Những thỏa thuận hậu Thành Đô (Phần 1) - Nắm giữ miền Bắc (Nguyễn Văn Huy)
Sự
lún sâu vào vòng lệ thuộc Trung Quốc của Đảng cộng sản và đất nước Việt
Nam ngày càng lộ liễu và công khai để không còn che đậy được nữa. Gần
như tất cả những công trình xây dựng hạ tầng cơ sở chiến lược và qui mô
lớn ở Việt Nam đều được ghi trong những Tuyên bố chung với sự chỉ định
do những công ty Trung Quốc đảm nhiệm, như bến cảng, xa lộ, đường cao
tốc, đường sắt và những công trình kiến trúc đồ sộ. Phải đọc kỹ nội dung
những Tuyên bố chung này mới hiểu sự hiện diện của người Trung Quốc
trên lãnh thổ Việt Nam cũng ngày càng đông và nắm giữ gần như hầu hết
mọi sinh hoạt kinh tế, tài chính, sản xuất và buôn bán qui mô lớn. (Nguyễn Văn Huy)
Phần 1
Trung Quốc củng cố biên giới phía Nam và mở rộng vòng đai ảnh hưởng trên toàn miền Bắc Việt Nam
Thời
sự chính trị Việt Nam những tháng gần đây gần như không có gì đáng nói,
tất cả đều bị ngăn chặn hay sàn lọc bởi Ban Tuyên giáo trung ương Đảng
cộng sản Việt Nam. Những tin được phép đăng tải trên các báo đài quốc
doanh chỉ là những thông tin vô thưởng vô phạt, biết thì tốt mà không
biết cũng không sao.
Tin
ông Nguyễn Phú Trọng bị đột quỵ ngày 14/04/2019 phải chờ hơn 10 ngày
sau mới chính thức được công bố. Từ ngày đó đến nay, không ai biết sức
khỏe ông Trọng thực hư như thế nào, dư luận đồn đoán đang có một cuộc
tranh giành không nhân nhượng giữa người đồng sàn với nhau về những chức
vụ mà ông Trọng đang nắm giữ. Trong khi chờ đợi một khuôn mặt mới xuất
hiện, nội bộ Đảng và Nhà nước để lộ khoảng trống quyền lực lớn, những
chuẩn bị nhân sự cho Đại hội 13 Đảng cộng sản Việt Nam năm 2021 bước vào
một khúc quanh quyết định.
Nhưng
cho dù có thế nào, theo nhận xét riêng, phe thân Trung Quốc, đúng ra là
những con cờ của Bắc Kinh cài cắm trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam
sẽ công khai lộ diện và tiếp tục hoàn tất những công việc mà Ban lãnh
đạo Đảng đã và đang tiến hành đúng theo lộ trình mà Bắc Kinh đã ấn định
cho từng giai đoạn qua những Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc đã được
công bố.
Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang tiến hành những gì ?
Tổng quan
Chiến
dịch đốt lò chống tham nhũng, bắt quan tham lúc đầu gây phấn khởi nhưng
với thời gian đang trở thành nhàm chán, vì suy cho cùng đây chỉ là vấn
đề "trâu cột ghét trâu ăn". Dư luận tin rằng những người thời Nguyễn Phú
Trọng muốn chiếm lại những nguồn lợi béo bở mà những người thời Nguyễn
Tấn Dũng đã và đang nắm giữ. Người ta chờ đợi "ong chúa", tức "đồng chí
X", bị sa lưới nhưng chuyện này chắn vẫn còn xa, hoặc sẽ không bao giờ
xảy ra.
Gần
đây nổ ra vụ Thủ Thiêm. Trong vụ này, Ban tuyên giáo hướng dẫn dư luận
chĩa mũi dùi vào ban lãnh đạo Thành phố Sài Gòn để tố cáo và giành quyền
kiểm soát những nguồn lợi đã có và sắp có. Phe nhóm lãnh chúa Lê Thanh
Hải và Tất Thành Cang lâm vào thế yếu và có thể bị mất hết, trừ khi có
một phép lạ. Nếu không có sự hớ hênh của ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư
thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, không ai nhìn thấy hậu ý của phe Nguyễn
Phú Trọng trong vụ này : giành lại Thủ Thiêm để giao cho một thế lực tài
phiệt lớn đến từ Hoa Nam, Trung Quốc (1).
