Việt Nam làm gì trước cuộc so găng Trung - Mỹ (phương Tây)? (Nguyễn Anh Tuấn)
Một bài viết rất đáng để trí thức Việt Nam và những người còn quan tâm đến đất nước suy ngẫm. Rõ ràng cơ hội cho Việt Nam là có khi bất đồng và mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Mỹ (Phương Tây) đã đạt đến mức không thể tìm tiếng nói chung. Cuộc chiến này sẽ kéo dài và bao gồm mọi lĩnh vực cho đến khi Trung Quốc thua cuộc. Giải pháp cho đất nước không thể đến từ đảng cộng sản, họ đã bất lực và hoàn toàn không biết phải làm gì khi tiếp tục chọn đu dây giữa Mỹ và Trung Quốc. Câu hỏi mà tác giả đặt ra rất cần có câu trả lời trong thời gian tới "chúng ta đã sẵn sàng chưa trong việc thay
thế họ một khi thời gian không cho phép sự chậm trễ của họ thêm một giây
phút nào nữa?"
Bản chất cuộc so găng
Không
giống như sự nổi lên của Nhật Bản thập niên 70s-80s biến nước này thành
một hội viên được đón chào của câu lạc bộ phương Tây, sự trỗi dậy của
Trung Quốc mang dáng dấp của Nga Sô sau Thế Chiến II ở chỗ đều thách
thức trật tự quốc tế hiện hành do phương Tây kiểm soát với sự tự tin
rằng họ đang vận hành một mô hình phát triển ưu việt hơn.
Những
thành tựu phát triển của Nga Sô thời bấy giờ và của Trung Quốc hiện nay
quả nhiên có thể biện minh cách tiếp cận này của họ. Hơn thế nữa, trở
thành siêu cường khi mà phương Tây đã bao vây khắp mọi nơi, không có
nhiều lựa chọn cho Nga Sô và Trung Quốc trong cuộc cạnh tranh sinh tồn
này ngoài việc phải xô đổ trật tự cũ. Nếu Nga Sô phải phá vòng vây bằng
cách hỗ trợ các dân tộc thuộc địa vùng lên chống thực dân phương Tây và
sau đó tham gia vào hệ thống xã hội chủ nghĩa do họ dẫn dắt, thì Trung
Quốc đang tổng hợp những nỗ lực tương tự của mình trong Sáng kiến Vành
đai Con đường đầy tham vọng nhằm chia lại vùng ảnh hưởng toàn cầu.
Như
vậy, cũng như Nga Sô trước đây, cuộc so găng của Trung Quốc với phương
Tây không chỉ bó hẹp trong một lãnh vực cụ thể mà thực chất là sự cạnh
tranh chiến lược giữa hai mô hình phát triển : Về kinh tế, một bên nhấn
mạnh vai trò quyết định của nhà nước, bên kia coi trọng sáng kiến tư
nhân ; về chính trị, một bên tăng cường độc đoán cưỡng bách đảng trị,
bên kia dựa vào dân chủ tự do pháp trị.
Bản
chất mô hình phát triển dựa vào nhà nước là không khác nhưng Trung Quốc
hơn Nga Sô ở chỗ tận dụng thành công bối cảnh toàn cầu hoá để học hỏi
phương Tây bổ sung các yếu tố thị trường vào nền kinh tế ; và cũng vì
thế mà kém Nga Sô ở chỗ chưa thể xây dựng một hệ thống toàn cầu theo mô
hình của mình bởi lẽ chính Trung Quốc cũng chưa đủ thời gian để hệ thống
hoá chặt chẽ một mô hình mà họ chỉ mới mày mò nhờ ‘dò đá qua sông’.
Nghĩa là hơn Nga Sô về chiến thuật nhưng kém về chiến lược vậy.
