằng
và sau đó anh được giới thiệu với Giáo sư Nghiêm Thẩm
là bào đệ của ông. Giáo sư Nghiêm Thẩm
lúc đó là Giám đốc Viện Khảo cổ Sài Gòn, cũng là
giáo sư ngành nhân chủng học tại Đại học Văn Khoa. Nhờ cơ duyên ấy
Dohamide được dịp tham khảo thêm các tài liệu của Viện Khảo cổ và Hội
Nghiên cứu Đông Dương (Société des Études Indochinoises).
Vào cuối năm 1962,
Dohamide đã hệ thống hóa được các ghi chép và viết loạt
bài "Người Chàm tại Việt Nam ngày nay". Loạt bài này tình cờ được ông
Nguyễn Ngọc Nê, là một chuyên viên trong đoàn cố vấn Đại học
Michigan đọc và lấy làm thích thú nên đề nghị chuyển
tới tạp chí Bách Khoa, nơi anh Lê Ngộ Châu đang là chủ nhiệm
kiêm chủ bút. Lê Ngộ Châu rất bén nhạy, thấy ngay đây là một "viên
ngọc ẩn thạch", nên đã mời ngay Dohamide tới gặp tại tòa soạn Bách
Khoa, 160 Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Chẳng mấy chốc, hai người trở thành đôi
bạn tâm giao. Bách Khoa cũng là nơi tạo điều kiện cho Dohamide gặp gỡ trao đổi
với các cây bút nổi tiếng khác như nhà văn Bình Nguyên Lộc tác giả một
cuốn sách gây nhiều tranh cãi "Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt
Nam", học giả Nguyễn Văn Hầu nổi tiếng với các bài chuyên
khảo về Nam Kỳ lục tỉnh, vùng Thất Sơn Châu Đốc và cảhọc giả Nguyễn
Hiến Lê về sau này.
Tiếp tục được sự khuyến
khích và gợi ý các đề tài từ chủ nhiệm
Lê Ngộ Châu, Dohamide đã viết được một loạt 36 bài trong bộ báo
Bách Khoa 426 số, [cộng thêm hai bài trao đổi của hai học giả Nguyễn
Văn Hầu và nhà văn Bình Nguyên Lộc]. Dohamide trở thành nổi tiếng
như là một nhà văn hóa Chăm của tạp chí Bách Khoa.
Bìa số báo Bách Khoa 138 (1/10/1062) và bài viết "tang lễ và hôn nhân Chàm" tr.19-21 của Dohamide [nguồn : thư viện Người Việt Online]
Toàn bộ 426 số báo Bách
Khoa nay đã được số hóa (digitized) và hoàn tất ngày
15/10/2017. Đây là công trình sưu tập của chị Phạm Lệ Hương
một thủ thư lâu năm và anh Phạm Phú Minh chủ bút Diễn
Đàn Thế Kỷ, nay được lưu trữ và phổ biến miễn
phí trên Thư Viện Người Việt Online và độc giả có thể đọc
tất cả các
bài viết của anh Dohamide trên tạp chí Bách Khoa :
1. Người Chàm tại Việt Nam
ngày nay. Dohamide. Bách Khoa, số 135 (15/8/1962), tr.27-32
2. Giới lãnh đạo
thôn ấp Chàm ở Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa, số 136
(1/9/1962), tr.9-13
3. Cuộc sống gia đình của
người Chàm. Dohamide. Bách Khoa 137 (15/9/1962), tr.11-16
4. Tang lễ và hôn
nhân Chàm. Dohamide. Bách Khoa 138 (1/10/1962), tr.19-21
5. Người Chàm Châu Đốc.
Dohamide. Bách Khoa 139 (15/10/1962), tr.15-18
6. Sinh hoạt xã hội của
người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 140 (1/11/1962), tr.17-22
7. Sự trưởng thành của
thanh thiếu nữ Chàm. Dohamide. Bách Khoa 141 (15/11/1962), tr.17-24
8. Đời sống gia đình của
người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 142 (1/12/1962), tr.31-34
9. Tang lễ và tín
ngưỡng của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 143 (15/12/1962), tr.
21-26
10. Tín ngưỡng của người
Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 144 (1/1/1963), tr. 25-28
11. Một vài nhận xét về người
Chàm tại Việt Nam ngày nay : Sự hiện tồn của ngôn ngữ Chàm. Dohamide.
Bách Khoa 145 (15/1/1963), tr. 63-69
12. Một vài nhận xét về người
Chàm tại Việt Nam ngày nay : Viễn ảnh cuộc sống xã hội. Dohamide.
Bách Khoa 146 (1/2/1963), tr. 19-23
13. Vài vấn đề của
cộng đồng người Chàm tại Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa 147 (15/2/1963),
tr.15-20
[13b. Nhân loạt bài người Chàm tại
Việt Nam hiện nay của ông Dohamide, góp ý về :Bước phiêu
lưu của người Chàm Châu Đốc. Nguyễn Văn Hầu. Bách Khoa 153 (15/3/1963),
tr.33-39]
14. Kỷ nguyên Hồi giáo.
Dohamide. Bách Khoa 181 (15/7/1964), tr.13-17
15. Hồi giáo trong buổi
sơ khai. Dohamide. Bách Khoa 182 (1/8/1964), tr. 19-27
16. Kinh Cu-ran trong sinh
hoạt của người Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 183 (15/8/1964), tr. 31-38
17. Nguyên tắc hành đạo
của Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 184 (1/9/1964), tr.53-57
18. Nguyên tắc hành đạo
của Hồi giáo : cầu nguyện (sgo-lab). Dohamide. Bách Khoa 185 (15/9/1964), tr.
21-29
19. Nguyên tắc hành đạo
của Hồi giáo : Hành hương Mecca. Dohamide. Bách Khoa 186 (1/10/1964), tr.29-35
20. Tập tục của người Hồi
giáo 1. Dohamide. Bách Khoa 187 (15/10/1964), tr.47-50
21. Tập tục của người Hồi
giáo 2. Dohamide. Bách Khoa 188 (1/11/1964), tr.25-33
22. Gia đình người Hồi giáo.
Dohamide. Bách Khoa 189 (15/11/1964), tr.37-42
23. Nghĩa vợ chồng
trong gia đình Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 190 (1/12/1964), tr. 23-27
24. Giá thú Hồi giáo.
Dohamide. Bách Khoa 191 (15/12/1964), tr. 25-30
25. Hồi giáo ở nước
ngoài và ở Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa 192 (1/1/1965), tr. 31-35
26. Hồi giáo tại Việt Nam.
Dohamide. Bách Khoa 193-194 (15/1/1965), tr.53-59
27. Cuộc sống núi rừng Cao
nguyên : sắc tộc Jeh, một năm tắm một lần. Dohamide. Bách Khoa 380 (1/11/1972),
tr.19-22
28. Thân phận người
sơ khai. Dohamide. Bách Khoa 387 (15/2/1972), tr.47-53
29. Thảm trạng da đỏ.
Dohamide. Bách Khoa 393 (23/6/1973), tr.23-31
30. Những khuôn mặt sầu
chai đá của châu Mỹ la tinh. Dohamide. Bách Khoa 395 (8/8/1973),
tr.35-41
31. Thử bàn lại với
nhà văn Bình Nguyên Lộc về "người Châu
giang". Dohamide. Bách Khoa 396 (30/8/1973), tr.23-30
[31b. Về người Châu
Giang : trả lời ông Dohamide trên Bách Khoa 396. Bình Nguyên Lộc. Bách
Khoa 398 (1/10/1973), tr.43-46]
32. Những hiện tượng huyền
bí trong tập tục Chàm.Dohamide. Bách Khoa 405 (15/2/1974), tr.13-16,
tr.83-86
33. Đi vào hội nghị Hồi
giáo Mecca và kiểm điểm một chuyến đi. Dohamide. Bách Khoa 411
(1/7/1974), tr.43-54
34. Thế lực dầu lửa 1.
Dohamide. Bách Khoa 418 (20/11/1974), tr.13-18
35. Thế lực dầu lửa 2.
Dohamide. Bách Khoa 419 (15/12/1974), tr. 15-22
36. Sự thức tỉnh của
các nước sản xuất dầu. Dohamide. Bách Khoa 420 (1/1/1975), tr.43-53
…
Loạt bài trên báo Bách Khoa
là những tài liệu cơ bản cho tập sách "Dân tộc Chàm lược sử" xuất
bản năm 1965 với lời tựa giới thiệu của giáo sư Nghiêm Thẩm, như"mở ra
một cánh cửa sổ cho người Chăm có một tầm nhìn tổng hợp về lịch
sử dân tộc gốc nguồn của mình".