Lo
sợ sự thật này được loan truyền và bị khai thác bởi những "thế lực thù
địch" bất lợi cho sự có mặt của những chủ đầu tư mới, Ban tuyên giáo
Đảng lèo lái dư luận qua những thông tin thời sự gây xôn xao nhưng không
ảnh hưởng gì đến chế độ, như bắt thêm tay chân của "đồng chí X", đập
phá vườn rau Lộc Hưng, bạo lực học đường, ô nhiễm sông ngòi, thức ăn
nhiễm độc, trạm thu phí, sư sãi lem nhem, xây chùa để kinh doanh, xa lộ
Bắc-Nam, ấu dâm, gian lận thi cử, tăng giá điện xăng…
Trong
khi đó, ở ngoài nước, cộng đồng người Việt hải ngoại cũng chỉ tập trung
chú ý vào những vi phạm nhân quyền trong nước, cuộc sống của tù nhân
lương tâm, tin giật gân về nội bộ Đảng cộng sản, cuộc chiến thương mại
giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, sự hiện diện của hải quân Mỹ trên Biển Đông,
đôi khi còn sa vào cuộc đôi co giữa phe thân và chống Donald Trump…
Nói
chung từ sau Đại hội Đảng lần thứ 12, chưa bao giờ Đảng cộng sản Việt
Nam hài lòng như hiện nay. Với thế giới, Việt Nam đang trở thành một
quốc gia độc tài bình thường, không còn ai quan tâm đến những vi phạm
nhân quyền và các quyền tự do khác của người dân Việt Nam. Những cuộc
xuống đường qui mô chống dàn khoan HD-981, Formosa Hà Tĩnh, Luật đặc
khu… chìm dần vào quên lãng trong khi những tác hại về môi trường, môi
sinh, sức khỏe của người dân vẫn còn nguyên vẹn và sinh hoạt kinh tế của
Việt Nam ngày càng tồi tệ thêm.
Chỉ
một vài tổ chức quốc tế về nhân quyền và bảo vệ động vật quí hiếm tố
cáo những hành vi vô pháp của chính quyền cộng sản Việt Nam như bắt cóc
người, tước đoạt các quyền tự do của nhân dân, buôn người, buôn lậu sừng
tê, ngà voi, vẩy tê tê và nhiều loại thú quí hiếm… Nhưng những phản đối
này không ảnh hưởng gì đến sự tồn tại và an nguy của chế độ.
Một
hiện tượng mới nhưng vô cùng hệ trọng là sự xuất hiện ngày càng đông
đảo "du khách Trung Quốc" trên lãnh thổ Việt Nam mà không ai có thể cung
cấp một con số chính xác. Số du khách này không đi tham quan mà chỉ tập
trung vào một số địa điểm nhất định để chờ vào làm việc trong những đặc
khu và nhượng địa : Quảng Ninh, Đà Nẵng và các hải đảo chung quanh,
Khánh Hòa, Tiền Giang, Sihanoukville… sắp tới sẽ là Sài Gòn-Đồng Nai và
Kiên Giang-Phú Quốc. Hiện tượng này trùng hợp với một số yêu cầu về luật
đặc khu, luật đất đai, luật cư trú, luật mua bán bất động sản, luật lao
động, luật thanh khoản, thông tư cho phép sử dụng nhân dân tệ trên lãnh
thổ Việt Nam...
Gần
đây bong bóng một số dự án khủng xây dựng hạ tầng cơ sở đại qui mô đã
được tung ra để thăm dò phản ứng của dư luận, như xa lộ cao tốc Bắc-Nam,
đường sắt cao tốc Bắc-Nam, cảng lớn trên sông Đồng Nai, mở rộng sân bay
Tân Sơn Nhất, tẩy độc sân bay Biên Hòa, và có thể trong những ngày sắp
tới sẽ có bong bóng cảng hàng không quốc tế Long Thành, khu công nghiệp
Biên Hòa…
Một
câu hỏi đặt ra : tại sao Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam lại chú ý
đến miền Nam trong lúc này ? Chuyến viếng thăm Kiên Giang, đặc biệt là
Phú Quốc, của Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong hai
ngày 13 và 14/04/2019 chắc chắn không phải là xã giao.
Dư
luận đồn đoán rằng ông Nguyễn Phú Trọng muốn dứt điểm ông Nguyễn Tấn
Dũng ngay tại căn cứ địa cuối cùng này, v.v. Nhưng không ai dại gì vào
hang cọp bắt cọp con một thân một mình. Hơn nữa ông Nguyễn Phú Trọng
không có lý do gì để thù oán "đồng chí X" cả. Phe Nguyễn Phú Trọng hiện
nay cũng tham nhũng và lộng hành không thua gì phe Nguyễn Tấn Dũng lúc
còn cầm quyền.
Nhưng
lá không thể che lấp rừng. Ai cũng biết sự hiện diện ngày càng công
khai và ồ ạt của người Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam không phải tình
cờ, nó bắt nguồn từ Hội nghị Thành Đô năm 1990 với những thỏa thuận mà
hai Đảng cộng sản đã ký kết sau đó.
Lo
âu trước tình trạng này, nhiều cán bộ lão thành, đảng viên kỳ cựu đã
viết thư, viết kiến nghị gởi lên Ban lãnh đạo Đảng cộng sản yêu cầu bạch
hóa những thỏa thuận đã ký trong Hội nghị Thành Đô.
Kiến nghị của 20 cựu sĩ quan quân đội ngày 02/09/2014 và Hội nghị Thành Đô
Cho
đến nay nội dung cũng như những thỏa thuận trong Hội nghị Thành Đô chưa
được công bố. Phía Việt Nam hoàn toàn im lặng về hội nghị này. Cổng
thông tin Đảng cộng sản Trung Quốc chỉ công bố tấm hình chụp chung những
người tham dự hội nghị.
