Cội nguồn đích thực của từ Việt Cộng (Brett Reilly)
Năm 1938, Phan Bội Châu
tuyên bố trên tờ Tràng An Báo: “Những người lợi dụng chủ nghĩa xã hội
nhằm chia rẽ đất nước, phá hoại sự thống nhất và tiêu diệt tinh thần
quốc gia của dân tộc của nhân dân ta”. Đáp lại, tướng Võ Nguyên Giáp và
Tổng Bí thư Trương Chinh tuyên bố trên tờ Notre Voix rằng Phan Bội Châu
là tên phản bội.
Trái
ngược với một số tài liệu lịch sử, thuật ngữ “Việt Cộng”, tương tự như
chính cuộc chiến tranh, không phải là sản phẩm phụ của sự hiện diện của
người Mỹ ở Việt Nam.
“Ai thắng và ai thua trong cuộc tấn công vào các thành phố trong Tết
Mậu Thân?”, tháng 2 năm 1968, Walter Cronkite hỏi khán giả của mình như
thế. “Việt Cộng không giành được chiến thắng bằng một cú knock-out,
nhưng chúng ta cũng không làm được như thế. Các quan tòa của lịch sử có
thể cho là hòa”.
Hôm nay, kỷ niệm 50 năm Tết Mậu Thân, người ta vẫn chưa thống nhất
được với nhau. Thậm chí các quan tòa của lịch sử cũng chưa nắm được bản
chất của quân nổi dậy “Việt Cộng” đã. Thay vào đó, hầu hết vẫn bị kẹt
trong quan điểm cạnh tranh với nhau: trường phái Chính thống và trường
phái Xét lại. Những lời thích giải mâu thuẫn nhau của họ về thuật ngữ
“Việt Cộng” từng là biểu hiện của cuộc chiến tranh cãi hơn hơn về ý
nghĩa của cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, nhưng cũng là phương tiện
để vượt qua cuộc tranh luận đã đi vào ngõ cụt này.
Chiến tranh đối với lịch sử Việt Nam
Trường phái Chính thống tương đối quen thuộc với những người đã qua
khóa học đại học về chiến tranh hoặc đọc những người từng đoạt giải
Pulitzer như Fire in the Lake của Frances FitzGerald hoặc A Bright Shining Lie
của Neil Sheehan. Trong những năm sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân, các
học giả chống chiến tranh tin rằng họ có thể dùng lịch sử để phản đối
điều mà họ coi là cuộc chiến sai lầm nếu không nói là vô đạo đức. Phe
Chính thống nói rằng, tướng William Westmoreland không chiến đấu với
Việt Cộng, mà đây là cuộc diễu hành của lịch sử: cuộc kháng chiến của
Việt Nam nhằm chống lại ách chiếm đóng của người nước ngoài và chủ nghĩa
dân tộc của người nông dân thể hiện trong con người Hồ Chí Minh. Bắc
Việt Nam hay các nhà lãnh đạo cộng sản của họ không được trình bày một
cách nổi bật trong các bài tường thuật đó, tham vọng của họ bị nhiều
người Việt Nam khác phản đối thì cũng thế.
Cùng với thời gian, xuất hiện phái Xét lại. Phái này sử dụng cách
hiểu khác về lịch sử Việt Nam, nhằm biện hộ cho nỗ lực chiến tranh của
Mỹ. Đối với nhiều người theo phái Xét lại, cuộc chiến tranh của Mỹ là sự
nghiệp cao quý cao quý và chắc chắn sẽ chiến thắng, nếu William
Westmoreland có năng lực hay báo chí Sài Gòn không can thiệp vào.
Tương tự như cuộc chiến tranh nói chung, nguồn gốc của từ “Việt Cộng” đã bị từng mỗi trường phái làm cho méo mó đi. Từ cuốn A Bright Shining Lie của Neil Sheehan đến cuốn American Reckoning
được xuất bản trong thời gian gần đây của Christian Appy, thuật ngữ
“Việt Cộng” được miêu tả như là kết quả của sự lừa dối và kiêu ngạo của
người Mỹ, quyết định những tính chất dẫn tới cuộc tấn công Tết Mậu Thân.
Các tác giả này nói với độc giả rằng “Việt Cộng” - có nghĩa là “Cộng
sản Việt Nam” – thuật ngữ có tính miệt thị, do các viên chức của Cơ quan
Thông tin Hoa Kỳ đặt ra. Các học giả trường phái Chính thống cho rằng,
bằng cách gán cho tất cả những người nổi dậy có tinh thần dân tộc chủ
nghĩa danh hiệu cộng sản, Washington đã phạm sai lầm là biến cuộc xung
đột của chủ nghĩa thực dân có tính khu vực thành chiến trường của Chiến
tranh Lạnh. Còn những người theo phái xét lại thì cho rằng Việt Cộng là
một thuật ngữ thích hợp để minh hoạ cho việc Nga, Trung Quốc và Bắc Việt
Nam lãnh đạo cuộc nổi dậy.
