Đọc lại bài “Suy nghĩ về Huyền thoại Hồ Chí Minh“ của nhà nghiên cứu Lữ Phương để liên hệ với hôm nay (Dân Luận)
Bài học quan trọng nhất của Hồ
Chí Minh để lại là sự lựa chọn của ông về ý thức hệ cho đất nước. Sự lựa
chọn chính trị của ông cho đất nước là sự lựa chọn bất toàn. Ông có ý
định tốt đẹp muốn đưa nhân dân đến thiên đàng nhưng sự lựa chọn bất toàn
đó của ông lại dẫn nhân dân xuống địa ngục. Vì thế không thể để ai cột
chặt vận mệnh của đất nước vào sự lựa chọn bất toàn như thế. Bài học này
không những để cho những người đang xưng tụng ông suy ngẫm mà còn đáng
để cho cả những người đang chống ông cùng suy ngẫm. Họ chống ông nhưng
rồi họ có lặp lại sai lầm như ông không./.
Lời giới thiệu: Ngày 15/7/2017 vừa qua, Blog Hiệu
Minh đăng bài “Nhị sư Bảo Châu“ có viết: Năm ngoái vào dịp kỷ niệm ngày
sinh cụ Hồ, một số người trương cao khẩu hiệu Cụ Hồ sống mãi trong sự
nghiệp của chúng ta, còn nhà Nobel Toán học, Viện sĩ Viện hàn lâm khoa
học Pháp là Ngô Bảo Châu thì viết “Có quý mến ai thì mong cho họ thoát
khỏi vòng luân hồi, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta“,
Học viện an ninh nhân dân (C500) cho là GS Châu đã xúc phạm cụ Hồ nên đã
chửi rủa ông với mọi lời bẩn thỉu. Thực ra cụ Hồ đã có Di chúc để lại
dặn hỏa táng Cụ, để Cụ đi gặp cụ Mác và cụ Lê chứ Cụ không để lại lời
hứa nào sẽ mãi mãi đi theo sự nghiệp của chúng ta. Vì vậy, tôi tìm và
giới thiệu bài viết của ông Lữ Phương đăng cách đây khoảng 10 năm, để dư
luận liên hệ, so sánh và phán xét việc C500 vu cáo và chửi rủa GS Châu
như thế có công bằng không.
Giới thiệu tóm tắt về tác giả:
Lữ Phương sinh năm 1938 tại tỉnh Hà Nam Ninh, theo gia đình vào
Saigon, định cư từ năm 1945. Năm 1960, ông tốt nghiệp Trường Đại học
Saigon, sau đó làm việc cho Tạp chí Tin Văn Saigon. Năm 1968 Lữ Phương
tham gia Mặt trận giải phóng miền nam Việt Nam, vào Chiến khu R, gia
nhập Đảng cộng sản lúc đó đã đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam, rồi
giữ chức Thứ trưởng Bộ Văn hoá thông tin của Chính phủ lâm thời cách
mạng miền nam Việt Nam. Sau năm 1975, Chính phủ lâm thời cách mạng miền
nam Việt Nam giải tán, Lữ Phương nghỉ hưu. Ông tiếp tục nghiên cứu triết
học và chính trị, kể cả Chủ nghĩa Mác - Lenin.
Từ năm 2007, Lữ Phương đã công bố những kết quả nghiên cứu của ông, trong đó có các tác phẩm:
1 - Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh (đăng trên Talawas)
2 - Suy nghĩ về Huyền thoại Hồ Chí Minh (đăng trên Việt Nam thư quán) ,
3 - Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội,
4 - Chủ nghĩa Mác - xít và chủ nghĩa xã hội hiện thực,
5 - Về “ Một bóng ma của Marx “.
Dưới đây là bài “ Suy nghĩ về Huyền thoại Hồ Chí Minh “ của tác giả Lữ Phương:
* * *
Hồ Chí Minh là một nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc
tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20. Ông lập ra Đảng cộng sản Việt
Nam, tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các thế lực thực dân hiện
đại, hoàn thành độc lập thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế
độ mà ông gọi là chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam.
Trên thế giới và trong nước đã có khá nhiều ý kiến nhận định, đánh
giá sự nghiệp của ông với nhiều quan điểm khác nhau. Riêng ở quốc gia
cộng sản Việt Nam, từ một nhân vật lịch sử, ông đã bị biến thành một
nhân vật huyền thoại, để gây tác dụng rất huyền hoặc trong dân chúng.
Những người nghiên cứu về Việt Nam cho rằng hiện tượng huyễn hoặc này sinh ra từ 3 nguồn gốc:
1 - Tự ông Hồ cố ý tạo ra để lôi kéo dân chúng,
2 - Đảng cộng sản đã dầy công biến ông thành một “biểu tượng thờ phụng của chế độ“,
3 - Một số người Việt hy vọng vào ông như một người cứu độ, giúp họ
thực hiện những mong mỏi từ ngàn đời của đất nước và của bản thân.