Tổng
Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng (phía Trung Quốc) đã hội
đàm với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười (phía Việt Nam)
về vấn đề bình thường hóa quan hệ hai đảng và các quốc gia từ ngày 3
đến ngày 4/9/1990. Ảnh được chụp sau cuộc hội đàm. Nguồn :
www.idcpc.org.cn
Mặc
dầu vậy, một phần tư liệu về Hội nghị bí mật Thành Đô 1990 đã được tiết
lộ qua "Lý Bằng Nhật ký ngoại sự" (2) và "Hợp tác phát triển Hòa Bình".
Ngay
khi hội nghị vừa kết thúc, nhật báo Tứ Xuyên loan tải một thông điệp
của phái đoàn Việt Nam : "Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận
làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như
Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc
đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên và cho Việt Nam thời gian 30
năm để Đảng cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết
cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc !" (3). Nội dung
của tuyên bố này đã được tờ Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã cùng nhau
công bố những chi tiết mà hai cơ quan này gọi là sự thật về "Kỷ Yếu Hội
Nghị" trong những ngày vừa qua với những câu chữ như sau :
Vì
sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa cộng sản, Đảng cộng sản và
Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng
giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu
nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch
Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá
khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự
trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh , như Trung Quốc đã dành
cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…
Phía
Trung Quốc đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian
30 năm (1990-2020) để Đảng cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến
hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
Sự thật như thế nào ?
Theo
RFA, số ra ngày 06/08/2014 "Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô ?",
và BBC, số ra ngày 17/10/2014 "Đã đến lúc công bố mật ước Thành Đô ?"
(4), rất nhiều người đã thấy nguy cơ mất độc lập và chủ quyền sau hội
nghị này.
Cũng
theo RFA, số ra ngày 06/06/2014, "Nỗi sợ hãi của Đảng và Nhà nước Việt
Nam" (5), người đầu tiên là cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch với câu nói
bất hủ : "Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự".
Nhưng
phản ứng một cách công khai và qui mô nhất là Kiến nghị của một số cựu
sĩ quan Lực lượng vũ trang nhân dân (6) gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính
phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 2/9/2014 yêu cầu :
1.
Chấm dứt ngay việc huy động quân đội vào những sự vụ mang tính đối
kháng với nhân dân Việt Nam, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc
biểu tình yêu nước ôn hòa… ;
2.
Phải sớm khôi phục danh dự và quyền lợi đã bị lãng quên của các liệt sĩ
và thương binh đã hy sinh xương máu trong chiến tranh biên giới phía
Bắc và ngoài biển đảo… ;
3.
Phải xác định rõ ràng và chính xác đối thủ là những thế lực có thể đe
dọa chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và Tổ quốc trong hiện tại và trong
tương lai… ;
4.
Phải báo cáo rõ ràng với nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung và
về những ký kết liên quan đế lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và các
hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền của quốc gia.
Khi nhắc đến Hội nghị Thành Đô năm 1990, đoạn viết trích từ Tân Hoa Xã và Hoàn Cầu Thời Báo tháng 4 năm 2014 gây lo ngại : "…Việt
Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc
chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh , như Trung Quốc đã dành cho Nội
Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…".
Bản
Kiến nghị yêu cầu Chủ tịch nước và Thủ tướng cho biết rõ hai bên đã
thỏa thuận cụ thể cái gì chứ không phải là những câu sáo ngữ. Bản Kiến
nghị còn yêu cầu lãnh đạo Đảng và Nhà nước có đối sách đúng đắn trước
mưu đồ và hành vi xâm lược của thế lực bành trướng Trung Quốc, không thể
chấp nhận thái độ thể hiện sự thần phục họ, và càng đòi hỏi phải công
khai, minh bạch thực trạng quan hệ giữa hai bên.
Đây
rõ ràng là những lời tâm huyết của những người lính đã hy sinh cả đời
mình cho sự trường tồn của đất nước. Không có lời lẽ nào hơn là sự kính
phục và lòng nể trọng. Nhưng, như tất cả những kiến nghị, tâm thư của
những người còn quan tâm đến đất nước, bản kiến nghị này sẽ không bao
giờ được trả lời và chìm vào quên lãng. Không chừng những người ký tên
và con cháu họ có thể bị trù dập bởi chính guồng máy mà họ đã cống hiến
cả cuộc đời để phục vụ nếu không mua chuộc được sự im lặng.
Cựu
Đại tá Bùi Văn Bồng, một trong số 20 người ký tên, nói : "Trong tâm tư
của các cựu chiến binh thì họ ủng hộ đông lắm nhưng khi lên tiếng ủng hộ
thì họ sợ sệt thế này thế kia. Có khi bị cho là suy thoái tư tưởng"
(BBC, 04/09/2014).
Về
phía Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam, không ai dại gì đứng ra trả
lời những chất vấn chính đáng này, một phần vì sợ bị lộ danh và mang tội
với núi sông, một phần vì sợ bị mất quyền lợi cho chính mình và gia
đình khi tiết lộ sự thật. Có bao giờ một nghi phạm tự viết cáo trạng tố
cáo chính mình ? Hội nghị Thành Đô là một sai phạm lớn mà Ban lãnh đạo
Đảng cộng sản Việt Nam muốn che giấu.
