Giới thiệu tóm tắt sách Đường Về Nô Lệ (Đoạn 2) (Nguyễn Đình Cống)
Ngay khi nhà nước bắt đầu lập kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế thì
vấn đề địa vị của những cá nhân và các nhóm xã hội khác nhau lập tức trở
thành vấn đề chính trị chủ yếu. Vì sức mạnh cưỡng bức của nhà nước là
lực lượng duy nhất quyết định ai được có cái gì, cho nên ai cũng muốn có
phần trong cái lực lượng lãnh đạo đó. Không có một vấn đề kinh tế hay
xã hội nào lại không mang màu sắc chính trị, theo nghĩa là việc giải
quyết các vấn đề như thế hoàn toàn phụ thuộc vào việc ai nắm được bộ máy
cưỡng chế và quan điểm của ai sẽ giữ thế thượng phong trong mọi trường
hợp.
Chương 6- KẾ HOẠCH HÓA VÀ PHÁP TRỊ
Pháp trị là điểm khác biệt rõ ràng nhất giữa một đất nước tự do với
một đất nước nằm dưới quyền cai trị của một chính phủ độc đoán. Pháp trị
có nghĩa là mọi hoạt động của chính phủ đều phải tuân thủ các quy tắc
đã được ấn định và tuyên bố từ trước. Các quy tắc này cho phép người ta
dự đoán được một cách chắc chắn cách thức chính phủ sử dụng lực lượng
cưỡng bức trong những hoàn cảnh cụ thể nào đó và người ta có thể lập kế
hoạch cho các công việc của cá nhân trên cơ sở những hiểu biết như thế.
Kế hoạch hóa (KHH) kinh tế theo kiểu tập thể chủ nghĩa nhất định sẽ
sinh ra một cái gì đó hoàn toàn ngược lại. Cơ quan lập kế hoạch không
thể bằng lòng với việc cung cấp các cơ hội rồi để mặc cho những người xa
lạ muốn sử dụng thế nào cũng được. Cơ quan này không thể tự trói mình
vào những quy tắc chung, những quy tắc mang tính hình thức vốn dùng để
ngăn cản những hành động độc đoán. Bởi vì chính cơ quan này phải lo cho
các nhu cầu thực tế của người dân, mỗi khi nhu cầu xuất hiện, và sau đó
cân nhắc xem nhu cầu nào cần đáp ứng, nhu cầu nào không.
Không nghi ngờ gì rằng KHH nhất định sẽ kéo theo việc phân biệt đối
xử có chủ ý đối với những nhu cầu khác nhau của những người khác nhau,
mặt khác, nó cho người này nhưng lại cấm người khác làm một việc gì đó.
Nó ghi hẳn vào luật người nào thì được làm gì, được có những gì hay sung
túc đến mức nào. Trên thực tế đấy chính là sự quay trở lại với quy định
về địa vị, nghĩa là bánh xe lịch sử bị quay giật lùi, khỏi “xu hướng
tiến bộ”
Pháp trị, theo nghĩa quy tắc luật hình thức, là nhà cầm quyền không
được tạo ra đặc quyền đặc lợi cho một số người nào đó, là bảo đảm quyền
bình đẳng của mọi người trước pháp luật, là đối trọng của một chính phủ
độc tài.
Nền kinh tế KHH không thể dung hòa với nhà nước Pháp trị.
Chương 7- KIỂM SOÁT KINH TẾ VÀ CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
Kiểm soát việc sản xuất của cải vật chất là kiểm soát chính đời sống con người.
KHH nền kinh tế là việc quản lí một hệ thống phức tạp những hành động
liên quan với nhau của rất nhiều người thì cần, một mặt, một nhóm
chuyên gia thường trực và mặt khác, một vị tống chỉ huy không bị gò bó
bởi bất kì thủ tục dân chủ nào. Đây là hậu quả tất yếu và những người
ủng hộ nó cũng hiểu như thế, chỉ có điều họ an ủi chúng ta rằng việc này
“chỉ” liên quan đến lĩnh vực kinh tế mà thôi.