Việt Cộng và nguồn gốc Trung Quốc của cuộc nội chiến kéo dài ở Việt Nam
Nguồn gốc của từ Việt Cộng, cũng như cuộc chiến Việt Nam không nằm
trong đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, mà có xuất xứ từ những năm 1920 và 1930.
Cội nguồn thực sự của nó cho ta bức tranh về cách thức người Việt Nam
đã quốc tế hóa và khởi động của nội chiến của mình rất lâu trước khi
quân đội Mỹ đặt chân tới đất nước này.
Để tránh nhà nước thực dân Pháp, các nhà các mạng Việt Nam thường
chạy tới miền Nam Trung Quốc. Đến cuối những năm 1920, cả những người
cộng sản lẫn những người dân tộc chủ nghĩa Việt Nam đều tìm nơi nương
tựa và huấn luyện quân sự trong nước Cộng hòa Dân quốc của Tôn Trung Sơn
và Học viện Quân sự Hoàng Phố nổi tiếng. Hồ Chí Minh mới từ Liên Xô về,
khá gần gũi với các nhà lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng, như Vũ Hồng
Khanh. Trong một thời gian ngắn, các nhóm người Việt này hợp tác với
nhau, và trong giai đoạn này, các đồng minh về ý thức hệ của họ là Đảng
cộng sản Trung Quốc hợp tác với Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch.
Người Việt Nam tiếp cận được với các bản dịch chữ Hán lý thuyết chính
trị châu Âu và tiếp thu những tư tưởng mới từ lân bang của mình. Thấm
đẫm tinh thần dân tộc trong những năm 1920, các nhà cách mạng Việt Nam
còn học được khái niệm “Hán gian”, ám chỉ “kẻ phản bội “Hán tộc”. Họ
cũng học được khái niệm “Trung cộng” mà mọi người lúc đó sử dụng để chỉ
“cộng sản Trung Quốc”.
Cuối thập niên 1920, quan hệ hữu hảo mong manh giữa Cộng sản và Quốc
dân đảng bùng phát thành nội chiến. Những người đồng chí Việt Nam của họ
chuyển sang theo phe tương ứng với mình, do đó, đã khơi mào cho cuộc
nội chiến với quy mô nhỏ giữa những người Cộng sản theo đường lối
Stalinist và Quốc dân đảng Việt Nam kéo dài suốt những năm 1930.
Những phe phái người Việt đối địch nhau chiến đấu nhằm giành ảnh
hưởng ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc, mỗi bên đều tiến hành theo dõi
lẫn nhau và thỉnh thoảng lại ám sát những kẻ mà họ nghi là người phía
bên kia trà trộn vào. Ngay cả nhà cách mạng lão thành Phan Bội Châu –
hiện được coi là người anh hùng, chỉ đứng sau Hồ Chí Minh – cũng đứng về
phe Quốc dân đảng trong cuộc nội chiến này. Năm 1938, Phan Bội Châu
tuyên bố trên tờ Tràng An Báo: “Những người lợi dụng chủ nghĩa xã hội
nhằm chia rẽ đất nước, phá hoại sự thống nhất và tiêu diệt tinh thần
quốc gia của dân tộc của nhân dân ta”. Đáp lại, tướng Võ Nguyên Giáp và
Tổng Bí thư Trương Chinh tuyên bố trên tờ Notre Voix rằng Phan Bội Châu
là tên phản bội.
Trận chiến Quốc-Cộng không chỉ diễn ra gay gắt trên các cột báo, mà
còn diễn ra bên trong hệ thống nhà tù thuộc địa. Một bản sao cương lĩnh
12 điểm, năm 1935, của Quốc dân đảng, mà người ta tìm được trong nhà tù ở
Hà Nội, liệt kê hai mục đích đầu tiên của đảng là nâng cao nhận thức về
dân tộc Việt Nam và xoá bỏ chủ nghĩa cộng sản. Ở nhà tù Côn Đảo, cuộc
xung đột căng thẳng về ý thức hệ này đã dẫn đến những trận đánh nhau
chết người. Trần Huy Liệu, một nhà lãnh đạo miền Bắc trong tương lai,
hồi tưởng: “Gió biển mát lạnh ở Côn Đảo không thể xua tan được bầu không
khí căm hờn bao quanh hòn đảo này”.
Năm 1945: Nội chiến ở Việt Nam tái xuất hiện
Cách mạng Việt Nam bùng lên vào tháng 8 năm 1945, nhưng những căng
thẳng này vẫn còn. Nhà nước cách mạng Việt Minh của Hồ Chí Minh từng có
nội các thống nhất với những thành phần Stalinist của Đảng Cộng sản và
các lãnh tụ Quốc dân đảng, như Vũ Hồng Khanh. Nhưng chỉ mấy tháng sau,
hợp tác giữa hai đảng này chấm dứt. Các hai bên đều áp dụng lại thuật
ngữ Trung Quốc “Hán gian” cho các đối tượng “Việt gian” (phản bội dân
tộc Việt Nam) và quay lại với cuộc nội chiến đẫm máu, khá lâu trước khi
nổ ra cuộc Chiến tranh của Pháp ở Đông Dương vào năm 1946. Các đơn vị
trung thành với Võ Nguyên Giáp và các nhóm Cộng sản trong Việt Minh tấn
công các đơn vị liên kết với các đảng có tinh thần dân tộc, buộc họ phải
chạy sang Trung Quốc.