Nội dung những thỏa thuận Thành Đô có những gì mà những lãnh đạo cấp cao và cấp trung trong đảng và quân đội không dám công bố ?
Về
Hội nghị Thành Đô, nội dung cốt lõi của Hội nghị đã được phổ biến trên
Wikipedia một cách khá trung thực và có thể tin cậy được (7). Theo đó,
cuộc họp cao cấp giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đã được
tổ chức trong khách sạn Kim Ngưu (Kim Ngưu tân quán) tại Thành Đô (thủ
phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) trong hai ngày 3 và 4/9/1990, nhằm bình
thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai đảng cộng sản. Mục tiêu trước
mắt của Hội nghị Thành Đô là chấm dứt sự hiện diện của quân đội trên đất
Campuchia, kế là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Từ
sau khi bình thường hóa quan hệ giữa hai nước năm 1991, trên cơ sở
những nguyên tắc được ghi nhận trong Hội nghị Thành Đô năm 1990, quan hệ
hữu nghị giữa hai nước được cụ thể hóa qua những Thông cáo chung năm
1991, năm 1992, năm 1994, năm 1995. Trong suốt thời gian đó, phái đoàn
chuyên viên hai bên Việt Nam và Trung Quốc đã ráo riết trao đổi, bàn
bạc, thảo luận để hoàn tất một hiệp ước biên giới trên đất liền.
Cuộc
thảo luận về biên giới trên đất liền chắc hẳn đã rất gay go, vì kéo dài
trong suốt gần 10 năm. Đảng cộng sản Việt Nam có lẽ là phía mong muốn
ký kết trước hết vì muốn có sự rõ ràng trong việc phân định làn ranh
phân chia hai lãnh thổ sau cuộc chiến biên giới năm 1979. Mặc dù hai bên
đều nói thắng lợi trong cuộc đụng độ này, nhưng phía Trung Quốc bị
thiệt hại rất nặng về nhân mạng và Việt Nam bị chiếm rất nhiều cao điểm
và vị trí chiến lược quan trọng dọc vùng biên giới các tỉnh phía Bắc.
Chính vì thế, mặc dù Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và
Trung Quốc đã được ký kết ngày 30/12/1999, nhưng phía Trung Quốc đã gây
nhiều khó khăn trong việc di dời căn cứ quân sự và phải chờ đến 8 năm
sau công tác cắm mốc mới hoàn tất (31/12/2008). Tổng kết : hai bên đã
phân giới khoảng 1.400 km biên giới, cắm 1.971 cột mốc, trong đó có
1.549 cột mốc chính và 422 cột mốc phụ. Toàn bộ 38 chốt quân sự trên
đường biên giới đều đã được dỡ bỏ.
Cùng
lúc đó, cái bất ngờ cho phía Việt Nam là "Hiệp định về phân định lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc
Bộ" ký ngày 25/12/2000. Trong những cuộc thảo luận xác định đường phân
định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước
trong Vịnh Bắc Bộ, phía Việt Nam có lẽ gần như bị động vì thiếu chuẩn
bị, thiếu dữ liệu và thiếu hiểu biết chuyên môn về luật biển. Trong
những thỏa thuận hợp tác ký kết sau năm 2000, phía Trung Quốc tập trung
mọi nỗ lực để củng cố sự hiện diện của họ trong 7 tỉnh dọc biên giới và
trong Vịnh Bắc bộ, một hình thức để vô hiệu hóa hai văn kiện về biên
giới vừa được ký.
Cũng
nên lưu ý là văn bản những ký kết về biên giới trên đất liền và trong
Vịnh Bắc bộ trong thời kỳ này mang hai tên khác nhau : hiệp ước cho biên
giới trên đất liền và hiệp định cho lãnh hải trong Vịnh Bắc bộ. Theo
định nghĩa, Hiệp ước (Treaty) là một thỏa thuận ký kết giữa hai hay
nhiều nước ; ở đây hiệp ước có thể hiểu đó là văn bản được ký kết sau
khi đã thảo luận giữa các bên (có thể sẽ có bên không thực hiện). Còn
Hiệp định (Agreement) là bản giao ước ký kết giữa các nước ký kết giữa
các nước để cùng nhau thỏa thuận về một vấn đề nào đó ; ở đây là đường
phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước
trong Vịnh Bắc Bộ, và có thể thay đổi theo từng giai đoạn. Trong vụ
việc này, phía Trung Quốc đã không vô tư khi chọn cách đặt tên riêng cho
từng văn kiện về biên giới.
Chỉ
sau khi ký xong hai văn kiện cơ bản về phân đinh biên giới trên đất
liền và trong vịnh Bắc bộ, từ sau năm 2000, quan hệ hữu nghị giữa hai
Đảng cộng sản và hai Nhà nước trở nên thắm thiết hơn và bước sang giai
đoạn hợp tác toàn diện : những Thông cáo chung trở thành những Tuyên bố
chung.