Thực tế không phải như vậy. Đa số những người ủng hộ KHH đã từng
nghiên cứu một cách nghiêm túc các khía cạnh thực tiễn của vấn đề đều
không nghi ngờ gì rằng việc quản lí đời sống kinh tế chỉ có thể thực
hiện được bằng một chế độ độc tài, dù ít hay nhiều.
Nếu hoạt động kinh tế của chúng ta bị kiểm soát thì muốn làm bất cứ
chuyện gì chúng ta đều phải báo trước dự định và mục tiêu của mình.
Nhưng báo trước vẫn chưa đủ, chúng ta còn phải được chính quyền chấp
thuận. Như vậy là toàn bộ đời sống của chúng ta đã bị kiểm soát rồi.
Vì thế vấn đề KHH kinh tế không chỉ giới hạn ở câu hỏi liệu chúng ta
có thể đáp ứng các nhu cầu của mình theo cách ta muốn hay không. Vấn đề
là chúng ta có được tự giải quyết cái gì đối với ta là quan trọng hay
các cơ quan lập kế hoạch sẽ giải quyết điều đó cho chúng ta. KHH sẽ
động chạm không chỉ các nhu cầu cơ bản như chúng ta vẫn hiểu khi nói về
các vấn đề “thuần túy” kinh tế. Vấn đề là chúng ta, với tư cách là các
cá nhân sẽ không được quyền quyết định nhu cầu nào là cơ bản nữa.
Khi chính quyền đã quản lí hoạt động kinh tế thì nó cũng sẽ kiểm soát
không chỉ các khía cạnh vật chất của cuộc sống của chúng ta; nó sẽ nắm
quyền phân phối các phương tiện có hạn mà nhất định chúng ta sẽ cần khi
muốn hoàn thành bất kì mục tiêu nào đó. Và dù người kiểm soát tối cao đó
có là ai thì một khi đã kiểm soát tất cả các hoạt động kinh tế sẽ kiểm
soát tất cả các phương tiện có thể đáp ứng các mục tiêu của chúng ta, và
sẽ phải quyết định mục tiêu nào đáng được thỏa mãn còn mục tiêu nào thì
không. Bản chất vấn đề là như thế. Kiểm soát kinh tế không chỉ là kiểm
soát một phần tách biệt của đời sống của con người; đấy là sự kiểm soát
tất cả các phương tiện nhằm thỏa mãn các mục tiêu của chúng ta. Bất cứ
người nào nắm độc quyền kiểm soát các phương tiện sẽ phải quyết định mục
tiêu nào xứng đáng được đáp ứng, phải quy định các giá trị nào cao hơn,
giá trị nào thấp hơn, tóm lại là quyết định các thần dân của họ phải có
tư tưởng thế nào, phải phấn đấu vì cái gì. KHH tập trung có nghĩa là
không phải từng người mà toàn xã hội sẽ giải quyết các vấn đề kinh tế và
vì thế xã hội, đúng hơn là các đại diện của nó, sẽ quyết định tầm quan
trọng của các mục tiêu khác nhau.
Việc kiểm soát sản xuất và giá cả tạo ra quyền lực gần như vô giới hạn
Người ta thường nói không có tự do kinh tế thì tự do chính trị cũng
chẳng có giá trị gì. Đúng như thế, nhưng không phải theo cách mà những
người ủng hộ kế hoạch hóa thường nói. Tự do kinh tế – vốn là tiền đề cho
mọi quyền tự do khác – không phải là được giải phóng khỏi những lo lắng
về kinh tế, nghĩa là giải thoát khỏi nhu cầu lựa chọn và quyền được lựa
chọn như những người xã hội chủ nghĩa hứa hẹn với chúng ta; tự do kinh
tế phải là tự do hoạt động kinh tế, và cùng với quyền lựa chọn là rủi ro
và trách nhiệm.