Huyền thoại Hồ Chí Minh đã cho đã cho Đảng cộng sản Việt Nam uy tín
hầu như quyết định để chiến thắng trong thời chiến giành độc lập nhưng
đã thất bại hoàn toàn trong xây dựng thời hòa bình. Vì thế, huyền thoại
Hồ Chí Minh đã dần dần tan vỡ trong lòng nhân dân và cả trong Đảng nên
chúng ta cần có một cái nhìn công bằng về ông, một nhân vật lịch sử
trong thế kỷ đã qua.
Vẽ Rồng chỉ thấy đầu không thấy đuôi:
Trong một thời gian dài, ông Hồ thường xuyên hoạt động bí mật nên lý
lịch của ông cũng là điều bí mật. Sau cách mạng 1945, nhiều người chưa
biết ông là ai. Nhiều đoạn đời của ông đã bị các nhà viết tiểu sử cho
ông để trống, chẳng hạn sau vụ thất bại Xô Việt Nghệ Tĩnh 1930 ông đi
đâu không ai biết, cho đến năm 1941 mới xuất hiện và về nước. Về phần
ông thì ông lại không chịu viết hồi ký, không chính thức công bố lý lịch
đầy đủ của mình. Nếu viết thì ông không ký tên thật. Trong “Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch“ với bút danh Trần Dân Tiên, ông
chỉ tự giới thiệu là một người cách mạng nay đây mai đó, không có cuộc
sống riêng tư. Người ta cho rằng ông cố ý tạo ra hình ảnh bí hiểm như
vậy.
Trong một cuốn sách nhỏ, ông Hồ đã khen cái tài vẽ Rồng của một họa
sĩ Trung Hoa. Ông khen cái tài đó là làm cho người xem chỉ thấy đầu
rồng, chứ không thấy rõ đuôi rồng vì đã vẽ đuôi bị mây che khuất. Rồi
ông đã dùng thủ thuật đó để tự họa mình. Với khuôn mặt xương xương, dáng
người gầy, 50 tuổi đã để râu dài, ông đã tự tạo ra một cốt cách thanh
thoát mờ ảo, xuất thế hơn so với một số lãnh tụ cộng sản Châu Á khác,
chẳng hạn so với Mao Trạch Đông. Do vậy, hình ảnh của ông trước công
chúng chẳng những là một lãnh tụ cộng sản mà còn là một nhà hiền triết
Phương Đông. Không chỉ có vậy, trong thời kháng chiến chống Pháp, bộ máy
tuyên truyền của Việt Minh đã tôn ông lên là “ Cha già dân tộc “. Ông
dùng hình ảnh này tự đề cao mình. Chính ông đã viết trong “ Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch “ rằng “Nhân dân gọi Hồ Chủ tịch
là Cha già dân tộc, vì Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ
Quốc Việt Nam“. Về sau, có lẽ thấy tự xưng Cha của dân tộc là quá lố,
ông không nhắc lại nữa. Trong tiếng Việt, từ ngữ “Bác“ dùng để chỉ anh
của cha mình. Ban đầu, ông dùng để xưng hô với các cháu thiếu nhi nhưng
rồi ông cũng vui vẻ chấp nhận để mọi người, kể cả gười cao tuổi gọi ông
là Bác. Ông không chấp nhận ai xưng hô với ông bằng “đồng chí“. Tôi (Lữ
Phương) được nghe kể lại là ông Trần Văn Giàu và nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng đã có lần gọi ông bằng “đồng chí“ bị ông chỉnh rất nghiêm khắc.
Suốt 7 năm chiến khu R, cứ đến ngày 19 tháng 5 tôi lại được nghe giảng
về tấm gương giản dị, cần kiệm, thân dân của ông, lo cho dân từ tương cà
mắm muối và những câu chuyện kể về ông, đại loại như sau:
- Bác Hồ đi dép râu thì ai cũng biết. Nhưng có chuyện đặc biệt là
đôi dép của Bác đã mòn. Cậu bảo vệ đề nghị Bác thay đôi mới nhưng Bác
không chịu. Nài nỉ không được, cậu bèn lén lấy đôi dép mòn đi đổi lấy
đôi dép râu khác tốt hơn. Khi phát hiện ra Bác nhất quyết bắt cậu ta đi
lấy lại đôi dép cũ.
- Cứ mỗi lần đến đến Tết Nguyên Đán, Bác Hồ lại gọi điện thoại cho
Chủ tịch thành phố Hà Nội Trần Duy Hưng hỏi xem đã lo đủ lá giong cho
dân gói bánh chưng chưa. Bác còn làm nhiều việc lặt vặt, tủn mủn khác
như thế nữa và để người ta tha hồ dùng nhạc, dùng thơ ca ngợi đức tính
như vậy của cụ Chủ tịch nước họ Hồ.
Cứ như thế, từ một anh hùng giải phóng dân tộc, ông trở thành ông
tiên trong truyện thiếu nhi và trở thành hình tượng người đi cứu độ
chúng sinh. Năm 1975, ngay giữa bùng binh Saigon, tấp nập người qua lại,
người ta còn lập bàn thờ của ông với khói hương luôn luôn nghi ngút.