Những Tuyên bố chung từ năm 2000 đến nay
Theo
Thư viện Pháp luật tư vấn (8), "Tuyên bố chung là Văn kiện ghi nhận về
sự thống nhất quan điểm, lập trường về các vấn đề quốc tế trong các
cuộc đàm phán, gặp gỡ, viếng thăm giữa các đại diện của hai hoặc nhiều
hơn quốc gia, thường là giữa những người đứng đầu quốc gia, những người
đứng đầu chính phủ và được công bố rộng rãi trên thế giới. Tuyên bố
chung được công bố tại nước ký kết hoặc được công bố cùng một thời điểm
tại các nước tham gia đàm phán. Việc ra được tuyên bố chung chứng tỏ là
các bên tham gia đàm phán đã có sự thống nhất về quan điểm, lập trường
trong nhìn nhận và giải quyết các vấn đề có liên quan đến hai nước hoặc
các vấn đề quốc tế, hoặc trước đây có sự khác biệt nay đã tìm được tiếng
nói chung để đi đến hành động chung. Nó cũng chứng tỏ quan hệ của các
quốc gia tham gia đàm phán là tốt đẹp hoặc đã được cải thiện. Ngược lại,
các bên tham gia đàm phán không ra được tuyên bố chung là dấu hiệu
chứng tỏ quan hệ của các bên tham gia đàm phán đã và đang nảy sinh những
tranh chấp".
Ngày
25/12/2000, hai bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc và Việt Nam đã ra
một Tuyên bố chung về Hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
(2000). Ở đây cũng nên lưu ý về hai cụm từ "hợp tác toàn diện trong thế
kỷ mới" và "đối tác chiến lược toàn diện", Đảng cộng sản Việt Nam đã đặc
biệt dành hai cụm từ này cho riêng Trung Quốc. Đối với các quốc gia
khác, Bộ Ngoại giao Việt Nam chỉ sử dụng cụm từ "đối tác chiến lược toàn
diện" với Nga và Ấn, đối với các quốc gia khác, Việt Nam chỉ sử dụng
cụm từ "đối tác chiến lược" với các quốc gia phương Tây, Nhật Bản, Hàn
Quốc và ASEAN ; "đối tác toàn diện" với các quốc gia Châu Mỹ latinh,
Châu Phi và một vài quốc gia Châu Âu còn lại.
Trở
lại với Tuyên bố chung về Hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
(2000), hai phía Trung Quốc và Việt Nam đã hoạch định ra một khung thảo
luận và hợp tác cấp Đảng và Nhà nước gồm 10 điểm như sau :
1. Duy trì gặp gỡ cấp cao thường xuyên, tạo thêm động lực mới thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển…
2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đối với thế hệ trẻ hai nước về truyền thống hữu nghị…
3.
Tăng cường và mở rộng hợp tác của Ủy ban liên Chính phủ trong các lĩnh
vực kinh tế thương mại và khoa học kỹ thuật giữa hai nước…
4. Hai bên tiếp tục tăng cường hợp tác, phối hợp giữa hai bên tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực…
5. Tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa các cơ quan quốc phòng và quân đội hai nước…
6. Tăng cường trao đổi và hợp tác về văn hóa, thể dục thể thao, và các phương tiện thông tin đại chúng…
7. Mở rộng hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, bao gồm trao đổi lưu học sinh, cán bộ giảng dạy…
8. Tăng cường hợp tác trong các mặt phòng chống các loại tội phạm xuyên quốc gia…
9.
Ký kết những Hiệp ước biên giới trên bộ Việt-Trung 1999, Hiệp định phân
định Vịnh Bắc Bộ 2000, Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ...
10.
Việt Nam công nhận Chính phủ nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa là Chính
phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho toàn Trung Quốc ; Đài Loan là một bộ
phận lãnh thổ không thể chia cắt của Trung Quốc…
Theo
khung thảo luận và nội dung 10 điểm hợp tác cấp Đảng và Nhà nước này,
ba điểm đầu thiết đặt nền tảng hợp tác : giữ gìn quan hệ giữa hai Đảng
và Nhà nước (quá khứ), đào tạo thế hệ trẻ (tương lai) và thành lập Ủy
ban liên chính phủ (hiện tại). Chính Ủy ban liên chính phủ này đặt khung
cho sự lệ thuộc Việt Nam vào Trung Quốc trong đủ mọi lãnh vực : kinh tế
thương mại và đầu tư, hợp tác khoa học và kỹ thuật, nông lâm ngư
nghiệp, tài chính tiền tệ và kinh tế vĩ mô, giao thông vận tải đường bộ
và đường sắt, viễn thông và tin học, du lịch và lữ hành, khai thác lưu
vực sông Mekong, và sau cùng là xây dựng, phát triển đô thị. Bảy điểm
còn lại phân chia khu vực hợp tác : quốc tế, quốc phòng, văn hóa, giáo
dục, tư pháp, biên giới và ngoại giao. Nói chung đây là khung hợp tác
chỉ dành riêng cho những lãnh đạo quốc gia.