Chương 8- AI LÀ AI
Thế hệ của chúng ta đã quên rằng chế độ tư hữu là sự bảo đảm quan
trọng nhất của tự do không chỉ của người có của mà cả người không có của
nữa. Đấy là vì tư liệu sản xuất nằm trong tay nhiều người hoạt động độc
lập với nhau, không người nào có toàn quyền đối với chúng ta, cho nên
chúng ta, với tư cách là cá nhân, mới có thể tự quyết định và hành động
theo ý mình. Nhưng nếu tất cả các phương tiện sản xuất đều được tập
trung vào tay một người, dù đấy có gọi là “toàn xã hội” hay nhà độc tài
thì người đó sẽ có quyền lực tuyệt đối đối với chúng ta.
Ngay khi nhà nước bắt đầu lập kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế thì
vấn đề địa vị của những cá nhân và các nhóm xã hội khác nhau lập tức trở
thành vấn đề chính trị chủ yếu. Vì sức mạnh cưỡng bức của nhà nước là
lực lượng duy nhất quyết định ai được có cái gì, cho nên ai cũng muốn có
phần trong cái lực lượng lãnh đạo đó. Không có một vấn đề kinh tế hay
xã hội nào lại không mang màu sắc chính trị, theo nghĩa là việc giải
quyết các vấn đề như thế hoàn toàn phụ thuộc vào việc ai nắm được bộ máy
cưỡng chế và quan điểm của ai sẽ giữ thế thượng phong trong mọi trường
hợp.
Tôi tin rằng chính Lenin đã đưa ra câu hỏi nổi tiếng “Ai là ai?”
Trong những năm đầu của chính quyền Xô Viết, “ai là ai” là vấn đề chính
của chủ nghĩa xã hội.
Ai là người lập kế hoạch, ai là người thực hiện kế hoạch? Ai là người
cai trị, còn ai là kẻ bị trị? Ai là người sắp xếp địa vị cho những người
khác và ai là người phải sống theo các quy định do người khác đưa ra?
Chỉ có quyền lực tập trung cao độ mới có quyền giải quyết được các vấn
đề như thế mà thôi.
Ngay khi nhà nước bắt đầu lập kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế thì
vấn đề địa vị của những cá nhân và các nhóm xã hội khác nhau lập tức trở
thành vấn đề chính trị chủ yếu. Vì sức mạnh cưỡng bức của nhà nước là
lực lượng duy nhất quyết định ai được có cái gì, cho nên ai cũng muốn có
phần trong cái lực lượng lãnh đạo đó. Không có một vấn đề kinh tế hay
xã hội nào lại không mang màu sắc chính trị, theo nghĩa là việc giải
quyết các vấn đề như thế hoàn toàn phụ thuộc vào việc ai nắm được bộ máy
cưỡng chế và quan điểm của ai sẽ giữ thế thượng phong trong mọi trường
hợp.
Chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quốc xã đã thành công trước hết là vì
lí thuyết mà chúng đưa ra đã hứa cho những người ủng hộ một số đặc
quyền đặc lợi.
Chương 9- AN TOÀN VÀ TỰ DO
An toàn về kinh tế là cơ sở để có được tự do thật sự.
Cần phải phân biệt ngay từ đầu hai loại an toàn: loại an toàn có giới
hạn, có thể đạt được cho tất cả mọi người và vì vậy không phải là đặc
ân mà là yêu cầu chính đáng của mỗi thành viên trong xã hội và loại an
toàn tuyệt đối mà xã hội tự do không thể bảo đảm cho tất cả mọi người và
không được coi như một đặc quyền đặc lợi, trừ những trường hợp đặc
biệt. Loại an toàn thứ nhất, bảo đảm để người ta không lâm vào hoàn cảnh
thiếu thốn quá mức, bảo đảm một mức sống tối thiểu cho tất cả mọi
người; và loại thứ hai là bảo đảm một lối sống hay một địa vị tương đối
mà một người hoặc một nhóm người được hưởng so với những người khác.