Do có được sự quan tâm của ông
Sabarudine Cik, nguyên quyền Đại sứ Malaysia tại Việt Nam
lúc đó, cuốn sách này cũng đã được dịch sang tiếng Anh "A
Condensed History of Cham People" xuất bản ở Malaysia năm
1969[1] .
Du học Mỹ : diện kiến cựu
Tổng thống Truman
Với thành tích học vấn xuất sắc,
Dohamide nhận được học bổng đi du học Mỹ, lấy bằng Cao học M.A. về Chánh
trị tại học Đại học Kansas, Hoa Kỳ (1967).
Điều cực kỳ lý thú và không
bao giờ quên đối với chàng sinh viên người Chăm Dohamide khi được
gặp vị cựu Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman, sinh quán tại Kansas
mà ai cũng biết là vị Tổng thống đã chấm dứt cuộc Thế Chiến
thứ Hai năm 1945 bằng quyết định ném hai trái bom nguyên tử xuống
Nhật Bản.
Dohamide được diện kiến cựu Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman tại Kansas City 1966 [album gia đình anh chị Dohamide]
Sau đây là những dòng chữ của
chính Dohamide ghi lại cuộc gặp gỡ đầy xúc cảm và nhớ đời với vị cựu
Tổng thống lừng lẫy của lịch sử Hoa Kỳ :
"Có một sự việc khiến
tôi – Dohamide, vô cùng phấn khởi đồng thời cũng rất hồi hộp. Đó là dịp
duy nhứt trong đời tôi đột nhiên được mời, với tánh cách là một đại
biểu sinh viên Việt Nam đến một khách sạn sang trọng ở thành phố Kansas
tham dự buổi tiếp xúc của cựu Tổng thống Harry S. Truman.
Để buổi gặp
có ý nghĩa, mỗi sinh viên được dặn chào mừng vị cựu Tổng
thống bằng tiếng nói mẹ đẻ và tự giới thiệu tên họ,
tên đất nước mình. Được mở cửa đưa vào phòng tiếp kiến,
tôi đã mở lời chào mừng bằng tiếng Việt, và làm như lời
nhắc của ban nghi lễ trong phần tự giới thiệu, nhưng không hiểu
sao sau khi nói tên nước Việt Nam xong thì mường tượng như một bản năng chợt đến,
tôi lại thêm "gốc Chàm" ! Do đó đáp câu hỏi của Tổng
thống liền sau đó tôi đã phải cố gắng vận dụng tiếng
Anh vốn hãy còn nặng giọng phát âm tiếng Pháp, lấy hết sức bình sinh làm
rõ gốc nguồn Chàm này, và phương cách cho dễ hiểu nhứt không
gì hơn là lấy trường hợp người da đỏ mà người Mỹ quen
gọi là "Indian" có mặt tại các khu dành riêng
(reservation) hiện có tại đất Kansas này, để so chiếu ra
hình dung một người Chàm tại Việt Nam. Và quả nhiên, hiệu nghiệm, ông
cựu Tổng thống nói ngay là tại tiểu bang Kansas này có các nhóm người
Indian cư ngụ và nhấn mạnh chánh phủ liên bang Hoa Kỳ tôn
trọng nền văn hóa cổ truyền của họ...
Đi bách bộ trên con đường
ngắn vào nhà trọ, tôi nôn nao ước phải chi có một đồng tộc
Chăm bên cạnh ngay lúc đó, để cùng chia sẻ niềm xúc động đang
dâng tràn trong người, sau buổi diện kiến có nói lên được từ "Champa" thân
thương này…" [1] .
Sau đó, Dohamide đã được một vị mạnh
thường quân Mỹ giàu có bảo trợ cho về sống ở một
nông trại mênh mông bát ngát của tiểu bang Kansas, và cả giúp cho
Dohamide được đi thăm các khu dành riêng cho người da đỏ cùng
các cơ sở dạy nghề dành cho các sắc dân thiểu số này tại một địa điểm
lân cận.
Trở về Việt Nam
Học xong chương trình Cao học
(Master) về Chánh trị học tại Đại học Kansas, Hoa Kỳ (1967),
Dohamide trở về Việt Nam, trở lại với cuộc đời công chức
nhưng công việc lại không liên quan gì tới ngành phát triển sắc tộc mới
hình thành.
Sẵn có mối quan hệ chặt
chẽ với giới chức Mỹ, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Dohamide được ông
Châu Kim Nhân, lúc đó đang là giám đốc Cơ quan Tiếp vận
Trung ương, mời về hợp tác sau này với chức vụ Phó Giám đốc.
Tại đây, Dohamide đã cùng với các bạn đồng sự vượt
qua được mọi nghi kỵ khó khăn, và đã tạo được mối
giao hảo tốt đẹp giữa cơ quan Tiếp vận Trung ương Việt Nam
Cộng Hòa và cơ quan Tiếp vận Viện trợ Mỹ USAID (U.S.
Agency for International Development / Logistics) thời bấy giờ[5] .
Giai đoạn sau 1975
Ngạch Đốc sự Quốc gia
Hành chánh được xem như thuộc thành phần quân cán chính cao cấp của
chánh quyền cũ nên sau 1975, Dohamide và cả người em
Dorohiêm đều phải đi trình diện tập trung cải tạo. Ban đầu
là các trại giam ở miền Nam, sau đó từ trại giam
Long Thành, Dohamide bị tống lên một đoàn xe bít bùng chở thẳng
ra bến Tân Cảng, đổ xuống hầm con tàu Sông Hương, cùng với mấy ngàn
tù nhân khác, trải qua hơn hai ngày đêm trên biển khơi ra tới Cảng Hải
Phòng, để rồi từ đây Dohamide lần lượt chuyển qua các trại
lao động khổ sai ngoài miền Bắc ngót 10 năm. Dohamide cũng không thể quên được
vụ chạy giặc biên giới trong cuộc Chiến Việt Trung 1979, xuống các tỉnh
Trung du. Dù ở trại nào, thì tình cảnh cũng giống như mọi
tù nhân khác, với ăn không đủ no đói không đủ chết,
rét lạnh do quần áo không đủ mặc, và bệnh tật
thì không thuốc men nhưng may mắn là Dohamide và cả người em
Dorohiêm, ở tù lâu hơn, vẫn còn sống sót.