Đấu trường chính của cuộc so găng
Lenin
từng nói một câu mà hậu bối của ông ít khi muốn nhớ, rằng xét đến cùng
chủ nghĩa xã hội nếu muốn thắng chủ nghĩa tư bản sẽ phải thắng về năng
suất lao động [1]. Cuộc đối đầu giữa các mô hình phát triển cuối cùng
cũng nằm ở chỗ mô hình nào tạo ra năng suất lao động cao hơn.
Đó
là lý do vì sao người ta đang dần nhận ra cuộc chiến Mỹ-Trung hiện nay
chính yếu không phải về thương mại, mà là về công nghệ [2] - yếu tố quan
trọng bậc nhất để tăng năng suất. Điều này cũng giải thích vì sao hai
nước vừa tuyên bố đình chiến thương mại tạm thời nhưng ngay sau đó con
gái chủ tịch Huawei - tập đoàn chủ đạo trong tham vọng cường quốc công
nghệ của Trung Quốc - vẫn bị bắt.
Trung
Quốc hiểu hơn ai hết tầm quan trọng của vấn đề này khi mà sự phát triển
vượt bậc vài thập kỷ qua của họ không dựa vào công nghệ phát triển tự
thân. Phương Tây sáng tạo công nghệ, Trung Quốc sao chép và tận dụng lợi
thế quy mô (economies of scale) không thể so bì của mình để tăng năng
suất, giảm giá thành rồi tranh thủ bối cảnh toàn cầu hóa để vươn lên
thành thế lực sản xuất hùng mạnh bậc nhất.
Công
thức phát triển này của Trung Quốc, bởi vậy, đặt trọng tâm vào việc sao
chép công nghệ của phương Tây bằng 3 cách thức chủ yếu sau :
1) gián điệp công nghệ,
2) mua bán&sát nhập tập đoàn phương Tây để chiếm lấy công nghệ, và
3) dùng thị trường nội địa khổng lồ để áp lực các tập đoàn phương Tây muốn làm ăn ở Trung Quốc phải chuyển giao công nghệ.
Không
phải Tây phương không nhận ra chiến lược này của Trung Quốc, song chỉ
khi họ vỡ mộng rằng sự phát triển kinh tế của Trung Quốc không dẫn đến
cởi mở về chính trị mà trái lại còn giúp gia tăng quyền lực độc đoán
đảng trị, và bừng tỉnh rằng siêu cường mới nổi này muốn tiếp bước Nga Sô
thách thức trật tự quốc tế hiện hành, họ mới bắt đầu ra tay tấn công
vào công thức phát triển của Đại lục với 3 đòn tương ứng sau :
1) truy bắt gián điệp công nghệ,
2) siết chặt việc mua bán&sát nhập có yếu tố Trung Quốc (qua cơ chế CFI/Ủy ban Đầu tư Nước ngoài), và
3) đẩy mạnh thương chiến nhằm sắp xếp lại chuỗi sản xuất toàn cầu vào tạo thế bảo vệ các tập đoàn làm ăn trên đất Trung Quốc.
Trung
Quốc quả thật nên lo lắng, nhất là khi mới đây họ đã thất bại trong
việc dùng lợi ích gây chia rẽ nội bộ khối Tây phương [3] và đang chứng
kiến mỗi khi một quốc gia Tây phương ra đòn thì cả khối lại hùa theo
hưởng ứng. Giờ đây vận mệnh của Trung Quốc, như Tập tuyên bố, sẽ được
đặt trong nỗ lực của quốc gia này tự lực phát triển công nghệ. [4]
Phe nào thắng ?
Thái
độ cẩn trọng không cho phép chúng ta dựa trên thiên kiến mà vội vàng
đưa ra câu trả lời, đặc biệt khi chứng kiến sự phát triển vũ bão của
Trung Quốc vài thập niên qua.
Tuy nhiên nếu đồng ý rằng công nghệ là đấu trường chính của cuộc so găng, Trung Quốc rõ ràng đang gặp quá nhiều bất lợi :
Đầu
tiên, những diễn biến thời gian gần đây cho thấy mặc dù rất nỗ lực,
Trung Quốc vẫn chưa chế ngự được khả năng sáng tạo công nghệ. Sự khốn
đốn của ZTE - tập đoàn công nghệ hàng đầu Trung Quốc, dưới lệnh cấm vận
công nghệ của Hoa Kỳ là một minh chứng không thể rõ nét hơn.