Loại thứ nhất là bảo đảm một mức thu nhập tối thiểu chung cho tất cả mọi
người và loại thứ hai bảo đảm một mức thu nhập mà một người cho là mình
xứng đáng được hưởng. Chúng ta phải thấy sự khác nhau một trời một vực
giữa sự bảo đảm mà mọi người đều được hưởng, với sự bảo đảm chỉ dành cho
một số người.
Muốn giữ được tự do nói chung thì không có lí do gì mà một xã hội đã
đạt đến mức độ thịnh vượng như xã hội chúng ta lại không bảo đảm cho tất
cả mọi người loại an toàn thứ nhất. Dĩ nhiên là xác định một mức sống
tối thiểu là vấn đề vô cùng phức tạp.
Kế hoạch hóa để bảo vệ loại an toàn thứ hai là có hại cho tự do. Đấy
là kế hoạch được thiết kế nhằm bảo đảm cho một số người hoặc nhóm người
tránh được thất thu, mà đấy lại là chuyện bình thường trong xã hội dựa
trên nguyên tắc cạnh tranh.
Sự bảo đảm càng trở thành đặc ân thì những người không được hưởng đặc
quyền đặc lợi càng gặp nhiều nguy hiểm, khiến cho sự bảo đảm như vậy
càng trở nên có giá hơn. số người có đặc quyền đặc lợi càng gia tăng,
khoảng cách giữa họ và những người khác càng cách biệt thì sẽ xuất hiện
các xu hướng và giá trị hoàn toàn mới. Không phải là tính tự chủ mà là
việc được bảo đảm về kinh tế sẽ quyết định địa vị xã hội của một người.
Các cô con gái sẽ không lấy những người tự tin và tử tế mà sẽ lấy người
có đồng lương đảm bảo, còn chàng thanh niên không tìm được cách chui vào
tầng lớp đặc quyền đặc lợi có nguy cơ sẽ vĩnh viễn trở thành một kẻ
khốn khổ, một kẻ suốt đời nằm dưới đáy của xã hội.
Muốn bảo vệ tự do thì phải có một số bảo đảm kinh tế nào đó, vì nhiều
người sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi rủi ro không quá lớn. Nhưng không
có gì khủng khiếp hơn là cái mốt ca ngợi sự an toàn với cái giá phải trả
là tự do. Điều quan trọng là chúng ta phải học lại để nhận chân sự thật
rằng tự do có giá của nó và từng cá nhân phải sẵn sàng chấp nhận những
hi sinh to lớn về vật chất để bảo vệ tự do. Chúng ta phải tái khẳng định
lại niềm tin và cũng là cơ sở của tư tưởng tự do trong các nước
Anglo-Saxon, đã được Benjamin Franklin thể hiện trong một câu, có thể áp
dụng cho từng cá nhân cũng như cho các dân tộc, như sau: “Người nào từ
bỏ tự do thực sự để đổi lấy một ít an toàn tạm thời thì không xứng đáng
được tự do, cũng chẳng xứng đáng được an toàn”.
Chương 10- VÌ SAO NHỮNG KẺ XẤU XA NHẤT LẠI LEO CAO NHẤT
Quyền lực dẫn đến tha hóa, quyền lực tuyệt đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối.
Xem xét quan niệm làm chỗ dựa cho những người cho rằng chế độ toàn
trị là tất yếu; nó là quan niệm làm suy sụp sức kháng cự của nhiều người
khác. Quan niệm này cho rằng các đặc điểm kinh tởm nhất của các chế độ
toàn trị xảy ra là do sự ngẫu nhiên của lịch sử, ở đâu cũng đều do những
người đê tiện và lưu manh thiết lập nên. Và nếu, thí dụ, ở Đức những
người như Streicher và Killinger, Ley và Heine, Himler và Heydrich nắm
được quyền lực, thì điều đó chỉ chứng tỏ rằng người Đức là một dân tộc
xấu xa chứ không phải việc nổi lên của những kẻ như thế là kết quả tất
yếu của hệ thống toàn trị. Chả lẽ những người tử tế, những người lo lắng
cho lợi ích của cộng đồng, những người sẽ giải quyết những nhiệm vụ vĩ
đại lại không thể đứng đầu hệ thống toàn trị được ư?