Năm 1984, từ trại tù miền
Bắc, Dohamide được chuyển vào Nam và sau đó được tha
về ở tuổi đã ngoài 50, tóc đã nhuốm bạc với sức
khỏe suy yếu. Điều mà Dohamide coi như diễm phúc là được thấy lại đầy đủ ba đứa
con bên cạnh mẹ chúng, tuy tất cả đều ốm o do thiếu ăn. Vợ anh,
một cô giáo Việt dạy sử địa đã phải một mình hy sinh bươn
chải nuôi nấng ba con, và trong suốt mười năm tù đày ấy, chị Dohamide
Phan Thị Hoàng Hoa chỉ có thể ra Bắc "thăm
nuôi" chồng có một lần. Rồi Dohamide chạnh nhớ tới lời
khuyên năm xưa của một vài vị bô lão Chăm nhắc nhở anh sự việc vua
Pô Rômê ngày xưa đã chết vì cưới vợ Việt. Nhưng nay
anh vẫn còn sống, vẫn còn nguyên vẹn một mái ấm gia đình để trở về trong
khi một số bạn tù Việt của anh thì có người lại không may mắn
vì người bạn đời đã sang ngang.
Vẫn tình nghĩa Bách Khoa
Tuy chưa hết thời gian quản chế,
Dohamide một hôm đi bộ trên đường Phan Đình Phùng, tìm tới
tòa soạn Bách Khoa thăm anh chị Lê Ngộ Châu. Sau ngót 10 năm gặp
lại nhau, tay bắt mặt mừng, vẫn vui vẻ như thuở nào.
Sau đó vài ngày, Dohamide được anh chị Lê Ngộ Châu "bồi
dưỡng" (chữ của Việt Cộng từ trong tù cải tạo) cho một
bữa ăn thịt bò nhúng dấm mà Dohamide bảo là vào đúng
cơn thèm của một người vừa mới được trở lại với đời thường. Chị Lê Ngộ Châu,
vẫn tinh tế như bao giờ, biết rõ Dohamide có đạo Islam
không ăn được các món thịt heo.
Dohamide viết :"Tôi ghi lại đây
bữa cơm này không phải chỉ vì cái ngon lâu ngày mới được thưởng
thức lại, mà là vì cũng nhân bữa cơm này, tôi được gặp lại học
giả khả kính Nguyễn Hiến Lê, người mà tôi đã học hỏi được
rất nhiều, trước năm 1975, trên con đường tự học về những
gì bản thân ưa thích, trong đó, có việc tìm hiểu về Bangsa
Champa cội nguồn.
Trong buổi gặp này, bác Nguyễn Hiến
Lê vẫn nhắc nhở, dù có thế nào, cũng đừng bỏ cuộc,
cố gắng với sức mình và cùng khuyên anh chị em trẻ người
Chăm quan tâm nghiên cứu thêm về Champa để đóng góp tiếng nói của
chính người Chăm trong các vấn đề liên hệ tới cội nguồn cùng nền
văn minh Champa". Đây cũng là lần gặp cuối cùng trước khi bác Nguyễn Hiến
Lê qua đời, ngày 22/12/1984" [1] .
Hội nhập hay đi kinh tế mới
Ra tù rồi, nhưng vẫn còn bị quản
chế. Để khỏi phải đi vùng kinh tế mới, do là một
chuyên viên, Dohamide xin vào làm trong Công ty xuất nhập khẩu Cholimex ở quận
5 Sài Gòn. Giám đốc Cholimex là một người gốc Hoa, nguyên
là nhà thầu chuyên chở cho Nha Tiếp Vận thời Việt Nam Cộng Hòa,
đã biết anh Dohamide từ thời ấy. Cũng tại đây, Dohamide gặp lại
một số anh em chuyên gia cũ như Trần Bá Tước, Huỳnh Bửu
Sơn, Hồ Xích Tú…
Không lâu sau đó, cũng qua giới
thiệu của các bạn cũ, Dohamide được mời tham gia sinh hoạt "Nhóm Thứ Sáu trong
tổ tư vấn kinh tế" của Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Dohamide đã góp nhiều công sức để hình thành cơ quan Quản
trị Đầu tư IMC (Investment Management Inc) và cùng các bạn đồng sự đã xây
dựng được dự án liên doanh Khu chế xuất Tân Thuận [4] .
Những năm ở hải ngoại
Chín năm sau khi ra tù, phải đến
tháng 3/1993, qua bao nhiêu thủ tục giấy tờ phức tạp, qua chương
trình H.O. (Humanitarian Operations), Dohamide cùng gia đình được xuất
cảnh sang Mỹ. Nơi đến định cư đầu tiên là thị xã Frankfort,
thủ phủ của tiểu bang Kentucky, do Dohamide đã được một người Mỹ quen
anh trước 1975 bảo trợ, chu đáo lo cho gia đình anh nơi ăn chốn ở buổi
ban đầu.
Khi được tin Dohamide tới Mỹ,
bà con đồng tộc Chăm từ các địa phương khác rất vui mừng.
Dohamide đã được họ tới tấp gọi điện thoại hỏi thăm, có anh
em còn mua vé máy bay tạo cơ hội cho Dohamide được đi thăm các
tiểu bang có cộng đồng người Chăm sinh sống : từ miền đông
Washington DC, New York, tới Chicago sang các tiểu bang miền Tây
như Washington qua các thành phố Seattle, Olympia, tới California :
Sacramento, San Jose, Santa Ana… Đi đến đâu Dohamide cũng thấy sự hình
thành lớn mạnh của những cộng đồng Chăm hải ngoại, có nơi quy tụ được
tới hơn 300 gia đình Chăm, sinh hoạt đủ các ngành nghề. Điều đáng
nói là các bậc cha mẹ nay đã nhìn xa trông rộng, biết đầu
tư vào sự học cho con cái, một số đã tốt nghiệp bậc Đại
học, nhưng vẫn cố gắng giữ những tập tục cổ truyền từ bên
nhà.
Đám thanh niên Chăm nhiều nhiệt
huyết, vừa có cố gắng hội nhập vào dòng
chính (mainstream) Hoa Kỳ, vừa có ý thức bảo tồn văn hóa
Champa, và họ đã tổ chức được một Liên minh người Chăm Tị nạn (Cham
Refugee League).
Các cộng đồng Chăm hải ngoại
cũng đã thiết lập được những giáo đường (masjid) riêng trên
một số thành phố tại Hoa Kỳ, như Seattle, Olympia, Sacramento,
Pomona, Santa Ana… Nay do có thêm điều kiện tài chánh, nhiều người Chăm tại hải
ngoại đã thực hiện được"giấc mơ làm haji", đi
hành hương sang tận thánh địa Mecca.
Cuối cùng gia đình
Dohamide đã chọn về định cư tại Nam California nắng ấm
như vùng đất lành chim đậu. Sau một thời gian ổn định được
cuộc sống trên vùng đất mới, bắt đầu từ 2004
Dohamide đã có những chuyến về thăm Việt Nam, như một
tiếp tục cuộc hành trình Bangsa Champa, tìm về cội nguồn.
Các sách đã xuất bản
A. Văn hóa :
1. Dân tộc Chàm lược sử.Dohamide,
Dorohiêm, Hiệp Hội Chăm Hồi Giáo Việt Nam in lần thứ nhất, Sài Gòn 1965. Tủ sách
Chàm Châu Đốc tái bản lần 2 tại California, Hoa Kỳ 2016.
2. Bangsa Champa : tìm về một
cội nguồn cách xa. Dohamide, Dorohiêm, SEACAEF [Southeast Asian
Culture and Education Foundation] & Viet [Volunteers for the Integration of
Ethnic Traditions] Foundation, California, Hoa Kỳ 2004.
Buổi ra mắt sách Bangsa Champa tại hội trường báo Người Việt :
Trái, tác giả Dohamide chào mừng
quan khách,
Phải : Bác sĩ Phạm Gia Cổn,
thành viên sáng lập Viet Foundation, người điều phối chương trình ra mắt
sách ngày 8/1/2005 tại hội trường nhật báo Người Việt, Little Saigon
[tư liệu Phạm Gia Cổn]
Bangsa Champa là một
tác phẩm biên khảo nhưng khác với cuốn Dân tộc Chàm lược sử, các chương
viết trong sách có tính cách ghi chép về văn hóa, tìm về cội nguồn
và cuộc sống của dân tộc Chăm, đôi khi là các đoạn hồi
ký mô tả đời sống của các nhóm người Chăm đang sống rải
rác đây đó tại Việt Nam và cả ở hải ngoại.