Thần thánh hóa cả cuộc sống riêng tư
Người ta ai cũng có thể có một cuộc sống bình thường, có gia đình, vợ
con, do đó chuyện tình ái, vợ con của ông được dư luận rất quan tâm,
nhưng sách báo của Đảng cộng sản Việt Nam lại né tránh không nói đến.
Người ta cố ý tạo ra một tấm gương thanh cao khác với dưới trần thế: Bác
Hồ đã cả một đời vì nước vì non thì màng chi đến vợ con là cái hệ lụy
nhân gian ấy! Nhưng người ta đã làm một việc không đúng: có lần chính
ông đã cho rằng sai lầm lớn nhất đời ông là không lấy vợ. Trong cuộc
sống thực, đã có nhiều chuyện kể rằng ông đã có nhiều nhân tình trên
đường ông đã đi qua: từ Pháp, đến Nga, đến Trung Quốc.
Bà Kim Hạnh khi là Tổng biên tập báo Tuổi trẻ, chỉ vì đăng tin ở
trang nhất, lộ ra bài thơ của ông (mang bí danh Lý Thụy khoảng năm 1925
khi từ Liên Xô sang Trung Quốc) gửi người vợ Tầu mà bị đuổi khỏi làng
báo. Một nhà nghiên cứu người Mỹ, sau khi Liên Xô sụp đổ, tìm trong hồ
sơ mật của Đệ tam quốc tế lưu trữ tại Moskva đã phát hiện ra tài liệu
ghi lại rằng khi đi dự một Đại hội quốc tế cộng sản ở Nga, ông Hồ khai đã
có vợ và người đó là Nguyễn Thị Minh Khai. Chuyện tình của ông ở trong
nước lại còn mang những tình tiết bi thảm.
Từ lâu, ở Hà Nội đã có dư luận
về chuyện ông ăn ở với cô Xuân, do Trần Quốc Hoàn lúc đó là Bộ trưởng
công an đưa đến phục vụ ông. Cô Xuân đã có một con trai với ông, được Vũ
Kỳ là thư ký riêng của ông đem về nuôi, đặt tên là Trung, nay vẫn còn
sống. Sau này Hoàn cho người giết cô Xuân để không còn nhân chứng về
chuyện ông Hồ có vợ. Tại Đại hội 9 của ĐCS vào tháng 4/2001, nhiều hãng
thông tấn Phương Tây nói đến chuyện năm 1941, khi từ Trung Quốc về nước,
ông đã có con với một nữ cần vụ người dân tộc thiểu số, nay có tên là
Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư ĐCS. Có người hỏi Mạnh về việc này thì Mạnh
trả lời bâng quơ “cả nước ta ai cũng là con cháu bác Hồ".
Thực hư ra
sao, đến nay chưa được chứng minh nhưng đã để lại nhiều dư luận trong xã
hội. Đáng lẽ không đáng có những dư luận như vậy. Các lãnh tụ cộng sản
cũng là con người, có tình ái, có vợ con, Đó là bình thường. Nhưng Đảng
không muốn như vậy, Đảng phải tô vẽ hình ảnh của ông Hồ trở thành phi
thường, lý tưởng, tạo ra thần tượng cho guồng máy của Đảng. Đảng cần
thay cái bình thường bằng những sự tích của thần thánh, để giáo dục đảng
viên: Anh muốn có đảng tính cao thì anh phải biết tuân phục cái guồng
máy lý tưởng của Đảng, phải cố gắng làm tròn vai kịch mà Đảng đã xếp vai
cho anh. Càng tạo ra được nhiều truyền thuyết phi thường thì lá cờ Đảng
càng thắm màu đỏ máu, sự nghiệp của Đảng càng huy hoàng, không gì thay
thế được, anh sẽ được Đảng ban cho nhiều đặc quyền đặc lợi. Không biết
ông có cảm thấy những bất ổn cho chính ông, do chót giao vở kịch cho cái
đám âm binh đội lốt cách mạng của ông thủ vai hay không, khi ông bị
mang tiếng thất đức trong cuộc cải cách ruộng đất miền bắc năm 1953 -
1956, rồi dần dần bị cô lập cùng với tướng Giáp, chỉ còn lại vai trò một
ngọn cờ tượng trưng, với một bài thơ Xuân để lại năm 1968 “Xuân này
hơn hẳn mấy Xuân qua “. Ông qua đời ngày mồng 2 tháng 9 nhưng đệ tử của
ông lại không cho ông chết vào ngày đó mà bắt ông phải qua đời chính
thức vào ngày hôm sau mồng 3 tháng 9. Họ cũng không cho ông được hỏa
táng theo Di chúc để đi tìm cụ Mác, cụ Lê mà còn đem ông trưng bày cho
thiên hạ ngắm nhìn.
Sự lựa chọn chính trị của ông Hồ có thể coi là cẩm nang để chuyển giao cho các thế hệ sau không?
Đảng cộng sản Việt Nam thần thánh hóa con người của ông Hồ Chí Minh
chỉ nhằm mục đích thần thánh hóa sự lựa chọn chính trị của ông cho Đảng
và nhằm khẳng định một điều rằng: Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng
chính trị duy nhất thực hiện được cái tất yếu của lịch sử, vì thế quyền
lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc sẽ là vĩnh viễn và tuyệt đối.