Có đầy đủ lí do để tin rằng những đặc điểm xấu xa nhất của các hệ
thống toàn trị hiện nay không phải là sản phẩm phụ ngẫu nhiên mà là
những hiện tượng mà chế độ toàn trị trước sau gì cũng sẽ tạo ra. Khi một
chính khách dân chủ quyết định lập kế hoạch cho toàn bộ các hoạt động
kinh tế thì chẳng mấy chốc ông ta sẽ phải đối mặt với một trong hai lựa
chọn: chấp nhận chế độ độc tài hay từ bỏ các dự định của mình, còn nhà
lãnh đạo toàn trị thì phải giẫm lên đạo đức truyền thống nếu không muốn
thất bại. Đấy là lí do vì sao trong các xã hội có khuynh hướng toàn trị
những kẻ vô liêm sỉ thường dễ thành công hơn. Không hiểu điều đó là
không hiểu được khoảng cách mênh mông, có thể nói một trời một vực, giữa
chế độ toàn trị và chế độ tự do, không hiểu điều đó là không hiểu được
rằng đạo đức tập thể không thể đội trời chung với những giá trị nền tảng
của chủ nghĩa cá nhân của nền văn minh phương Tây.
Vị lãnh tụ tối cao là người duy nhất có quyền đặt ra mục tiêu cho nên
các trợ thủ trong tay ông ta không được có quan điểm đạo đức riêng của
mình. Yêu cầu quan trọng nhất đối với người cán bộ là lòng trung thành
tuyệt đối đối với cá nhân lãnh tụ, kèm theo lòng trung thành là tính vô
nguyên tắc và sẵn sàng làm bất cứ việc gì. Cán bộ không được có lí tưởng
thầm kín của riêng mình hoặc quan điểm riêng về thiện ác, có thể ảnh
hưởng tới các dự định của lãnh tụ. Từ đó có thể thấy rằng các chức vụ
cao khó có sức hấp dẫn đối với những người có quan điểm đạo đức vốn từng
là kim chỉ nam cho hành động trong quá khứ của người Âu châu. Bởi vì,
chẳng có gì có thể đền bù được cho những hành động bất lương mà họ nhất
định phải làm, sẽ không còn cơ hội theo đuổi những ước mơ lí tưởng hơn,
chẳng có gì có thể đền bù được những mạo hiểm không thể nào tránh khỏi,
chẳng có gì có thể đền bù được những niềm vui của cuộc sống riêng tư và
sự độc lập của cá nhân mà chức vụ lãnh đạo cao nhất định phải làm. Chỉ
có một khát khao, đấy là khát khao quyền lực theo nghĩa đen của từ này
và cái khoái cảm được người khác phục tùng và được là một phần của một
cỗ máy quyền lực khổng lồ không ai có thể cản trở được, là có thể được
thỏa mãn theo cách đó mà thôi.
Chương 11- SỰ CÁO CHUNG CỦA CHÂN LÝ
Muốn cho mọi người cùng phục vụ một hệ thống các mục tiêu duy nhất,
được kế hoạch của xã hội trù liệu, thì cách tốt nhất là buộc tất cả cùng
phải tin tưởng vào các mục tiêu đó. Chỉ dùng các biện pháp cưỡng bách
thì bộ máy toàn trị chưa thể hoạt động hữu hiệu được. Điều quan trọng là
làm sao mọi người cùng coi các mục tiêu đó là của chính mình. Mặc dù
những quan điểm như thế được lựa chọn và áp đặt từ bên ngoài, nhưng
chúng phải trở thành niềm tin của quần chúng, phải trở thành tín điều
của tất cả mọi người, sao cho các cá nhân có thể hành động một cách tự
phát mà vẫn theo đúng ý của người lập kế hoạch. Và nếu trong các nước
toàn trị người dân không cảm thấy họ bị áp bức như là những người sống
trong các nước tự do tưởng tượng thì chủ yếu là vì chính phủ các nước
này đã khá thành công trong việc buộc người dân suy nghĩ theo hướng
chính quyền muốn.