Nhân
sự được tuyển vào Ủy ban liên chính phủ này rất là chọn lọc. Phía Trung
Quốc tuyển lựa rất kỹ nhân sự của họ để đưa vào Ủy ban này, đó là những
chiến lược gia, những chuyên viên có trình độ và kiến thức cao trong
từng lãnh vực chuyên môn để áp đặt sự khống chế của Bắc Kinh và mang về
tối đa những quyền lợi cho Trung Quốc.
Từ Ủy ban này đẻ ra những Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc (Ủy ban hợp tác kinh tế-thương mại, Ủy ban liên hợp hợp tác khoa học kỹ thuật giữa Chính phủ hai nước, Ủy ban liên hợp hợp tác dầu khí, cửa khẩu biên giới…), Nhóm công tác (Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ..),
Tổ công tác… Chính những ủy ban và nhóm công tác này thiết kế lãnh vực
hợp tác giữa hai nước và, tùy theo chỉ thị của trung ương, ấn định lộ
trình thực hiện cho từng giai đoạn. Người của những Nhóm và Tổ công tác
này được cài cắm trong khắp mọi cơ quan đảng ủy các ban bí thư, ban tham
mưu trực thuộc đảng cộng sản, chính phủ, quân đội, công an, an ninh và
trong các ban bộ, ngành kinh tế, tài chính, tư pháp, văn hóa, xã hội,
giáo dục…
Những
Tổ công tác cho từng lãnh vực được thành lập để khai triển và theo dõi
tiến độ thi hành và làm báo cáo gởi lên cấp trên. Sau khi đã bàn bạc,
thảo luận và quyết định những lãnh vực hợp tác và phương tiện thực hiện,
những tổ và nhóm công tác này đúc kết thành một hồ sơ chi tiết và trình
lên những Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc xét
duyệt. Mỗi câu, mỗi chữ đều được cân nhắc kỹ lưỡng để không thể bị bị
hiểu lầm khi thực hiện. Sau khi được chấp thuận những hồ sơ này sẽ được
trình lên Ủy ban liên chính phủ để đúc kết thành những văn kiện chính
thức : ngày và địa điểm ký kết sẽ do cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước hai
nước quyết định.
Cơ
quan đầu não chỉ đạo những Ủy ban và nhóm công tác này : ở Việt Nam là
Tòa Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội và Tổng lãnh sự quán ở Sài Gòn và những
lãnh sự quán khác ; ở Trung Quốc là cơ quan chỉ đạo nằm ở Quảng Châu
(tỉnh Quảng Đông) và một số chi nhánh ở Quảng Tây và Vân Nam.
Một
vài thí dụ cụ thể về việc cài cắm người trong các cơ quan Đảng và Nhà
nước : cố vấn Trung Quốc đã góp phần đáng kể trong việc xóa bỏ lịch sử
chống Trung Quốc trong sách giáo khoa, khuyến khích học tiếng quan thoại
như sinh ngữ 1, in cờ Trung Quốc 5 sao nhỏ, ngăn cản không cho tưởng
niệm những nạn nhân của Trung Quốc, ủng hộ những bản án nặng cho những
ai chống Trung Quốc, ngăn chặn những trang mạng chống Trung Quốc…
Sự
hiện đông đảo của những cố vấn này trong các cơ quan Đảng và Nhà nước
đã khiến một số cán bộ nòng cốt trong Đảng lo âu, nhưng không ai biết
phải làm gì hơn là cam chịu và cảnh giác. Không phải tình cờ bài nói
chuyện của Giáo sư Tiến sĩ Thiếu tướng công an Trương Giang Long, Phó
Tổng cục trưởng Tổng Cục chính trị Công an nhân dân, đồng thời là Giám
đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc được phát tán rộng rãi trên mạng vào trung tuần tháng 3 năm 2017 vừa qua.
Giáo
sư Tiến sĩ Thiếu tướng công an Trương Giang Long phát biểu trong một
buổi học tập chính trị cao cấp tại Học viện Chính trị của Bộ Công an
trung tuần tháng 3/2017.
Cho
dầu biết rõ Trung Quốc cài cắm người trong các cơ quan lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước để khống chế mọi sinh hoạt của Việt Nam, toàn bộ cán bộ
và đảng viên trong Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn chấp hành một
cách triệt để những quyết định của Ban lãnh đạo Đảng, tức Bộ Chính trị
và Trung ương đảng. Do đó chỉ cần nắm số cán bộ lãnh đạo chóp bu của hai
cơ quan này là Bắc Kinh nắm toàn quyền lãnh đạo đất nước Việt Nam, bất
chấp nguyện vọng của 97 triệu dân Việt.
Cuộc
gặp mặt giữa hai cộng sản tại Thành Đô tháng 3/1990 là một cơ hội "trời
cho" mà Bắc Kinh không thể bỏ lỡ. Chính vì thế, từ sau năm 2000, Ban
lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã phát minh ra "phương châm 16 chữ"
và "tinh thần 4 tốt" làm kim chỉ nam chỉ đạo mối quan hệ hợp tác toàn
diện giữa hai Đảng và Nhà nước.