Có thật như vậy không?
Hãy xem lại từ việc ông Hồ ra đi tìm đường cứu nước (viết trong chương 1 cuốn Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh) .
Hồ Chí Minh lúc đó là Nguyễn Tất Thành chỉ là một trong rất nhiều
những thanh niên yêu nước vào lúc bấy giờ. Từ đó mà cho rằng vì yêu nước
mà ngay từ đầu Tất Thành đã có ý định ra nước ngoài để tìm giải pháp
cứu nước thì không hẳn là tất yếu. D. Hemery, một người Pháp nghiên cứu
về Việt Nam đã tìm ra được một tờ đơn của Tất Thành đề ngày 15/9/1911 từ
thành phố Marseille, ký tên là Paul Tất Thành gửi cho Chính phủ Pháp
xin vào học trường Ecole Coloniale là loại trường đào tạo công chức cho
các thuộc địa của Pháp, nhưng đã bị từ chối. Paul Tất Thành còn nhiều
lần gửi thư về nước, nhờ quan Khâm sứ Trung Kỳ hỏi tin tức và chuyển
tiền cho cha. Những bằng chứng này xác nhận một điều hiển nhiên rằng:
tại lúc bỏ nước ra đi, Nguyễn Tất Thành chưa hẳn đã có ý định đi để tìm
đường cứu nước, để qua đó lý tưởng hóa cuộc đời của ông ngay từ khi còn
trẻ tuổi. Ý định tìm đường cứu nước có thể đã đến với Tất Thành, nhưng
là đến sau khi những dự định khác đã thất bại (chẳng hạn sau khi bị từ
chối vào học trường đào tạo công chức thuộc địa). Lập luận rằng sau khi
bôn ba khắp nơi để nghiên cứu, ông Hồ thấy Chủ nghĩa Mác – Lênin là
tuyệt vời và chọn lựa cũng rất ít thuyết phục. Không có bằng chứng rằng
ông Hồ đã tiếp thu được những tinh hoa của nhân loại để đến với chủ
nghĩa Marx. Ông không giống với những lãnh tụ Châu Á khác như Gandhi,
Tôn Dật Tiên đã được chuyển giao kiến thức từ các trường đại học. Ông
trở lại nước Pháp khá lâu (6 năm, từ 1917 đến 1923) nhưng hầu như ông
chỉ làm những công việc thực hành, như quan hệ tiếp xúc, vận động, viết
báo … Ông chỉ đọc những loại sách phổ thông, không có chiều sâu về tư
duy để có thể nghiêm chỉnh tiếp thu chủ nghĩa Marx. Dẫn lại vài đoạn ông
đã kể về Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp năm 1920 để chứng minh điều
này:
- Người ta thảo luận rất sôi nổi, người ta nhắc đi nhắc lại nào
là chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghĩa xã hội, cách
mạng, không tưởng, khoa học, nào là Saint Simon, Fourrier, Marx, chủ
nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cải lương, sản xuất, luận đề, giải phóng,
chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cộng sản, khách quan, chủ quan…
Nguyễn Ái Quốc (tức Tất Thành và sau này là Hồ Chí Minh) chăm chú
lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm. Rồi Đại hội biểu quyết gia nhập Đệ
tam quốc tế (Cộng sản) hay ở lại Đệ nhị quốc tế (Xã hội) . Có điều lạ,
tuy không hiểu rõ lắm nhưng lúc biểu quyết thì Nguyễn bỏ phiếu gia nhập
Đệ tam Quốc tế.
- Rô - dơ nữ thư ký của Đại hội rất ngạc nhiên hỏi Nguyễn: Đồng
chí Nguyễn. Bây giờ thì đồng chí đã hiểu tại sao ở Paris chúng tôi đã
bàn cãi nhiều như thế rồi chứ?
- Nguyễn: Không, chưa thật hiểu đâu.
- Rô - dơ: Thế tại sao đồng chí bỏ phiếu cho Đệ tam quốc tế?
- Nguyễn: Rất đơn giản. Tôi không hiểu thế nào là chiến lược,
chiến thuật vô sản và nhiều điều khác nữa. Nhưng tôi hiểu rõ một điều là
Đệ tam quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa. Đệ tam quốc
tế nói sẽ giúp các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập. Còn Đệ
nhị quốc tế thì không hề nhắc đến vận mạng của các thuộc địa. Vì vậy tôi
bỏ phiếu tán thành Đệ tam quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi. Độc lập cho
Tổ quốc tôi. Đấy là những điều tôi muốn. Đấy là tất cả những điều tôi
hiểu. Đồng chí đồng ý với tôi chứ.
- Rô - dơ cười và nói: Đồng chí đã tiến bộ.
Từ những đoạn do chính ông Hồ kể lại, cho chúng ta được biết mấy điều
quan trong liên quan đến vận mệnh tương lai của đất nước chúng ta:
- Nguyễn Ái Quốc (sau là Hồ Chí Minh) chưa biết gì về Chủ nghĩa Marx với tư cách là một học thuyết triết học – chính trị.