Hơn
thế, trong khi nhiều nghiên cứu chỉ ra tự do chính trị quan trọng thế
nào đối với khả năng sáng tạo về dài hạn [5], yếu tố này lại không thể
chấp nhận được đối với mô hình phát triển của Trung Quốc. Nghĩa là tham
vọng tự lực công nghệ thông qua chiến lược Made in China 2025 của họ,
ngay cả khi không bị để ý cũng đã không dễ thành công, huống hồ hiện nay
lại đang là đích nhắm tấn công của toàn khối Tây phương thì lại càng
khó khăn bội phần.
Hi
vọng sót lại của Trung Quốc được nuôi dưỡng bằng niềm tin rằng tinh
thần quốc gia phục thù một khi được thổi bùng lên sẽ là nhiên liệu cho
cỗ máy sáng tạo quốc gia như những gì từng xảy ra ở Đức sau Thế Chiến I.
Chưa rõ nỗ lực này sẽ đi về đâu nhưng nếu nhớ rằng trong khi Đức thuộc
về nòng cốt của khối Tây phương, thừa hưởng sinh lực sáng tạo mạnh mẽ
bắt rễ trong lối nghĩ, lối sống lý tính hóa cao độ hàng trăm năm của Tây
phương nên đã chế ngự được khả năng sáng tạo, thì Trung Quốc, dù tăng
trưởng liên tục những thập kỷ vừa qua nhưng chỉ mới chập chững những
bước đầu tiên trong việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, sẽ thấy hi
vọng của Trung Quốc dẫu chưa tới mức áo tưởng nhưng vẫn khá mong manh.
Một thước đo khác, trực quan hơn, có thể giúp dự đoán kết quả cuộc so găng. Sáng
tạo vốn dĩ gắn liền với nhân tài, là sản phẩm của cá nhân và tập thể
nhân tài. Thử xem nhân tài trên thế giới đã, đang và sẽ đổ về Mỹ và
phương Tây hay là về Trung Quốc để thấy viễn cảnh Trung Quốc u ám ra sao
nếu vẫn đẩy quốc gia dấn sâu vào cuộc cạnh tranh chiến lược này [6].
Việt Nam phải chọn
Câu hỏi đầu tiên đặt ra là liệu Việt Nam có thể đứng bên lề cuộc so găng lịch sử này với một tư thế trung lập được không ? Khả
năng cao là không. Việt Nam là một nước nhỏ yếu nằm ở vị trí trung tâm
của đấu trường so găng là khu vực Biển Đông, mà đã nhỏ yếu thì khó thoát
vòng chi phối của các siêu cường mỗi khi họ đụng độ. ‘Các nước Đông Nam
Á có thể bị buộc phải chọn một trong hai’[7], lời phát biểu mới tháng
trước của Lý Hiển Long tuy ngắn gọn nhưng đủ cho thấy đảo quốc này, nhờ
đứng chân trên một di sản và kinh nghiệm ngoại giao phong phú, đã thấu
hiểu thời cuộc ra sao.
Nghĩa
là, dù Việt Nam có muốn hay không thì các siêu cường cũng sẽ tính toán
trên lưng các nước nhỏ như Việt Nam, thế thì chi bằng Việt Nam chọn lựa
vị trí của mình trước, ít ra cũng chiếm được đôi chút thế chủ động.