Chương trình văn nghệ Chăm do Dorohiêm tổ chức trong buổi ra mắt sách Bangsa Champa với các vũ điệu Chàm trước hình một Tháp Chàm cổ kính và uy nghi. [tư liệu Phạm Gia Cổn]
Bangsa Champa : tìm về một
cội nguồn cách xa đã được tổ chức ra mắt tại hội trường báo Người
Việt, trên con đường báo chí Moran, Little Saigon, ngày 8/1/2005, do
bác sĩ Phạm Gia Cổn thành viên sáng lập Viet Foundation [Volunteers for the
Integration of Ethnic Traditions] điều phối, có thêm phần trình diễn
văn nghệ Chăm, do Dorohiêm phụ trách, trên một sân khấu có hình
ngọn Tháp Chàm uy nghi cổ kính. Một buổi ra mắt sách rất thành công trong
một hội trường có sức chứa 300 người chật hết chỗ.
3. Người Chăm Châu Đốc, là một công trình biên khảo thứ ba của Dohamide và Dorohiêm có nội dung đi sâu vàotập tục truyền thống người Chăm Châu đốc, tác phẩm còn đang dở dang thì Dorohiêm bất ngờ bị đột quỵ mất ngày 5/1/2019 ; và nay, ngày 8/11/2021, Dohamide cũng đã trở thành"người trăm năm cũ", và tất cả chỉ còn là những trang bản thảo.
Trái : Bìa cuốn sách Dân tộc
Chàm lược sử, đồng tác giả Dohamide, Dorohiêm, do Hiệp Hội Chàm Hồi
Giáo Việt Nam in lần thứ nhất, Sài Gòn 1965 ;
Phải : Bìa trước và sau
cuốn sách Dân tộc Chàm lược sử, do Tủ sách Chăm Châu Đốc tái bản tại
Hoa Kỳ 2016.
Hình ảnh nơi bìa sau, người đứng là Dohamide Đại biểu Chăm Hồi Giáo Việt Nam đang phát biểu ý kiến tại Hội nghị các nước Hồi giáo Đông Nam Á và Viễn Đông, họp tại Kuala Lampur, Malaysia tháng 2/ 1964 [tư liệu Phạm Lệ Hương]
Trái : Bìa cuốn sách Bangsa
Champa : Tìm về một cội nguồn cách xa ; Dohamide, Dorohiêm là đồng tác giả, do
Seacaef & Viet Foundation, California, Hoa Kỳ xuất bản 2004 ; cả hai
cuốn sách trên vẫn bị cấm xuất bản tại Việt Nam cho tới nay ;
Phải : hai anh em Dorohiêm (mất
ngày 3/1/2019), Dohamide (mất ngày 8/11/2021) [tư liệu Phạm Phú Minh,
photo by Ngô Thế Vinh]
Ngoài những buổi ra mắt sách
chính thức, còn phải kể tới những buổi gặp gỡ "ra mắt sách bỏ túi" với
các nhóm bạn quý mến anh Dohamide.
Dohamide đang cắt chiếc bánh Bangsa Champa trong một buổi ra mắt sách bỏ túi tại nhà hoạ sĩ Nguyễn Đình Thuần, Santa Ana 2018 ; từ trái, Nguyễn Đình Thuần, Dorohiêm, Nguyễn Quốc Thái, Dohamide, Phan Thị Lệ [photo by Ngô Thế Vinh]
Từ trái, Dorohiêm, Phạm
Phú Minh, Dohamide, Hoàng Xuân Trường, Phạm Gia Cổn, Tôn Nữ Thu Nga,
Song Thao, Phùng Minh Tiến, Thành Tôn, Nguyễn Mạnh Trinh. Ba người trong hình,
Dorohiêm (2019), Dohamide (2021), Nguyễn Mạnh Trinh (2021)
nay đã là Người Trăm Năm Cũ. [hình chụp tại Cafe Factory,
Little Saigon 3/2018, tư liệu Phạm Phú Minh]
B. Tôn giáo :
- Sự nghiệp Nabi Muhammad
(1994)
- Đạo Islam : đức tin
và các ứng dụng. Hammuđah Abđalali, Dohamide Abu Talib. Tủ sách
tìm hiểu Islam, California 1995
- Xóa tan các ngờ vực
về Islam. Dohamide Abu Talib, The Islamic Society of Indochina, Inc.
California, Hoa Kỳ 2015.
Dohamide và Inrasara
Trong cuốn Bangsa Champa,
nơi Chương 8, khi giới thiệu chân dung những đứa con ưu tú của
Champa, Dohamide đã giới thiệu Phú Trạm, bút hiệu Inrasara đang
sống trong nước, như một học giả Chăm đầy triển vọng đang
vươn lên.
Những đứa con ưu tú của sắc tộc Chăm :
Trái : Dohamide sinh năm 1934,
Dorohiêm sinh năm 1937, cả hai sinh ra và lớn lên ở làng
Katambong, Châu Đốc thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long ;
Phải : Phú Trạm sinh năm 1957,
(sau hơn một thế hệ, 23 năm), sinh ở tỉnh Ninh Thuận, Trung Phần
Việt Nam, bút hiệu Inrasara.
Dohamide viết :
"Đặc biệt nhứt
và sáng chói nhứt, có thể nói là Inrasara, là một học giả say
sưa dấn thân vào sự nghiệp nghiên cứu văn hóa Chăm được thể hiện
qua văn học Chăm là công trình nghiên cứu xuất sắc, có giá trị lịch
sử, nội dung soi rọi và khai thác một cách có hệ thống kho tàng
văn học Champa từ lâu đã được một vài học giả Pháp quan tâm
tìm hiểu nhưng chỉ mới tiếp cận được từng mảnh tản mác rời rạc. Công
trình nghiên cứu văn học Chăm của Inrasara đã mang đến niềm tự hào
chung cho Bangsa Champa.
Độc đáo nhứt
là Inrasara đã đơn thân độc mã hình thành và ấn hành tập
san chuyên đề xuất bản định kỳ, lấy tên Tagalau. Đóng góp
quý báu của Inrasara là đã làm cho tập san Tagalau thành một nơi
gặp gỡ của các cây bút người Chăm từ những ngành nghề khác nhau,
cùng chung một tâm huyết, thể hiện các suy tư đa dạng và nhận định độc đáo
của mình xuất phát từ trong lòng xã hội Chăm.
Inrasara là một
nhà thơ Chăm nổi tiếng, một học giả dấn thân vào nghiên cứu văn
hóa Chăm với các công trình nghiên cứu xuất sắc, có giá trị lịch
sử, nội dung soi rọi và khai thác một cách có hệ thống kho tàng
văn học Champa, đã là niềm tự hào chung cho Bangsa Champa…
Inrasara, nhà thơ đồng thời
là học giả trẻ người Chăm mà tiềm năng sáng tạo phong
phú và cao sâu đang độ bừng lên trong dòng chánh lưu của
xã hội Việt Nam đương thời" [1] .
Và đây là những dòng đầy
hoài niệm, Phú Trạm Inrasara viết về hai anh em Dohamide, Dorohiêm :
"Vào Đệ Thất trường
Pô-Klong, cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Dân tộc Chàm lược sử.