Ông còn chưa hiểu rõ những khái niệm rất tầm thường có khuynh hướng
thiên tả như đấu tranh giai cấp là gì, bóc lột, sản xuất là thế nào, nói
gì đến những tự biện của Marx về tha hóa, giá trị thặng dư, sứ mệnh
giải phóng của giai cấp vô sản.
- Nguyễn cũng chỉ biết hời hợt về Chủ nghĩa Lê nin, ngoại trừ đọc
bài: ” Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương của Lênin về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa “ đăng trên báo L' Humanité tháng 7/1920 trước khi họp
Đại hội Tours.
- Ông đã chọn lựa con đường đi theo Lênin chỉ vì thông qua Đệ tam
quốc tế, Lê nin hứa giúp các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc
lập. Sự lựa chon của ông do vậy là hoàn toàn cảm tính, vội vàng và phiến
diện, không phải là thái độ nghiêm chỉnh về sự lựa chọn chính trị.
Trong những thời gian hoạt động về sau này, ông có được tiếp cận thêm về
lý thuyết cách mạng nhưng vẫn đi theo con đường đã chọn. Ông đến Liên
Xô sau khi Lê nin đã qua đời. Chủ nghĩa Mác - Lê nin đã bị Stalin hóa.
Về thực chất, Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô là chủ nghĩa tư bản nhà nước,
còn chủ nghĩa vô sản quốc tế đã trở thành chiếc bình phong để bảo vệ
Liên Xô và bảo vệ sự bành trướng của chủ nghĩa dân tộc Xô Viết. Thể chế
chính trị ở Liên Xô là sự nối dài của chế độ phong kiến, độc tài. Nó
từng là vũ khí hiệu nghiệm để cướp chính quyền ở nước Nga lạc hậu nhưng
lại bất lực trong phát triển. Vì thế sự lựa chọn chính trị của ông
Hồ là sự lựa chọn bất toàn, không thể coi là sự lựa chọn tuyệt đối đúng
để chuyển giao cho các thế hệ sau phải trung thành đi theo. Người
ta có câu hỏi: nếu các thế hệ sau từ chối không tiếp nhận sự chuyển giao
cái cẩm nang ấy thì Hồ Chí Minh còn đi theo họ làm gì?
Áp dụng sự lựa chọn của ông, Việt Nam đã giành được độc lập cho dân
tộc với các hình thức đấu tranh bạo lực, thắng trong chiến tranh nhưng đã thất bại
toàn diện trong quá trình xây dựng trong hòa bình từ hơn một nửa thế kỷ
nay. Sự lựa chọn của ông rõ ràng không phải là cái cẩm nang thần kỳ chỉ
đường cho nhân dân ta đến được thiên đàng hạ giới như những bức tranh
đẹp lộng lẫy, do những nhà ảo thuật tuyên giáo cộng sản vẽ ra, càng
không thể dựa vào đó để nói bừa là con đường do nhân dân ta đã tự chọn.
Bình tâm suy nghĩ, chúng ta có thể nhận ra nguyên nhân dẫn đến sự lựa
chọn bất toàn của ông Hồ đã được quy định bởi chính cái tạng văn hóa của
ông:
- Ông là người rất ưa thực tế, không thích lý luận. Được thúc đẩy
bởi vấn đề bức xúc của đất nước là độc lập dân tộc, ông cảm thấy lời hứa
hẹn của Đệ tam quốc tế là rõ rệt và triệt để, khác với các thế lực khác
như Mỹ, Nhật nên ông chấp nhận. Chủ nghĩa Lê nin lúc đó thu hút ông chủ
yếu vì nó đồng nghĩa với giải phóng dân tộc, ngoài ra ông không suy
nghĩ thêm điều gì tiềm ẩn xâu xa ở chủ nghĩa này. Sau này, khi làm Chủ
tịch nước VNDCCH, cách lãnh đạo của ông, kể từ nói năng đến hành động
cũng luôn luôn cố tránh những vấn đề phải lập luận, đụng đến các học
thuyết trìu tượng.
- Ông cũng là người giàu tình cảm. Đọc bài báo của Lê nin nói về vấn
đề thuộc địa, ông cho biết đã khóc lên vì sung sướng và tin ngay lời
hứa của Lê nin. Sau này được biết thêm chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn sẽ
chấm dứt những khốn khổ của người lao động bị áp bức ông càng tin chủ
nghĩa Mác - Lê nin hơn. Tuy vậy, ở ông Hồ, khát vọng độc lập cho dân tộc
được gắn với mong mỏi đấu tranh cho một xã hội công bằng, nhân đạo mà
ông đã chịu ảnh hưởng ở nước Pháp nên đầu óc thực tế của ông không trở
thành đầu óc thực dụng tầm thường. Ông chọn theo Lê nin còn vì nhu cầu
có một người thầy tinh thần kiểu Phương Đông.