Tuy
đáng lo ngại khi lịch sử chứa đầy các ví dụ cho thấy nước nhỏ, gồm cả
Việt Nam, đã trở thành chiến trường ủy nhiệm của các siêu cường ra sao,
nhưng lịch sử đồng thời cũng cho thấy các quốc gia chậm tiến chỉ có thể
phát triển vượt bậc nhờ khéo léo khai thác mâu thuẫn giữa các siêu cường
như thế nào. Nếu Nhật Bản nương vào cuộc tranh giành thuộc địa giữa các
thực dân Tây phương thì Hàn Quốc tận dụng mâu thuẫn Chiến tranh Lạnh,
nếu Đài Loan khai thác thù địch Mỹ-Trung thì chính Trung Quốc sau đó lại
chủ động khoét sâu mâu thuẫn Mỹ-Nga Sô (mà việc xâm lược Việt Nam năm
1979 là một phần trong kế hoạch đó) - tất cả đều là để tìm cơ hội phát
triển và hiện đại hóa quốc gia.
Vì
sao lại thế ? Vì chỉ khi đụng độ lớn các siêu cường mới sẵn sàng hỗ trợ
hết mình cho đồng minh nhược tiểu nhằm phục vụ cho lợi ích của chính
các siêu cường. Bên cạnh đó, vì nhu cầu chứng minh mô hình phát triển
của mình là tốt nhất, sự hỗ trợ của các siêu cường cũng mang tính toàn
diện, không chỉ gói gọn trong lãnh vực quân sự, mà lan rộng ra cả kinh
tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, xã hội.
Hiểu
như thế để thấy Việt Nam chẳng nên lo ngại cuộc so găng lịch sử này mà
trái lại cần hoan nghênh nó như một cơ hội, nếu đã coi phát triển quốc
gia là mục tiêu tối thượng.
Cũng có nghĩa là, câu hỏi bây giờ không phải là có chọn phe hay không, mà là phải chọn phe nào ?
Chọn phe nảo ?
Với
những phân tích ở trên rõ ràng là nên nghiêng về phương án Mỹ/phương
Tây bởi ưu thế vượt trội của phe này. Thực tế thì tất cả những nước Đông
Á kể trên (Nhật, Hàn, Đài, Trung) cũng đã từng lựa chọn tương tự trong
những thời điểm quốc gia đòi hỏi hiện đại hóa.
Đó là chưa nói đến có nhiều lý do khiến việc đứng về phe Trung Quốc không hề đảm bảo một kết cục tốt đẹp.
Trước
hết, chiến lược ngoại giao bẫy nợ của Trung Quốc đang dấy lên lo ngại
khắp nơi và thực tế là chưa có nước nhỏ yếu nào trở nên thịnh vượng nhờ
gắn vận mệnh của mình vào Trung Quốc khi mà cách tiếp cận cùng thắng
(win-win) chưa bao giờ là ưu tiên của quốc gia này.
Thứ
nữa là tâm lý chống Trung Quốc lan rộng của người dân Việt Nam, hàm ý
rằng ngay cả khi những người lãnh đạo bằng cách nào đó nhìn thấy lợi ích
quốc gia trong việc tăng cường hợp tác với Trung Quốc thì sự hợp tác đó
cũng khó lòng được công chúng ủng hộ, nghĩa là đã để ngỏ sẵn sự thất
bại.
Cuối
cùng nhưng quan trọng không kém là hồ sơ tranh chấp chủ quyền biển đảo
sẽ khiến mọi chọn lựa đứng về phía Trung Quốc, nếu thành hiện thực, đồng
nghĩa với đánh đổi chủ quyền quốc gia trên thực tế.
Phải làm gì ?
Ngoại
giao dù khéo léo đến đâu chỉ có thể trì hoãn chứ không thể chấm dứt
được hiểm họa bành trướng Trung Quốc phủ bóng lên dân tộc chúng ta, và
cũng không thể ngăn các siêu cường thương lượng trên lưng những nước
nhược tiểu như chúng ta.
Ở
một vị trí như nước ta trong tình thế hiện nay, ngoại giao cùng lắm chỉ
giúp mua thời gian để chúng ta hiện đại hóa quốc gia nhanh nhất có thể.