Không biết từ đâu nó rơi vào tay tôi, để tôi dính luôn vào
nó. Ở nhà quê có đâu sách mà đọc, vậy là cứ nhai đi
nhai lại đến thuộc lòng. Năm 1992, vào Sài Gòn làm việc, tôi đạp
xe qua gặp ngay anh. Lần nữa, trước khi qua Mỹ, anh mời tôi sang nhà. Anh kiệm lời,
tôi thì ít nói, thế nên chúng tôi gần như không nói gì nhiều.
Chỉ nhớ anh dặn tôi trau giồi sinh ngữ, văn hóa và lịch sử dân
tộc, và gửi gắm tâm sự : Cần nhiều tấm lòng và thái độ hơn
nữa để giúp hai bộ phận Chăm [Đông và Tây] xích lại gần
nhau. Thời gian sau đó chúng tôi thường xuyên trao đổi sách
vở, thư từ. Khoảng 2004 anh về Việt Nam ghé nhà tôi tại quận
Tư, anh em hàn huyên chuyện tình cảm mà không gì khác. Tiếc,
tôi đã không có lấy tấm ảnh chung trong khi máy ảnh ở nhà sẵn đó ! Đó
là lần cuối chúng tôi gặp mặt nhau"[6] .
Với tác phẩm thứ hai"Bangsa
Champa, Tìm về một cội nguồn cách xa", Inrasara viết tiếp :
"Tôi muốn mượn lời Henry
Miller để nói về công trình này : đây không phải
là tác phẩm, đụng đến nó là bạn đụng đến
conngười.Bangsa Champanói lên đầy đủ con người
Dohamide – Dorohiêm : Đứa con của Đất, yêu tha thiết
quê hương, đau đáu nỗi niềm dân tộc, làm tất cả những
gì có thể để mang quê hương đến với mỗi đứa
con Chăm, và mang Chăm về hội lại một quê chung" [6] .
Một chút riêng tư
Văn kỳ thanh, tôi biết anh
Dohamide từ hồi báo Bách Khoa, sau này thân thiết với anh là do
có cùng mối quan tâm tới các sắc dân thiểu số : vấn đề người
Thượng ở Tây Nguyên, người Chàm Phan Rang - Phan Rí ở miền
Trung, người Chăm Islam ở Châu Đốc, Tây Ninh
và Cambodia. Từ thời làm báo sinh viên Y khoa Tình Thương
và sau đó trong thời gian quân ngũ, tôi đã có dịp
tìm hiểu thêm và cả tiếp cận với những sắc dân thiểu số.
Dohamide có đọc cuốn Vòng Đai
Xanh, và sau này là hai cuốn sách Mekong của tôi. Tôi thì đọc các bài
viết và hai tác phẩm về văn hóa Chăm của anh. Chính anh
Dohamide đã viết một bài tựa có lẽ là hay nhất cho cuốn Cửu
Long cạn dòng Biển Đông dậy sóng trong dịp tái bản 2014.
Vào thập niên 1990, anh Dohamide
có được đọc bản thảo một bài viết của tôi"Những Đứa Con của
Núi Rừng", và sau này khi Vòng Đai Xanh tái bản lần thứ ba
(2018), có thêm bài viết này nhưng với các thông tin mới được cập nhật,
với nhan đề "Người Thượng Đôi Bờ".
Từ Vòng Đai Xanh
1970 tới Người Thượng Đôi Bờ 2017
Tin VOA, 15/03/2017 : 6 người
Thượng ở Tây Nguyên xin tị nạn với lý do bị đàn áp
chính trị và tôn giáo vừa bị trả về Việt Nam hôm thứ Ba,
sau khi Campuchia bác đơn xin tị nạn của họ. Cambodia Daily cho
hay trong 6 người, có một bé gái dưới 10 tuổi. Nhóm người
này đã được các giới chức Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc
(UNHCR) hộ tống qua biên giới để trở về Việt Nam, theo
lời ông Sok Sam An, Phó chỉ huy trạm kiểm soát biên giới
O'yadaw ở tỉnh Ratanakiri, Campuchia... Trong khi đó, Cambodia
Daily dẫn lời người đứng đầu Dịch vụ Tị nạn Jesuit, tổ chức
hỗ trợ người Thượng ở Phnom Penh, cho biết hiện vẫn còn 143
người đang chờ quyết định về số phận của họ.
Nhóm người Thượng vượt biên bằng đường bộ từ Việt Nam sang tỉnh Ratanakiri, Cam Bốt 22/07/2004 [nguồn : Reuters]
Làn sóng người Thượng mới nhất vượt
biên sang tỉnh Ratanakiri bắt đầu vào cuối năm 2014. Nhưng làn sóng
này đã chậm lại sau khi xảy ra hàng chục vụ trục xuất trở về Việt
Nam. Cho tới nay, chỉ có 13 người Thượng được cấp quy chế tị nạn
và tới Philippines vào tháng 5, trong khi hàng chục người khác bị trả về Việt
Nam.[hết lược dẫn]
Người Thượng ở Việt Nam
Người Thượng là tên gọi
chung cho khoảng 29 sắc dân bộ lạc sinh sống trên vùng Cao nguyên Trung phần
Việt Nam, nói nhiều thứ ngôn ngữ, mặc nhiều thứ y phục, chủ yếu
sống bằng du canh và săn bắn. Họ quen sống trên những ngôi
nhà sàn, nuôi thêm các loại gia súc : trâu bò heo gà. Ngày nay tại một số ít
buôn bản, người Thượng vẫn còn giữ được những nghi thức sinh hoạt bộ lạc
cổ truyền, rất hấp dẫn và thu hút du khách.
Trước các cuộc chiến tranh,
có thể nói người Thượng có một cuộc sống xa xôi cách biệt hẳn với
người Kinh ở đồng bằng. Nhưng cuộc sống thanh bình ấy hầu
như đã bị kết thúc kể từ Thế chiến thứ hai.
Với cuộc chiến tranh Việt Pháp
chín năm, lần đầu tiên người Thượng đã phải thật sự va chạm
với thế giới bên ngoài. Cuộc chiến ấy kết thúc với sự thất trận
của người Pháp. Hiệp định Genève chia đôi Việt Nam và chánh quyền
miền Nam được giao cho quyền kiểm soát cả một vùng Cao nguyên Trung
phần rộng lớn với khoảng 1,5 triệu người Thượng thuộc nhiều bộ lạc khác
nhau sống rải rác trong các vùng rừng núi phía đông dãy Trường
Sơn. Ý thức được tầm quan trọng chiến lược của vùng địa bàn
Cao nguyên, ngay từ những tháng đầu tiên, chánh phủ Sài
Gòn đã tung ra hàng loạt các nỗ lực đồng hóa người Thượng
vào đời sống xã hội người Việt mà không kể gì tới những
sắc thái văn hóa đặc thù của riêng họ. Quy chế Hoàng Triều Cương Thổ riêng
biệt dành cho người Thượng có từ thời vua Bảo Đại, đã bị ông
Diệm hủy bỏ (từ tháng 3/1955). Có nghĩa là không còn chính
sách đãi ngộ và tôn trọng quyền lợi đặc biệt của những người
thiểu số. Với chính sách Dinh điền, hàng chục ngàn người dân công giáo di
cư từ miền Bắc đã được đưa lên Cao nguyên định
cư, xâm phạm cả những vùng đất đai màu mỡ đã từng
là sở hữu của người Thượng qua nhiều thế hệ. Cộng thêm với
vô số những lỗi lầm khác của chánh quyền thời bấy giờ, như ra lệnh đóng
các tòa án phong tục Thượng, ngăn cấm các thổ ngữ và hạn chế số người
Thượng có khả năng và có học tham gia vào các cơ cấu
hành chánh. Thái độ bất mãn và không hợp tác của người Thượng
và cả chống đối nữa là điều rất dễ hiểu.