Tất cả những thuộc tính nói trên ở ông đã quy định sự lựa chọn của
ông với tất cả ưu điểm và nhược điểm của sự lựa chọn đó. Những người ca
tụng ông chỉ nói đến những cái ưu trong sự lựa chọn đó mà không nói đến
những cái nhược của ông:
+ Cái Trí của ông đã không đi theo kịp cái Tâm của ông,
+ Ông chưa có tinh thần tự phản tỉnh để can đảm nhìn lại toàn diện con đường mà ông đã chọn và đi theo.
Trong thời gian hoạt động bí mật, phải sống trong Dân, cần được Dân
che chở thì cái ưu của ông đã phát huy hiệu quả và cái nhược chưa có dịp
bộc lộ. Tính chất trong sạch lý tưởng, hy sinh cho nghĩa lớn của ông và
những học trò lớp đầu tiên của ông là có thật. Nhờ đó mà Đảng do ông
lập ra đã được đại đa số nông dân ủng hộ, góp sinh mạng và tài sản cho
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đó là nguyên nhân chủ yếu đưa đến
chiến thắng những đế quốc hùng mạnh đã đến thống trị ở Việt Nam, không
chỉ là những nguyên nhân về thủ đoạn và chiến thuật. So sánh một cách
công bằng, vì nguyên nhân đó, Đảng do ông lập ra đã vượt trội so với
những lực lượng chính trị yêu nước khác cùng hoạt động trong cùng thời
kỳ đó.
Nhưng trong thời kỳ xây dựng trong hòa bình thì cái nhược đã bộc lộ
ra ngày càng rõ rệt: Đấu tố, cải cách ruộng đất đi kèm chỉnh đốn tổ chức
đã phá hoại tận nền tảng đạo lý của dân tộc. Hợp tác hóa, phản bội nông
dân về ruộng đất. Chỉnh huấn cán bộ, bơm màu đen vào cơ thể Đảng. Đàn
áp yêu cầu tự do ngôn luận của giới trí thức văn nghệ sĩ. Khoác lác về
cái dân chủ xã hội chủ nghĩa nhưng đối xử với dân tệ hơn cả cường hào
ngày trước. Nhà nước hóa toàn bộ hoạt động kinh tế của đất nước làm
triệt tiêu hoàn toàn động lực phát triển kinh tế và đẻ ra tham nhũng
trong bộ máy nhà nước đến mức bó tay vì đánh tham nhũng là đánh vào
Đảng. Những sai lầm này có nguyên nhân nằm ngay trong sự lựa chọn chính
trị của ông Hồ. Đó là ông đã vội vàng hợp nhất hai vấn đề hoàn toàn khác
nhau về bản chất là giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội. Cái ý thức
hệ mácxit - lêninit mà ông Hồ đem ghép vào chủ nghĩa dân tộc của ông đã
bộc lộ hết tính không tưởng và bất lực của nó. Buộc thực tế phải uốn
theo cái ông đã chọn cho Việt Nam, cả ông và Đảng cộng sản của ông đã
biến sự lựa chọn đó thành vật cản đường đối với sự phát triển tự nhiên
của đất nước.
Thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
Sau khi xảy ra sự tự sụp đổ ở các nước XHCN Đông Âu (1989) và ở Liên
Xô (1991) thì mô hình Lêninit dùng cho các nước nghèo nàn lạc hậu tiến
tới thiên đàng đã tỏ ra hoàn toàn thất bại. Đảng cộng sản của ông Hồ
buộc phải điều chỉnh đường đi, chuyển nền kinh tế bao cấp, mệnh lệnh
sang kinh tế thị trường, mở cửa làm ăn với thế giới tư bản. Trong tình
hình đó, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời để thích ứng. Đây là sự
ứng phó tình thế chứ không phải là sáng kiến hay ho gì. Khi còn sống,
ông Hồ từng tự nhận là ông không có tư tưởng gì. Ông nói nếu có một
người Châu Á xứng đáng nhận là nhà tư tưởng thì không phải là ông mà là
Mao Trạch Đông, vì thế trong Điều lệ ĐLĐVN ở Đại hội 2 đã ghi Chủ nghĩa
Mác Lênin và Tư tưởng Mao Trạch Đông là nền tảng tư tưởng của Đảng. Gọi
là Tư tưởng Hồ Chí Minh, gán cho ông cái mà ông không có và không muốn
nhận, rõ ràng không phải là thượng sách. Nó chẳng làm cho Chủ nghĩa Mác -
Lênin phát triển hay được bổ sung. Nó chỉ đánh dấu một bước lùi về ý
thức hệ đi cùng với bước lùi về đường lối kinh tế của Đảng cộng sản,
mang ý nghĩa thực dụng, bỏ bớt những giáo điều đã bị thời gian chứng
minh là không tưởng và bất lực mà ai cũng đã biết, như xóa bỏ tư hữu,
công hữu hóa tư liệu sản xuất, đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản …
có sẵn trong Chủ nghĩa Lênin mà ông Hồ đã đem về Việt Nam. Thay vào đó
là nhấn mạnh đến lòng yêu nước, truyền thống dân tộc, độc lập tự chủ,
nhân ái, hòa hợp …là những khẩu hiệu của chủ nghĩa dân tộc. Nhưng đây
chỉ là thủ đoạn thao tác.