Mục
tiêu của chúng ta không bao giờ là đổi danh dự lấy hòa bình để rồi đánh
mất cả hai trong ô nhục, mà phải tìm mọi cách để xây dựng quốc gia hùng
mạnh nhất có thể. Chỉ khi quốc gia chúng ta đủ hùng mạnh thì Trung Quốc
mới phải cân nhắc thật kỹ trước khi chọn chúng ta làm đối tượng bành
trướng của họ, và chính chúng ta mới đủ khả năng xoay sở vượt thoát thân
phận con cờ trên bàn cờ nước lớn.
Mà muốn thế thì :
Đầu
tiên, phải xóa bỏ tâm lý yếm thế, lo ngại xung đột của một thứ chủ
nghĩa hòa bình thiếu chân đế. Nếu tin rằng phát triển quốc gia là mục
tiêu tối thượng, trước là để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ sau là để dân tộc
có cơ ngẩng mặt lên, chúng ta phải hoan nghênh và đón chào cuộc so găng
lịch sử này như một cơ hội trăm năm cho dân tộc chúng ta. Vì rằng ngay
cả khi chúng ta ở một vị trí chiến lược song nếu không có mâu thuẫn giữa
các siêu cường thì chúng ta cũng chẳng vin vào đâu để phát triển vượt
bậc cho được ; tương tự, nếu mâu thuẫn giữa các siêu cường có nảy sinh
đi chăng nữa nhưng nếu chúng ta nằm ngoài khu vực đấu trường trung tâm
thì cũng rất khó tìm thấy cơ hội.
May
thay chúng ta chẳng những có cả hai mà lại đang sở hữu lợi thế thời
gian vì cuộc mâu thuẫn này chỉ mới chớm nở và còn nhiều đánh giá khác
nhau xung quanh nó. Nhiều người, dựa trên tính khí thất thường của Trump
cũng như động thái xuống nước gần đây của Trung Quốc, nghĩ rằng cuộc
đụng độ này chỉ khởi lên tạm thời và mang tính chất giai đoạn, trong khi
chúng ta, nhìn vào đồng thuận chống Trung Quốc của giới lãnh đạo chính
trị phương Tây hiện nay [8] và dựa trên trải nghiệm va đập với Trung
Quốc suốt chiều dài lịch sử của chính chúng ta, sẽ thấy cuộc so găng
chiến lược này còn kéo dài, mở rộng nhiều thập kỷ tới, và Trung Quốc sẽ
không bao giờ dừng lại cho đến khi nó thất bại. Thời gian ở đây là một
lợi thế chỉ khi chúng ta nhanh chóng đưa ra quyết định chọn phe của mình
thay vì mải mê đu dây, bởi lẽ một khi cuộc đụng độ đã định hình, phe
phái đã phân chia, sự lựa chọn chậm trễ của chúng ta sẽ không còn ý
nghĩa, hay nói đúng hơn, chúng ta khi đó sẽ không còn quyền chọn lựa
nữa.
Sau
khi đã có một thái độ đúng đắn với cuộc so găng lịch sử và chọn đúng
phe của mình, chúng ta mới có thể đưa ra những đối sách phù hợp. Đó là
dù có khoác mặt nạ ngoại giao hòa hiếu với Trung Quốc tới cỡ nào, chúng
ta cũng phải ý thức rõ rằng đó chỉ để mua thời gian nhằm ra sức hợp tác
toàn diện với Mỹ và phương Tây, vốn đã tỏ rõ đồng thuận mong muốn một
Việt Nam thịnh vượng (dĩ nhiên là vì lợi ích chiến lược của chính họ).
Sự hợp tác này phải ở mức đồng minh bất luận tên gọi của nó là gì, phải
đủ toàn diện ở tất cả các lãnh vực kinh tế, giáo dục, chính trị, quân
sự, xã hội và với cả ba chủ thể là nhà nước, thị trường, xã hội dân sự,
phải đủ sâu sắc tới mức tạo được sự chuyển biến về chất. Trong sự hợp
tác toàn diện đó, lẽ dĩ nhiên là nước chậm tiến đi sau, Việt Nam phải
đóng vai một người học trò siêng năng, học lấy học để một cách chủ động
như Nhật, Hàn, Đài, Trung đã từng (nghĩa là không chỉ sao chép máy móc
mô hình), và còn phải chạy đua với thời gian, vì như đã nói, ngoại giao
dù khéo léo đến đâu cũng không kéo dài được cuộc hòa hoãn quá lâu. Sự
chủ động của chúng ta là tối quan trọng : chúng ta phải đòi hỏi hợp tác
10 ngay cả khi họ chỉ sẵn lòng hợp tác 1, chứ không phải ngược lại như
hiện nay.