Phương châm 16 chữ
Trong
phiên họp cấp lãnh đạo hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc tại Bắc
Kinh tháng 2 năm 1999, ông Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng cộng sản
Trung Quốc công bố phương châm phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ
21 gồm 16 chữ, đó là "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai".
(Không hiểu vì lý do gì, phía Việt Nam sau đó lồng thêm chữ "vàng" sau
16 chữ này). Tổng bí thư (mãn nhiệm kỳ) Đảng cộng sản Việt Nam lúc đó
là ông Lê Khả Phiêu đã hoàn toàn đồng ý và lấy đó làm kim chỉ nam chỉ
đạo quan hệ giữa hai đảng và hai nước.
Không
biết sau khi ký Hiệp định biên giới ngày 30/12/1999, Hiệp định phân
định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá ngày 25/12/2000 và chấp
nhận phương châm 16 chữ này, ông Lê Khả Phiêu đã được phía Trung Quốc
hậu đãi như thế nào ? Dư luận chỉ biết vào cuối tháng 1/2009, nhân dịp
Tết Kỷ Sửu, một loạt hình ảnh nhà riêng của ông Lê Khả Phiêu được phát
tán trên Internet và đã gây xôn xao dư luận : xa hoa và tráng lệ vượt
mức thường tình của một viên chức cao cấp (9).
Tháng
11/2000, ngay sau khi được đề cử vào chức vụ Tổng bí thư Đảng cộng sản
Việt Nam thay ông Lê Khả Phiêu, ông Nông Đức Mạnh liền sang Trung Quốc
để được Bắc Kinh công nhận. Trong lần gặp gỡ này, Tổng bí thư Giang
Trạch Dân "nói rõ" 16 chữ này là phương châm quan trọng chỉ đạo sự phát
triển quan hệ hai nước. Và, như để trấn an phía Việt Nam trong quan hệ
hợp tác giữa hai Đảng và hai Nước, ông Giang Trạch Dân tô thêm "4 nguyên
tắc" vào quan hệ giữa hai nước : độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Nhưng 4 nguyên tắc này không bao giờ được ghi vào nội dung những Tuyên
bố chung và chỉ được nhắc tới trong những thông cáo cấp bộ và ngành mà
thôi.
Là
một người hiền lành và không có ý kiến, ông Nông Đức Mạnh có lẽ đã được
Bắc Kinh chiếu cố đặc biệt để giữ chức Tổng bí thư liên tiếp trong hai
nhiệm kỳ. Trong suốt thời gian 10 năm dưới thời Tổng bí thư Nông Đức
Mạnh, từ 22/4/2001 đến 19/1/2011, quan hệ giữa hai Đảng cộng sản Trung
Quốc và Việt Nam trở nên thắm thiết và nồng ấm hơn bao giờ hết : Trung
Quốc tích cực giúp đỡ và phát triển kinh tế Việt Nam, bù lại Việt Nam
nhường cho Trung Quốc quyền chủ động mọi sinh hoạt trong Vịnh Bắc bộ. Cũng
như Lê Khả Phiêu, dư luận chỉ biết sự giàu sang của ông Nông Đức Mạnh
qua hình ảnh được lan truyền với tốc độ chóng mặt trên các trang mạng xã
hội, nhân một cuộc phỏng vấn ngày 19/2/2015, tức mồng một Tết Ất Mùi
(10).
Gần
đây hơn, ngày 6/5/2018, ngay trước ngày khai mạc Hội nghị lần thứ 7 Ban
chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, trong một bức thư ký tên
tập thể, 54 đảng viên đảng cộng sản kỳ cựu yêu cầu ông Nguyễn Phú Trọng
hãy công khai tài sản của mình (11).
Điều
này cho thấy Bắc Kinh ưu đãi rất hậu hĩnh những cấp lãnh đạo Đảng cộng
sản Việt Nam để mua sự trung thành và sự thần phục. Những cố gắng giải
thích hay biện minh cho sự nhích lại với Mỹ hay phương Tây của một số
lãnh đạo cấp cao trong Đảng cộng sản Việt Nam chỉ là hoang tưởng.
Tinh thần 4 tốt và danh xưng "toàn cục", "đại cục"
Sang
năm 2002, ngay khi vừa đắc cử Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc, ông
Hồ Cẩm Đào, phát minh ra thêm một phương châm mới, gọi là tinh thần "4
tốt", đó là : "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" để
hướng dẫn phong cách thảo luận trong quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà
nước về những va chạm trên Biển Đông và trong quan hệ thương mại giữa
hai nước.
Danh xưng "toàn cục" và "đại cục" cũng chính thức xuất hiện trong giai đoạn này : Hai
bên khẳng định, Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục kiên trì phương châm
"láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới
tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối
tác tốt", từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn toàn cục (Tuyên bố chung 2005) ; không để các vấn đề tranh chấp trên biển ảnh hưởng đến đại cục quan hệ Việt-Trung (Tuyên bố chung 2013).