Trước đây ông Hồ hợp nhất chủ nghĩa Lênin với
chủ nghĩa dân tộc thì nay Đảng tách ra, đưa chủ nghĩa dân tộc lên trước,
chủ nghĩa Lênin vẩn còn đó nhưng xếp ở phía sau. Còn theo chủ nghĩa
Lênin tức là Việt Nam vẫn phải đi tới chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu
của chủ nghĩa cộng sản. Vậy thì Đảng không thể từ bỏ ngón nghề của
Stalin và Mao Trạch Đông từng làm là chuyên chế khắc nghiệt, xảo quyệt,
giả dối với dân. Vì thế, Đảng hô hào học tập tư tưởng Hồ Chí Minh thực
chất là dùng ông Hồ Chí Minh làm cái bung xung chứ tuyệt nhiên không
phải thực lòng. Nếu Đảng thực lòng thì phải thay đổi triệt để phương
thức lãnh đạo của Đảng, từ bỏ hẳn đường lối nửa vời, từ bỏ hẳn chuyên
chính vô sản, thay đổi thể chế, thực hiện dân chủ cho tương xứng với
chính sách mở cửa và kinh tế thị trường. Chỉ có làm như thế mới khắc
phục được những những ruỗng nát nội tại trong Đảng và trong xã hội, thúc
đẩy đất nước phát triển nhanh chóng.
Một Hồ Chí Minh đích thực là một người Việt Nam yêu nước nhưng đồng
thời là một người Việt Nam yêu nước kiểu Lênin. Ông đã có công lãnh đạo,
đem lại sự tự chủ và thống nhất cho đất nước nhưng ông cũng có tội đã
du nhập vào đất nước một học thuyết ngoại lai là chủ nghĩa Mác - Lênin
để tác hại của nó còn kéo dài đến tận ngày nay chưa gỡ bỏ được.
Mặc dầu trong những năm 1945 - 1948, Hồ Chí Minh đã nói đến Tự do,
Dân chủ nhưng nếu vẫn đi theo chủ nghĩa Lênin thì Hồ Chí Minh không thể
là ngọn cờ dân chủ. Vì sao? Quả thật, Hồ Chí Minh có nói nhiều đến dân
chủ nhưng quan niệm về dân chủ của ông rất xa lạ với nội dung dân chủ
của thời hiện đại, đặc biệt xa lạ với tính chất giao ước trần tục của sự
phân chia và kiểm soát quyền lực, căn cứ vào đó để tổ chức và quản lý
đời sống công cộng. Ông không biết đến tính chất độc lập của xã hội công
dân đối với nhà nước. Ông cũng không hiểu tính chất quyết định làm nên
nhà nước hiện đại là nhà nước phi thiên mệnh, là nhà nước sinh ra từ
pháp luật và tồn tại bằng pháp luật. Quan điểm của ông Hồ về mối tương
quan giữa nhà nước và nhân dân vẫn là quan điểm của Nho giáo. Cái loại
nhân dân mà ông Hồ yêu mến vẫn chỉ là loại xích tử cần được ông dạy dỗ
về Luật Trời và phép nước.
Đồng thời ông phải lo cho họ cả về những cái
vặt như tương cà mắm muối chứ không để họ được tự do và khuyến khích họ
sáng tạo. Quan điểm của ông về nhà nước vẫn là thứ nhà nước của những
người hiền, của những minh quân như Vua Nghiêu, Vua Thuấn ở nước Trung
Hoa cổ đại. Ông có nói đến Pháp chế xã hội chủ nghĩa và nói cán bộ là
đầy tớ của dân cũng là nói theo quan điểm ấy. Chúng chỉ là những ý định
tốt ban phát từ đấng bề trên. Ông Hồ chọn chủ nghĩa Lênin nhưng ông lại
không biết vì sao ban đầu Lênin là một nhà dân chủ, hiểu học thuyết của
Marx nhưng rồi Lênin lại làm ngược lại tất cả những gì mà Marx đã hình
dung về xã hội tương lai và cuối cùng Lênin thừa nhận rằng ông ta đã làm
theo gương một ông Vua Nga độc tài của thế kỷ 18 là Pierre Đại Đế.
Ông
Hồ chọn chủ nghĩa Lênin còn vì ông cho rằng hành động độc tài của Lênin
là trách nhiệm tự nhiên như những minh quân thời trước, nay được thay
đổi với khái niệm chuyên chính vô sản của Đảng cộng sản và đó là nền
chuyên chế nhân đức và cách mạng từ trên ban xuống. Thần dân muốn được
giải phóng, muốn có quyền lực thì phải hết lòng theo Đảng cộng sản vì
Đảng là đại biểu cho quyền lợi lâu dài của họ. Đảng được phép làm mọi
việc để tạo dựng cuộc đời mới cho họ. Đó là sự chuyên chính của Đảng,
của cách mạng. Vì vậy, phải tập trung quyền lực cho Đảng tuyệt đối, vĩnh
viễn, không thể chia sẻ quyền lực với ai, không nhân nhượng với ai về
chân lý. Kẻ nào có ý định đi ngược lại thì đó là lý lẽ của bọn thù địch,
phải thẳng tay trừng trị.