Vào đầu thập niên 1960, cùng với
sự tham dự trực tiếp của người Mỹ vào cuộc Chiến Tranh Việt
Nam – tình cảnh của người Thượng hầu như đã hoàn
toàn đổi khác. Người Thượng đã tiếp đón người Mỹ bằng
vòng tay rộng mở, với những ràng buộc gắn bó nảy nở từ cả hai
phía. Các cố vấn Mỹ cần người Thượng giúp đỡ họ thu thập
các tin tức tình báo về sự xâm nhập và di chuyển của quân đội
cộng sản. Trong khi đó người Thượng lại tin tưởng rằng, những người bạn
Mỹ có thể bảo vệ họ chống lại sự đe dọa từ cả hai
phía người Việt, [dù là cộng sản hay không], hơn thế nữa cả bảo đảm
nền tự trị của họ một mai khi cuộc chiến tranh chấm dứt.
Và trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt
Nam, người Thượng luôn luôn là nạn nhân kẹt giữa các thế lực tranh chấp.
Khoảng năm 1972, giới quân sự Mỹ ước lượng rằng đã có khoảng
200 ngàn người Thượng bị chết trong các cuộc giao tranh, với khoảng 80 phần
trăm buôn ấp có tự lâu đời hoàn toàn bị phá hủy
và những bản đồ sắc tộc đã chẳng còn mang một ý nghĩa
nào.
Đến năm 1975, bối cảnh chánh trị và quân
sự Việt Nam càng ngày càng suy thoái. Sau biến cố mất Ban Mê Thuột,
bằng một quyết định sai lầm có tính cách chiến lược của ông Thiệu
khi bỏ Cao nguyên, với hậu quả là một cuộc di tản đẫm máu,
kéo theo sự tan rã hoàn toàn của chánh quyền Sài Gòn.
Dưới chế độ cộng sản mới,
hàng ngàn người Thượng do bị nghi ngờ đã sát cánh chiến đấu
với người Mỹ, bị hành hạ tù đày trong các trại cải tạo, một số lãnh
tụ Thượng bị hành quyết và những người dân Thượng sống trong các
buôn bản cũng bị kiểm soát rất chặt chẽ khiến cuộc sống của họ càng
ngày khốn khổ và trở nên bi đát hơn.
Một số người Thượng khác đã chọn
cầm vũ khí, tìm tự do trong rừng sâu, chống lại chế độ mới.
Nhưng họ đã bị tổn thất nặng nề do nhà nước Hà Nội
có hỏa lực nhiều lần mạnh hơn. Nhóm người Thượng này đã phải chạy
sang Lào rồi Cam Bốt cuối cùng cho dù kiệt sức, họ cũng thoát được
sang được Thái Lan. Qua bao nhiêu vận động và thủ tục, lần đầu
tiên có một nhóm đông đảo 213 người Thượng được vào Mỹ và cuối
cùng đi định cư ở tiểu bang North Carolina, nơi có những
người bạn cựu chiến binh Mũ Xanh Mỹ chờ đón và giúp đỡ họ.
Vẫn tại Việt Nam, với không ngừng
các đợt di dân lên Cao nguyên, cho tới năm 2000, dân số trên các tỉnh
Tây nguyên đã tăng vọt lên tới con số 4 triệu, mà đa số lại
là người Kinh đến từ đồng bằng. Chỉ còn khoảng 1 triệu người
Thượng với ngót 30 sắc tộc bao gồm 6 bộ lạc lớn chính như : Jarai
(320 ngàn), Rhadé (258 ngàn), Bahnar (181 ngàn), Koho (122 ngàn), Mnong
(89 ngàn) và Stieng (66 ngàn). Và người Thượng nay trở thành thiểu
số trên chính vùng đất đai vốn là quê hương của họ.
Với áp lực di dân khổng lồ và ồ ạt
của người Kinh [do chính sách của Nhà nước cộng sản hoặc từ các cuộc
di dân tự phát], người Thượng hầu như không còn không còn có được
một khoảng không gian sinh tồn, họ không có cách nào duy trì được nếp
sinh hoạt du canh truyền thống vì họ đã hoàn toàn bị tước đoạt
quyền kiểm soát đất đai trước đây là của họ. Họ phải
chấp nhận sinh sống trên từng mảnh vườn nhỏ, làm thuê trên những vùng trồng
trà hay cà phê của người Kinh ; họ cảm thấy bị kỳ thị và bị bóc
lột ngay trên vùng đất đai vốn là của tổ tiên họ.
Tôn giáo nguyên thủy của người
Thượng là đa thần và thờ cúng những vật linh, với nhiều nghi thức thường
thấy như cảnh giết trâu hay súc vật khác trong các buổi tế lễ. Nếp
sinh hoạt ấy vẫn còn được duy trì nơi một số ít buôn bản
Thượng ở Việt Nam.
Nhưng cũng do có các đoàn
truyền giáo Tây phương [Pháp và Mỹ] hoạt động rất mạnh trên Cao
nguyên từ những thập niên 1930, càng ngày càng có đông số người
Thượng theo đạo Tin lành, một số khác ít hơn theo đạo Thiên
chúa [có khoảng 150 ngàn theo đạo Thiên chúa].
Trong số một triệu người Thượng ở Cao
nguyên hiện nay, ước định có khoảng hơn 300 ngàn người
theo đạo Tin lành -- hay còn được gọi là Tin Lanh Dega. Từ thập
niên 1990, theo nhận định của Human Rights Watch, Tin Lanh Dega trở nên
càng ngày càng hấp dẫn đối với người Thượng không phải chỉ có thuần
đức tin tôn giáo mà nó còn được kết hợp với khát vọng độc lập
và niềm kiêu hãnh về văn hóa. Đó như một kết hợp chánh
trị và tôn giáo khá tinh vi. Trong những buổi lễ rao giảng đạo
cùng một lúc cầu nguyện cho một quê hương độc lập không phải
là hiếm có.
[Dega có nguồn gốc từ tiếng
Rhadé : Anak Ede Gar có nghĩa là Những Đứa Con của Núi Rừng – một
từ ngữ đã được người Thượng chính-trị-hóa (politicized) để chỉ chung
cho các nhóm sắc dân thiểu số sống trên Cao nguyên. Nhiều người
Thượng không muốn dùng từMontagnard vì cho đó là sản phẩm của thời thực
dân Pháp. Giới quân sự Mỹ trên Cao nguyên trong thời Chiến Tranh Việt
Nam gọi họ là Yard, được người Thượng chấp nhận dễ dàng hơn
nhưng đó cũng chỉ là một từ rút ngắn từ chữ Montagnard].
Người Thượng ở Mỹ
Vào thời điểm 1975, hầu
như không có người Thượng nào có cơ hội di tản khỏi Việt
Nam cho dù trước đó họ đã cộng tác rất chặt chẽ với
người lính Mũ Xanh Mỹ trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
Trước 1986, chỉ có khoảng
không quá 30 người Thượng sống rải rác trên đất nước Mỹ. Tới khoảng
năm 1987, mới có một đợt những người Thượng tị nạn đầu tiên
từ Thái Lan tới Mỹ. Họ khoảng 200 người đa số là đàn ông, được đưa
tới định cư tại tiểu bang North Carolina.
Vào tháng 12/1992, thêm một nhóm
khoảng 402 người Thượng từ Tây nguyên vượt biên sang các tỉnh Mondulkiri
và Ratanakiri bên Cam Bốt. Giữa hai lựa chọn phải trở về Việt
Nam hay được phỏng vấn cho đi định cư tại Mỹ, đa số đã chọn
giải pháp thứ hai : họ gồm 269 đàn ông, 24 phụ nữ và 80
trẻ em.