Dĩ
nhiên là sẽ có những trở ngại đến từ thế chế chính trị hiện hành của
Việt Nam nhưng cần lưu ý rằng hiện đại hóa quốc gia là quá trình diễn ra
rộng khắp trên nhiều lãnh vực mà hình thức chế độ chỉ là một trong số
đó, có thể thay đổi trước hoặc sau tùy hoàn cảnh, miễn sao mục đích phát
triển đạt được. Trung Quốc cũng có thể phá hoại những nỗ lực ngoại giao
câu giờ của Việt Nam bằng cách chất vấn vì sao các đồng chí là cộng sản
mà lại hợp tác sâu rộng với Mỹ/phương Tây, nhưng không khó để đáp trả
bằng cách nhắc họ nhớ rằng chính những người cộng sản Trung Quốc thời
Đặng Tiểu Bình đã từng mong muốn liên minh quân sự với Mỹ và trên thực
tế là đã hợp tác sâu rộng với siêu cường này nhiều thập kỷ sau đó để mưu
tìm phát triển.
Tóm
lại, trở lực lớn nhất ngăn Việt Nam chớp lấy cơ hội trăm năm có một này
không đến từ bối cảnh quốc tế bên ngoài hay hiện tình chính trị nội bộ
mà chính là viễn kiến của những người lãnh đạo Việt Nam hiện nay.
Với
lề lối thực hành chính trị thiếu minh bạch ở đất nước chúng ta, người
dân hiện không ở vị trí có thể biết được liệu những người lãnh đạo có
nhìn ra cơ hội này không và có đang tìm cách chớp lấy hay không. Song
khả năng cao là không, nếu chúng ta để ý những động thái sau :
1)
tuyên truyền chống Mỹ/phương Tây trong hệ thống giáo dục, báo chí chính
thống, và đặc biệt trong lực lượng vũ trang vẫn tiếp tục được duy trì,
2)
sự cương quyết không nhượng bộ Mỹ/phương Tây khi đụng đến một số vấn đề
nhân quyền không quá cốt yếu phản ánh tâm lý thắng-thua với Mỹ/phương
Tây còn đậm nét, và
3)
sự rụt rè trong hợp tác với Mỹ/phương Tây mà gần đây là việc hủy bỏ
nhiều chương trình giao lưu quốc phòng với Mỹ - tất cả đều cho thấy
những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay chỉ coi việc hợp tác với
Mỹ/phương Tây mang tính chất tình thế và giai đoạn nhằm cân bằng áp lực
từ Trung Quốc, chứ hoàn toàn không thấy ở đó cơ hội phát triển và hiện
đại hóa vượt bậc cho quốc gia như nó nên là.
Cũng
có nghĩa là, cơ hội để Việt Nam không bị nhỡ tàu như bao lần trước đây
trong lịch sử nằm ở chỗ liệu mỗi chúng ta, trong tư cách phần tử quốc
gia, có làm đủ không trong việc khiến những người lãnh đạo phải đặt
quyền lợi dân tộc lên trên đảng phái, phe nhóm, cá nhân để từ đó thấu
triệt vấn đề thời cuộc, hoặc chúng ta đã sẵn sàng chưa trong việc thay
thế họ một khi thời gian không cho phép sự chậm trễ của họ thêm một giây
phút nào nữa.
Nguyễn Anh Tuấn
Nguồn : RFA, 01/01/2019 (nguyenanhtuan's blog)
---