Với quan niệm sắt thép về quyền lực như vậy,
Lênin đã mở đường cho Stalin vắt cạn kiệt sức lực của người dân Nga,
nhằm nhanh chóng công nghiệp hóa nước Nga, còn Hồ Chí Minh thì cùng với
Đảng của ông dùng chuyên chính như thế để tích tụ được những hy sinh vô
bờ bến của người dân nhằm chiến thắng trong cuộc chiến tranh chống thực
dân, giành độc lập thống nhất cho dân tộc. Nhưng còn về dân chủ và bao
nhiêu lời hứa khác như bình đẳng, tự do, hạnh phúc … mà Đảng cộng sản đã
hứa đem lại cho nhân dân thì tất cả vẫn chỉ là lời hứa, thậm chí còn tệ
hơn là đã biến thành những lời dối trá trắng trợn. Chuyên chính vô sản
đã trở thành chuyên chính với chính giai cấp vô sản và chuyên chính với
nhân dân, Lênin đã mơ hồ nhận ra những hiện tượng suy đồi này vào cuối
đời của ông, còn ở Hồ Chí Minh thì mọi việc đều như đã êm xuôi như ván
đã đóng thuyền, kéo dài đến tận hôm nay.
Người anh hùng đã để lại cho chúng ta bài học gì?
Đã trải qua ba phần tư thế kỷ, kể từ ngày Hồ Chí Minh giành được quyền lực tối cao, trở thành Chủ tịch nước VNDCCH.
Cùng với những biến chuyển lớn trên thế giới và đất nước, hình ảnh Hồ
Chí Minh đối với đất nước đã không còn sáng ngời như khi mới giành được
độc lập. Tính chất lý tưởng, cao cả, tuyệt vời mà Đảng cộng sản cố sức
tô vẽ cho một Hồ Chí Minh thần thánh đã không chống đỡ nổi những lầm lỗi
và những sự việc tầm thường của một Hồ Chí Minh thực tế. Đảng càng thần
thánh hóa ông bao nhiêu thì càng gây phản tác dụng bấy nhiêu. Vì vậy,
thỏa đáng hơn cả là nên nhìn ông với những gì ông có một cách hiện thực,
không phóng đại, không tô vẽ thêm, cũng không thêm bớt và cũng không
nên đồng hóa tên ông với toàn bộ chế độ này.
Thế giới đã có kinh nghiệm:
Tuy rằng Karl Marx có liên quan đến cái thực thể gọi là chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô nhưng đổ mọi sai lầm của Liên Xô cho Karl Marx là không
thỏa đáng. Đánh giá mối quan hệ giữa Lênin và Stalin cũng nên như vậy. Ở
trường hợp Hồ Chí Minh, đừng quên hình ảnh của ông đã từng bị chế độ
này tô vẽ bằng mọi cách để huyễn hoặc dân chúng. Và cũng không nên bỏ
qua điều tạo nên đặc trưng của Hồ Chí Minh là vai trò của ông trong lịch
sử chống ngoại xâm, trong một giai đoạn lịch sử rất đặc biệt của thế kỷ
20, một thế kỷ đầy đổ vỡ, hy vọng và ảo tưởng. Đó là một giai đoạn mà
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc không tách khỏi việc lựa chọn ý
thức hệ, hoặc bên này, hoặc bên kia. Thái độ nhìn nhận như thế thích hợp
để có những tiếp cận khách quan về lịch sử. Trong thế kỷ thứ 20, thế
giới biết đến Việt Nam chủ yếu vẫn là do Việt Nam dưới sự tổ chức và
lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã đánh bại các thế lực xâm lược, giành lại
được độc lập dân tộc. Đối với nhiều người Việt Nam, điều ấy là một trong
những lý do để được tự coi là đáng sống.
Nhìn tổng quát thì Hồ Chí Minh là một anh hùng của dân tộc Việt Nam
trong thời kỳ chống các thế lực thực dân. Ông là một nhân vật lịch sử.
Nhưng đất nước là chuyện của muôn đời. Bài học quan trọng nhất của Hồ
Chí Minh để lại là sự lựa chọn của ông về ý thức hệ cho đất nước. Sự lựa
chọn chính trị của ông cho đất nước là sự lựa chọn bất toàn. Ông có ý
định tốt đẹp muốn đưa nhân dân đến thiên đàng nhưng sự lựa chọn bất toàn
đó của ông lại dẫn nhân dân xuống địa ngục. Vì thế không thể để ai cột
chặt vận mệnh của đất nước vào sự lựa chọn bất toàn như thế. Bài học này
không những để cho những người đang xưng tụng ông suy ngẫm mà còn đáng
để cho cả những người đang chống ông cùng suy ngẫm. Họ chống ông nhưng
rồi họ có lặp lại sai lầm như ông không./.
Lữ Phương