Cho tới năm 2000, con số người
Thượng ở Mỹ tiếp tục gia tăng. Họ bao gồm từng nhóm nhỏ người
Thượng vào Mỹ, hoặc với tính cách tị nạn sau khi được ra khỏi các trại
cải tạo của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, hoặc được đi theo
các diện đoàn tụ ODP [Orderly Departure Program], hoặc theo diện con
lai [thường cha là lính Mỹ, mẹ là những người đàn
bà Thượng bị bỏ rơi lại từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam trước đây],
hầu hết cũng đều được đưa tới định cư tại North
Carolina.
Theo thống kê dân số năm
2000, riêng tại bang North Carolina đã có khoảng hơn 3000 người
Thượng, nơi định cư đông nhất của người Thượng bao gồm khoảng 2000
người ở Greensboro, 700 ở vùng Charlotte, 400 ở Raleigh.
Vào tháng 2/2001, tại Việt Nam lại
xảy ra biến cố gây nhiều tiếng vang trong giới truyền thông quốc tế và cả tạo
phản ứng từ các tổ chức bảo vệ nhân quyền : nhiều ngàn người
Thượng đã đồng loạt biểu tình trên các tỉnh Cao
nguyên đòi độc lập, đòi lại đất đai của tổ tiên
và đòi quyền tự do tôn giáo. Và cũng là điều khiến mọi người
khá ngạc nhiên là các phương tiện high-tech đã được người Thượng
bên trong cũng như bên ngoài vận dụng rất hữu hiệu trong cuộc tranh đấu
của họ, như liên lạc điều hợp bằng cellular phone, email và thông tin
nhanh chóng qua các mạng lưới Internet. Nhà nước cộng sản Việt
Nam đã thẳng tay trấn áp mạnh mẽ khiến ngót một ngàn người
Thượng phải chạy sang Cam Bốt. Một số đã bị quân đội cộng sản
Việt Nam truy lùng và cưỡng bách trở lại Việt Nam. Phủ Cao Ủy
Tị nạn Liên Hiệp quốc [UNHCR] đã phải can thiệp, và đa số đã bày
tỏ nguyện vọng không muốn trở lại Việt Nam. Cuối cùng vào năm 2002,
thêm số 900 người Thượng nữa được nhận vào Mỹ và cũng được
tới định cư tại North Carolina. Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây
về một tình cảm chia sẻ ấm áp của cộng đồng người Việt sống
tại Nam California đối với đợt những người Thượng mới tới này bằng buổi đón
tiếp họ ở phi trường và một số hiện kim tượng
trưng đã được quyên góp.
Những người Thượng tới Mỹ sớm
trước hoặc sau, tất cả đều có mẫu số chung là những
khó khăn của bước đầu hội nhập với một môi trường và cảnh vực
hoàn toàn xa lạ với họ. Cho dù từ những bộ lạc sắc tộc khác
nhau nhưng họ đều xuất thân từ vùng rừng núi Cao nguyên Trung phần Việt
Nam. Ngôn ngữ của các nhóm sắc tộc Thượng này có gốc gác từ hai
nhóm Mon-Khmer và Malayo-Polynesian. Đông nhất là người sắc tộc
Rhadé.
Tưởng cần nên nhấn mạnh ở đây
là những người Thượng Tây nguyên có nguồn gốc chủng tộc khác hẳn
và không có liên hệ gì với người Hmong ở Lào sống
phía tây dãy Trường Sơn và các sắc tộc thiểu số khác trên vùng thượng
du miền Bắc Việt Nam.
Với những người Thượng đã vào Mỹ, đa số theo đạo Tin lành, một số khác khoảng một ngàn người theo đạo Thiên chúa. Các nhà thờ và trường đạo dần dà trở thành định chế sinh hoạt xã hội của người Thượng sinh sống ở Mỹ.
14 em học sinh Thượng
trên đất Mỹ, tại trường học Brookstones, vùng Westerly
Hills, Charlotte, North Carolina, 16/09/2014
Cũng như với những người
Chăm [sống ở Việt Nam hay bên Cam Bốt] khi chọn theo đạo Hồi,
cho dù đó không phải là đạo gốc của họ,người Thượng khi chọn
theo đạo Tin lành, đối với họ có ý nghĩa như tìm
tới một sự cứu rỗi, xác định và tìm lại một thứ căn cước chủng
tộc đang bị tiêu vong và giúp họ sống còn với đầy đủ nhân
phẩm và cả bảo tồn văn hóa.
Đời sống gia đình
và xã hội của người Thượng khi còn ở Việt Nam, giữ nét
mẫu hệ, con cái mang họ mẹ. Người đàn bà đóng vai chủ động
và quán xuyến mọi chuyện trong gia đình và thường chọn chồng
trong cùng một sắc tộc với mình.
Nhưng với những người Thượng di
cư vào Mỹ thì nếp sống ấy đã thật sự phải
thay đổi : dù là đàn ông hay đàn bà thì cũng
phải cùng nhau chia sẻ công việc trong gia đình và ngoài
xã hội, và đã có những cuộc hôn nhân giữa các sắc tộc khác
nhau, bắt nguồn từ một nét rất đặc thù của cộng đồng người
Thượng trên đất Mỹ, đó là tình trạng"trai thừa gái thiếu",
nên đã có nhiều cuộc hôn nhân giữa người đàn ông Thượng với các phụ nữ thuộc
ngoài chủng tộc như với người Lào, Cam Bốt, Việt Nam và ngay cả với
người Mỹ.
Với thế hệ thứ nhất
người Thượng tới Mỹ thường gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề hội
nhập, do trình độ hiểu biết rất hạn chế lại thêm sự khác biệt
quá lớn về phong tục và văn hóa nên đã có những
va chạm với cộng đồng địa phương là điều không thể tránh,
ví dụ như những vi phạm thường xuyên luật lệ ở Mỹ như say
rượu lái xe, chạy xe không có bảo hiểm, các sinh hoạt nhà cửa vệ sinh
thiếu tiêu chuẩn như cảnh phơi thịt cá khô trước nhà, đem
bày hết đồ đạc cả ra ngoài sân…
Họ phải chấp nhận làm những
công việc tay chân nặng nhọc trong các hãng xưởng, cả vợ và chồng đều
phải đi làm, có người phải làm hai jobs với đồng lương tối
thiểu để trả tiền nhà và nuôi đám con cái ăn
học.
Với những người Thượng trẻ thuộc
thế thệ thứ hai, họ có khả năng thích nghi mau
chóng với nếp sống Mỹ quốc, từ trang phục cho tới cách ăn uống fast
food, nói thông thạo tiếng Anh và được tới trường đi học.
Nếu lớp người trẻ này được
hướng dẫn và không bị lạc lối, số có học sẽ có khả năng
trở thành tầng lớp lãnh đạo Cộng Đồng Người Thượng Đôi Bờ trên đất
Mỹ và trên đất Việt trong tương lai.
Ngô Thế Vinh
California, 12/2003 cập nhật
03/2017
*
Đọc xong Vòng Đai Xanh và bản thảo bài viết "những đứa con của rừng núi", anh Dohamide viết thư cho tôi :
Thư anh Dohamide Đỗ Hải
Minh gửi Ngô Thế Vinh, viết ngày 29/12/1994. [tư liệu
Ngô Thế Vinh]
Đỗ Hải Minh
2533 E. Park Lane # B
Anaheim, CA 92806, U.S.A
29 – XII – 1994
Kính Anh Vinh,
Vừa nhận được sách in từ Washington D.C. gởi qua, cũng vừa nhận được 2 cuốn sách anh gửi tặng.Cảm động nhất là khi đọc qua quyển tiểu thuyết "Vòng Đai Xanh" của anh, vì vừa qua như anh đã rõ, cộng đồng người Chăm đã tổ chức lễ Ka tê cổ truyền ở San Jose, nhân đó anh em Thượng có đến dự. Đối với tôi, đây là lần đầu, sau 19 năm mới được gặp lại các anh em trong giới người thiểu số. Tâm trạng chung, người Thượng đều tỏ ra chán chường và bất mãn, nếu không nói là căm thù người Kinh, mà anh em nghĩ dù là Cộng Sản hay Quốc Gia thì đều có chánh sách tiêu diệt họ. Còn lại hai anh em K’Brink và K’Broi trước có học tại Mỹ, có quan điểm hòa dịu hơn, còn lại thì đều tỏ ra quyết liệt.