Khi chiến tranh giữa nhà nước Việt Minh của Hồ Chí Minh và Pháp nổ ra
vào cuối năm đó, những nhóm dân tộc chủ nghĩa lưu vong thề sẽ đàm phán
với Pháp. Liên kết dưới sự lãnh đạo của cựu hoàng Bảo Đại – trước khi bỏ
trốn, ông này từng là có vấn cho chính phủ Việt Minh – họ tuyên thệ sẽ
cộng tác với Pháp để giành độc lập từng bước một, bằng biện pháp hòa
bình và hợp tác.
Điều kiện hợp tác của họ bao gồm chính phủ Việt Nam không có ban lãnh
đạo Stalinist đã chiếm được quyền kiểm soát nhà nước Việt Minh. Trong
khi tiến hành các cuộc đàm phán kéo dài với Pháp, những tổ chức có tinh
thần quốc gia này ngày càng tỏ ra lo lắng về cuộc Nội chiến ở Trung
Quốc. Lực lượng cộng sản của Mao Trạch Đông đã tiến gần đến biên giới
Việt Nam và sẽ giúp đỡ nhà nước Việt Minh. Các đảng có tinh thần quốc
gia đã sử dụng lại thuật ngữ “Hán gian” mà họ học được trong những năm
1920 và dịch theo nghĩa đen “Trung cộng” thành tiếng Việt – “Trung” có
nghĩa là “Trung Quốc” và “Cộng” có nghĩa là cộng sản. Vào những năm
1940, độc giả Việt Nam đã quen với thuật ngữ này.
Đến năm 1948, những tờ báo có tinh thần dân tộc chủ nghĩa như tờ
Tiếng Gọi bắt đầu nói về một thuật ngữ mới: Việt Cộng. Tiếng Gọi cảnh
báo: “Nếu quân đội Việt Cộng có thể bắt tay với Trung Cộng ở biên giới
Trung-Việt, thì cái gì ngăn cản được quá trình cộng sản hóa Việt Nam?”
Bằng cách đó, các đảng quốc gia liên kết Cộng sản Trung Quốc (Trung
Cộng) với các đối tác Việt Nam của họ là Việt Cộng. Nếu thuật ngữ này
ban đầu có nghĩa xấu, thì nó chỉ xấu trong trường hợp liên kết người
Việt Nam với Trung Quốc mà thôi. Đến lượt mình, những người dân tộc chủ
nghĩa được gọi là “Việt Quốc” - nghĩa đen là “những người theo chủ nghĩa
dân tộc Việt Nam”.
Nhà nước phi cộng sản đối địch
Năm sau, cựu hoàng Bảo Đại và các đảng phái có tinh thần dân tộc chủ
nghĩa khác đã đồng ý thành lập Quốc gia Việt Nam phi Cộng sản nằm trong
liên hiệp Pháp. Trong giai đoạn sau của cuộc chiến tranh của Pháp ở Đông
Dương, Quốc gia Việt Nam đã kiểm soát gần một nửa dân số và các trung
tâm đô thị từ Hà Nội tới Sài Gòn. Số người Việt Nam chết vì nhà nước này
nhiều hơn số người Pháp chết vì đế chế của họ. Khi những người
Stalinist giành được quyền lãnh đạo Việt Minh và bắt đầu chuyển nó thành
nhà nước độc đảng, thực hiện cải cách ruộng đất theo đường lối của Mao
Trạch Đông, Quốc gia Việt Nam ngày càng sử dụng thường xuyên từ “Việt
Cộng” trong các thông tin chính thức để tố cáo ban lãnh đạo cộng sản của
Việt Minh .
Hiệp định Geneva, năm 1954, chia đôi nước Việt Nam - miền Nam nằm
dưới quyền Quốc gia Việt Nam, rồi đổi tên thành Việt Nam Cộng hoà hoặc
miền Nam Việt Nam, còn miền Bắc nằm dưới quyền cai trị của chính phủ
Việt Minh hay Bắc Việt Nam. Cuối những năm 1950, các thành viên của Việt
Minh và Cộng sản bắt đầu nổi dậy ở miền Nam và Bắc Việt Nam quyết định
ủng hộ và lãnh đạo cuộc nổi dậy ở miền Nam. Nam Việt Nam, dưới sự lãnh
đạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm, tố cáo những người nổi dậy là “Việt
Cộng”. Chẳng bao lâu sau, các lực lượng đặc biệt và nhà báo Hoa Kỳ đã
tới Sàigòn, và đã sử dụng thuật ngữ này để nói về các lực lượng nổi dậy
trong các khu vực nông thôn miền Nam và những người ủng hộ họ ở miền
Bắc.
Brett Reilly là nghiên cứu sinh ở University of Wisconsin-Madison, chuyên về lịch sử Đông Nam Á và Chiến tranh Lạnh toàn cầu.
Phạm Nguyên Trường dịch (Dân Luận)