Toàn
cục (sau này phía Việt Nam đổi thành đại cục) ở đây phải hiểu là tuy
hai là một, nghĩa là duy trì sự thống nhất toàn diện trong quan hệ giữa
hai Đảng và Nhà nước, cụ thể là thăm viếng lẫn nhau ở cấp cao, tăng
cường giao lưu hữu nghị giữa hai nước, mở rộng hợp tác cùng có lợi trên
các lĩnh vực, trân trọng, giữ gìn, phát triển tốt quan hệ hai Đảng, hai
nước Việt-Trung, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện
Việt Nam-Trung Quốc phát triển một cách ổn định, lành mạnh, lâu dài
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao, quốc phòng, công an,
an ninh, văn hóa, giáo dục, đặt biệt là tăng cường tuyên truyền và giáo
dục thanh niên hai nước về truyền thống hữu nghị Việt-Trung để mở ra cục
diện mới.
Khúc quanh mới trong quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước
Trở
về với nội dung 16 chữ, phải hiểu như thế nào ? Thoạt nghe phương châm
này, mọi người đều thấy bình thường vì nghĩ đó chỉ là những khẩu hiệu
suông hô hào ca ngợi quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước : đã là láng
giềng tốt thì sự hợp tác giữa hai nước phải phù hợp với nguyện vọng và
lợi ích lâu dài của hai nước và hai dân tộc. Nhưng đối với Bắc Kinh, đó
là một tôn chỉ phải nghe theo : nếu không tôn trong nội dung 16 chữ này,
nhất là hợp tác toàn diện, thì Việt Nam sẽ bị chế tài (tài chính, kinh
tế, thương mại, quân sự…).
Phương
châm này làm nhớ lại "trụ đồng" thời Bắc thuộc (12). Sau khi khống chế
được cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, Mã Viện cho khắc 6 chữ trên một trụ
đồng dựng ở vùng biên giới phía nam Giao Chỉ (Thanh Hóa ngày nay) :
"Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng ngã xuống, Giao Chỉ không
còn). Thông điệp này thật ra là lời nhắn nhủ cho các quan lại địa phương
: muốn giữ yên đất Giao Chỉ phải ngăn chặn phiến quân từ phía nam (Chăm
và Mường) tràn lên, nếu không đất Giao Chỉ sẽ mất. Quan lại địa phương ở
đây là quan quân Lạc Việt hợp tác với nhà Hán (gọi chung là người Kinh,
tức những nhóm người Việt định cư trên đồng bằng) cai trị đất Giao Chỉ.
Đảng
cộng sản Việt Nam ngày nay cư xử với dân chúng không khác gì quan quân
Lạc Việt thần phục nhà Hán thời đó. Cái khác là 6 chữ ngày trước được
thay bằng 16 chữ ngày nay.
Từ
sau năm 2000, số phận của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam bước sang
một khúc quanh mới : lệ thuộc vào Trung Quốc để được giúp đỡ và tồn tại.
Trong mỗi Tuyên bố chung, các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng cộng sản
Việt Nam luôn nhấn mạnh "Việt Nam mong muốn cùng Trung Quốc tăng cường
tình hữu nghị truyền thống, đi sâu hợp tác thực chất, đưa quan hệ đối
tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước phát triển ổn định, lành
mạnh". Những vọng động mở cửa ra bên ngoài với thế giới phương Tây (Hoa
Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản) chỉ nhằm trấn an dư luận trong nước và quốc tế
để nhận tài trợ và giúp đỡ.
Sự
lún sâu vào vòng lệ thuộc Trung Quốc của Đảng cộng sản và đất nước Việt
Nam ngày càng lộ liễu và công khai để không còn che đậy được nữa. Gần
như tất cả những công trình xây dựng hạ tầng cơ sở chiến lược và qui mô
lớn ở Việt Nam đều được ghi trong những Tuyên bố chung với sự chỉ định
do những công ty Trung Quốc đảm nhiệm, như bến cảng, xa lộ, đường cao
tốc, đường sắt và những công trình kiến trúc đồ sộ. Phải đọc kỹ nội dung
những Tuyên bố chung này mới hiểu sự hiện diện của người Trung Quốc
trên lãnh thổ Việt Nam cũng ngày càng đông và nắm giữ gần như hầu hết
mọi sinh hoạt kinh tế, tài chính, sản xuất và buôn bán qui mô lớn. Những
hiện tượng tiêu cực như buôn lậu ma túy, mua bán thú quí hiếm, lường
gạt nông dân là do những thành phần bất hảo chủ trương chứ không bởi
Đảng và Nhà nước Trung Quốc.
Nguyễn Văn Huy
Chú thích :
(4) https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/time-to-declas-thanhdo-conf-08062014082423.html , https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2014/10/141017_thanhdo_secret_reveal
(8) https://nganhangphapluat.thukyluat.vn/tu-van-phap-luat/linh-vuc-khac/tuyen-bo-chung-la-gi-122512
( 10) https://www.voatiengviet.com/a/vi-sao-anh-tu-gia-ong-nong-duc-manh-lam-day-song-du-luan/2654837.html