Có thể làm được điều đó bằng những hình thức tuyên truyền khác nhau,
kĩ thuật này đã phổ biến rộng rãi, chẳng cần nói thêm ở đây làm gì. Tuy
nhiên cần phải nhấn mạnh rằng công tác tuyên truyền cũng như kĩ thuật
tuyên truyền không phải là những đặc điểm riêng biệt của chủ nghĩa toàn
trị, Điều duy nhất, đặc trưng cho chính sách tuyên truyền trong chế độ
toàn trị là tất cả bộ máy tuyên truyền đều hướng đến cùng một mục tiêu
và tất cả các công cụ đều được phối hợp nhằm tạo ảnh hưởng đối với các
cá nhân theo cùng một hướng và tạo ra một đặc thù trong đầu óc mọi thần
dân, Kết quả là, hiệu ứng mà nó tạo ra khác hẳn không chỉ về lượng mà
còn khác về chất so với hiệu ứng tuyên truyền cho những mục tiêu khác
nhau do nhiều chủ thể độc lập và cạnh tranh với nhau tiến hành. Khi tất
cả các phương tiện thông tin đều bị một bộ máy duy nhất kiểm soát thì
vấn đề không còn là gieo rắc quan điểm này hay quan điểm kia nữa, Khi đó
một tuyên truyền viên khéo léo có thể nhào nặn tâm trí quần chúng theo
bất kì hưởng nào mà anh ta chọn, ngay cả những người thông minh và có tư
duy độc lập cũng không thể hoàn toàn tránh được ảnh hưởng của bộ máy
tuyên truyền, nhất là nếu họ lại bị cách li với các nguồn thông tin khác
trong một thời gian dài.
Nhu cầu thiết lập các giáo điều chính thống như là công cụ định hướng
và tập hợp các cố gắng của tất cả mọi người đã được nhiều lí thuyết gia
của hệ thống toàn trị đặt ra…. Chúng chỉ là những quan niệm cá biệt dựa
trên các sự kiện mà sau đó được trau chuốt thành các lí thuyết khoa học
nhằm biện minh cho các định kiến có sẵn mà thôi. Các lí thuyết giả khoa
học trở thành một phần của hệ tư tưởng chính thống, là kim chỉ nam cho
hành động của nhiều người, xuất hiện như thế đấy.
Ước muốn áp đặt lên dân chúng một tín điều được coi là bổ ích đối với
họ dĩ nhiên không phải là điều mới lạ hay đặc biệt mà chỉ thời chúng ta
mới có. Cái mới là lí lẽ mà các nhà trí thức của chúng ta dùng để biện
hộ cho nó. Họ bảo rằng không làm gì có tự do tư tưởng trong xã hội hiện
nay, vì rằng ý kiến và thị hiếu của dân chúng được định hình bởi tuyên
truyền, sẽ định hướng tư duy của dân chúng vào những lối mòn có sẵn. Từ
đó họ rút ra kết luận rằng nếu ý kiến và thị hiếu của đa phần dân chúng
được nhào nặn bởi hoàn cảnh mà ta có thể kiểm soát được thì ta phải sử
dụng cái quyền lực này một cách chủ động để lái tư duy của dân chúng vào
hướng có lợi nhất.