Trái, Vòng Đai Xanh, Nhà
xuất bản Thái Độ xuất bản lần đầu tiên tại Sài Gòn 1970,
Phải, Vòng Đai Xanh - The Green
Belt Bilingual Edition Việt Ecology Press xuất bản 2021 tại Hoa Kỳ với bài
viết "những đứa con của rừng núi" hay "Người
Thượng đôi bờ".
Góc độ tiếp cận của
anh ở đoạn mở đầu "những đứa con của rừng
núi" khá độc đáo. Tôi định sau khi xem xong, tuần tới
tôi sẽ chuyển cho anh K’Brink, để cho anh em Thượng thấy không
phải tất cả người Kinh là xấu với họ. Anh K’Brink là người đích
thân về tổ chức rước anh em Thượng cuối cùng từ trong rừng ra,
sau bao nhiêu gian khổ kêu gọi, thuyết phục.
Nhờ có anh Lê Ngộ Châu
sang, tôi mới có dịp gặp anh ; mong rằng từ đây anh em mình sẽ thỉnh
thoảng liên lạc với nhau.
Tôi sang đây quá trễ,
nên đang còn loay hoay lo ổn định cuộc sống gia đình,
nhưng đồng thời do những quan hệ trước đây với tổ chức Hồi
giáo Thế giới tại Ả Rập Saudi, tôi tận dụng thì giờ tìm
hiểu sâu về Hồi giáo – loạt sách tôi sẽ in ra trong
giai đoạn này thích hợp với chính người Hồi giáo hơn. Dù sao,
xin tặng anh, mong có dịp tham khảo. Xin cám ơn anh nhiều.
Thân,
Dohamide
Những cội nguồn bất an
Dohamide với suốt một cuộc đời đau đáu đi
tìm về cội nguồn, chỉ mong sao phục hồi được nền văn hóa Champa
như một căn cước của dân tộc Chăm nhưng rồi cuối đời Dohamide cũng phải đứng
trước những"Cộng đồng Chăm Đôi bờ".
Ý thức về nhu cầu hòa
nhập vào xã hội Việt Nam, Dohamide có cách nhìn ôn hòa, rộng mở và tin
tưởng vào con đường văn hóa. Anh ao ước hai tập sách Dân tộc
Chàm Lược sử cũng như tập Bangsa Champa được phổ biến rộng
rãi trong các thế hệ thanh niên Chăm không chỉ ở hải ngoại
mà cả ở trong nước,để họ không bị lôi cuốn
vào phong trào "hận thù mất nước", đang được nhóm đồng tộc
Chăm cực đoan Champaka khích động theo chủ thuyết "dân tộc bản địa" –
như một khuynh hướng phục quốc và ly khai, với những vận động quốc
tế, họ kéo nhau đi trình diễn cả ở diễn đàn Liên Hiệp Quốc ở Genève.
Họ phủ nhận hướng đi theo con đường hòa bình của Dohamide, và cho rằng Dohamide đã thoả hiệp nếu không muốn nói là đầu hàng. Điều ấy khiến Dohamide vô cùng nặng lòng vào những năm cuối đời.
Trái, Hội nghị về Champa
2017 tại San Jose, California, để tưởng nhớ 185 năm Vương Quốc
Champa bị xóa tên ;
Phải, Po Dharma (1945-2019)
nguyên chiến sĩ FULRO, du học Pháp 1972, tốt nghiệp tiến sĩ Đại học
Sorbonne về Lịch sử và Văn bản học 1986, là thành viên khoa
học Trường Viễn Đông Pháp (École française d’Extrême-Orient), Po Dharma
là bộ óc trí tuệ của tổ chức IOC – Champa,
nêu chủ thuyết "dân tộc bản địa" và đòi quyền tự trị cho
sắc tộc Chăm.
Người viết vẫn có những trao đổi
với anh Dohamide và cả hai cùng nhau đồng ý rằng : chừng
nào Việt Nam chưa là một đất nước dân chủ, chưa có một chính
sách đối xử hợp lý, công bằng và nhân đạo với các sắc dân
thiểu số, thì mọi cội nguồn bất an (roots of unrest) vẫn
còn đó. Sự ổn định bằng trấn áp như hiện nay
không phải là giải pháp dứt khoát và lâu dài cho một quốc gia phát
triển trong bối cảnh toàn cầu theo một chiều hướng bền vững.
Một cái Tết cuối cùng trước đại
dịch Covid-19, tới với anh Dohamide ; sau lần mổ óc ở UCLA, anh
Dohamide vẫn rất minh mẫn nhưng hoàn toàn mất thính giác, và cuộc nói chuyện
trao đổi phải qua "bút đàm". [photo by Phan Nhật Nam]
Salamat : Lời chúc đầu năm
Dohamide là một khuôn mặt đa
diện và cả rất bí ẩn, anh hoạt động không mỏi mệt trong rất nhiều
lãnh vực từ tuổi thanh xuân cho tới những năm cuối đời : từ trong
bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, với người Mỹ qua USAID,
CORP, Air America, với nhà nước cộng sản sau 1975, với tư cách
là thành viên Nhóm Nghiên Cứu Thứ Sáu, cùng những liên hệ với thế giới
Hồi giáo nhưng đi xa hơn cả vấn đề tôn giáo.
Với người viết, trong sự tin
cậy, Dohamide đã cởi mở với mọi điều, kể cả những điều
mà anh gọi là tế nhị và rất nhạy cảm. Bài viết này chỉ với
trọng tâm là một Chân Dung Văn Hóa của Dohamide ; riêng với những phần
khác vẫn trong một vùng xám, người viết xem như "ngoài phần ghi
chép (off records)" để được anh giữ và mang đi, chôn
sâu dưới mảnh đất không phải là ngôi làng Koh Taboong, ở Đồng Bằng
Sông Cửu Long nơi anh đã được sinh ra và lớn
lên – mà là trên lục địa Mỹ châu, nơi anh chọn để thực
sự được an nghỉ.
Một năm cũ 2021 lại sắp
qua đi, gửi tới anh Dohamide, anh Dorohiêm bài viết này với tấm lòng tưởng
nhớ, vẫn như thông lệ hàng năm khi tới thăm anh, không quên gửi tới
anh câu chúc Tết tiếng Chăm :
Salamat Thun BaHâu
Chúc mừng Năm Mới
Ngô Thế Vinh
Từ Cồn Tơ Lụa 2000 tới
Little Saigon 2021
Tham khảo :
1. Dohamide, Dorohiêm. Dân tộc
Chàm Lược sử. Saigon 1965. Bangsa Champa, SEACAEF & VIET Foundation
2004
2. Dohamide (Đỗ Hải
Minh) : Điểm
sách Rie Nakamura 2020 về dân tộc Chăm
3. Dohamide. Vĩnh
biệt
Em Dorohiêm
4. Lê Nguyễn. Vềhai
người bạn Chàm của tôi.
Lê Văn Cẩn – Đặc San 10 Quốc Gia Hành
Chánh.8/1/2019
5. Trần Ngọc Tôn. Vài
hàng luyến
tiếc bạn đồng môn mới ra đi.
6. Inrasara. Urang
Cham. Dohamide và Dorohiêm.