Có lẽ đúng là phần lớn dân chúng không có khả năng tư duy độc lập,
đúng là người ta sẵn sàng chấp nhận các quan điểm có sẵn về hàng loạt
vấn đề và người ta cảm thấy hài lòng với những đức tin hình thành từ
thời thơ ấu hay được lôi kéo vào. Trong mọi xã hội, tự do tư tưởng chỉ
có ý nghĩa quan trọng đối với một thiểu số không đáng kể. Nhưng điều đó
không có nghĩa rằng một người nào đó có quyền quyết định rằng ai mới là
người được phép tự do tư tưởng. Cũng không có nghĩa là một nhóm người
nào đó được quyền tuyên bố rằng người dân phải nghĩ thế này hay phải tin
thế kia. Sẽ là sai lầm khi cho rằng hệ thống nào thì đa số dân chúng
cũng đi theo sự lãnh đạo của một người nào đó, cho nên nếu tất cả mọi
người cùng đi theo sự lãnh đạo của một người thì cũng thế mà thôi. Phủ
nhận quyền tự do tư tưởng vì không phải ai cũng có khả năng tư duy độc
lập như nhau là hoàn toàn bỏ qua những lí lẽ biện minh cho tự do tư
tưởng. Tự do tư tưởng là động cơ chủ yếu thúc đẩy sự tiến bộ về mặt tri
thức không phải là vì ai cũng có thể nói hay viết bất kì cái gì mà là
bất cứ lí do hay tư tưởng nào cũng có thể được đem ra thảo luận. Khi bất
đồng quan điểm không bị đàn áp thì bao giờ cũng có người tỏ ra nghi ngờ
những tư tưởng dẫn đạo đương thời và đưa ra những tư tưởng mới cho mọi
người thảo luận và tuyên truyền.
Quá trình tương tác giữa các cá nhân có những hiểu biết và đứng trên
các quan điểm khác nhau tạo ra đời sống tinh thần. Sự phát triển của lí
tính là tiến trình xã hội đặt căn bản trên sự khác biệt như thế. Bản
chất của vấn đề là ta không thể tiên đoán được kết quả, ta không thể
biết quan điểm nào sẽ thúc đẩy sự phát triển còn quan điểm nào thì
không, nói tóm lại, không có quan điểm nào hiện nay lại có thể định
hướng được sự phát triển mà đồng thời lại không ngăn chặn chính sự phát
triển đó. “Lập kế hoạch” hay “tổ chức” sự phát triển của tâm trí cũng
như sự phát triển nói chung là vô nghĩa, là mâu thuẫn ngay trong thuật
ngữ. Ý tưởng cho rằng tâm trí của con người phải “tự giác” kiểm soát sự
phát triển của chính nó xuất phát từ nhận thức sai lầm về lí tính của
con người; sự thực là, chỉ có lí tính mới có thể “chủ động kiểm soát”
được cái gì đó khác và sự phát triển của lí tính là kết quả của quá
trình tương tác giữa các cá nhân với nhau, cố tình kiểm soát nó là chúng
ta đã đặt giới hạn cho sự phát triển của nó và không chóng thì chầy sẽ
dẫn đến sự trì trệ về tư tưởng và sự suy thoái của lí trí.
Bi kịch của tư tưởng tập thể là ở chỗ nó bắt đầu bằng việc coi lí
tính là tối thượng nhưng lại kết thúc bằng việc tiêu diệt lí tính vì đã
hiểu sai tiến trình đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển của lí trí.
Có thể nói rằng đấy chính là nghịch lí của tất cả các học thuyết theo
đường lối tập thể và yêu cầu kiểm soát một cách “tự giác” hay “chủ động”
lập kế hoạch nhất định sẽ dẫn đến nhu cầu phải có một trí tuệ tối cao
điều khiển tất cả, trong khi cách tiếp cận của chủ nghĩa cá nhân cho
phép chúng ta nhận chân rằng các lực lượng siêu-cá-nhân mới là lực lượng
dẫn dắt sự phát triển của lí tính. Chủ nghĩa cá nhân chính là thái độ
nhún nhường trước các tiến trình xã hội và thái độ khoan dung đối với
những ý kiến khác biệt, trái ngược hẳn với thói tự phụ nằm sẵn trong cội nguồn của yêu cầu lãnh đạo toàn diện.
(Còn tiếp)