Nợ, trả nợ và khủng hoảng (TS Vũ Quang Việt-TBKTSG)
Như vậy, cộng cả nợ chính phủ và nợ DNNN sau khi trừ đi phần Chính phủ
bảo lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỉ đô la Mỹ, bằng 210%
GDP.
LTS:
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật Quản lý nợ công.
Trên cơ sở đó, TBKTSG xin giới thiệu bài viết của TS. Vũ Quang Việt như
một góp ý cho dự thảo này.
Nợ công của Việt Nam là vấn đề tranh cãi từ lâu. Nợ của Chính phủ và
của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chủ yếu dựa vào tín dụng ngân hàng và
phát hành trái phiếu. Cả hai loại nợ này có lẽ cho đến nay ít dựa vào
đánh giá khả năng trả nợ mà dựa vào kế hoạch chỉ tiêu (hay lệnh) của cơ
quan chủ quản. Nợ chính phủ đòi hỏi tăng thuế để trả nợ. Nợ doanh nghiệp
đòi hỏi doanh nghiệp phải giảm đầu tư vì áp lực trả nợ. Cả hai đều kìm
hãm tăng trưởng trong nền kinh tế.
Một minh chứng điển hình là vấn đề nợ của Nhật Bản trong vài chục năm
qua đã làm kinh tế Nhật tiếp tục trì trệ. Nếu không thế, phát hành tiền
và tăng tín dụng để tài trợ sẽ gây lạm phát.
Sau một thời gian kìm hãm, nợ công ở Việt Nam có vẻ tăng mạnh, nhất là trong năm 2015 (xem bảng 3, dựa vào số liệu chính thức).
Thông tin trình bày ở dưới bao gồm nợ của Chính phủ (bao gồm cả nợ
doanh nghiệp do Chính phủ bảo lãnh) - mà Bộ Tài chính gọi là nợ công và
nợ của DNNN. Số liệu tới năm 2015 dựa vào các nguồn chính thức. Số liệu
năm 2016 chủ yếu dựa vào ước tính của tác giả.
Khu vực công (public sector) theo định nghĩa của Hệ thống Tài khoản
quốc gia của Liên hiệp quốc 2008 bao gồm cả Chính phủ và DNNN nên có thể
coi nợ công là tổng của nợ chính phủ và nợ của DNNN. Thông tin này là
cần thiết, dù Việt Nam vẫn chỉ chú ý đến nợ chính phủ (được gọi là nợ
công), nhưng nếu DNNN nào phá sản thì việc trả nợ là do Chính phủ chịu
trách nhiệm, dù Chính phủ tuyên bố không có trách nhiệm và nếu giả thiết
cho phá sản, đất và tài sản công sẽ bị tịch biên và thuộc về chủ nợ. Vì
thế khi phân tích về nợ công, không thể bỏ qua nợ của DNNN. Dù không
đồng ý về định nghĩa, cách tốt nhất là Bộ Tài chính nên công bố cả nợ
của DNNN vào Bản tin nợ công để các nhà phân tích tùy nghi sử dụng.
Số liệu tin cậy được cho thấy nợ chính phủ năm 2015 là 115 tỉ đô la Mỹ,
bằng 59,5% GDP và ước tính nợ chính phủ năm 2016 lên tới ít nhất 131 tỉ
đô la Mỹ, bằng 63,9% GDP. Nợ chính phủ tăng quá nhanh, ở mức gần 35%
năm 2015.
Nợ của DNNN ở đây cho thấy toàn cảnh khoảng 3.200 doanh nghiệp với số
nợ theo điều tra của TCTK năm 2014 là 4,9 triệu tỉ đồng (231 tỉ đô la
Mỹ), gấp nhiều lần con số 1,5 triệu tỉ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ
cho một số tập đoàn và công ty lớn. Ước tính thêm cho thấy năm 2016, nợ
của DNNN là 324 tỉ đô la Mỹ, bằng 158% GDP.
Như vậy, cộng cả nợ chính phủ và nợ DNNN sau khi trừ đi phần Chính phủ
bảo lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỉ đô la Mỹ, bằng 210%
GDP.
Với tỷ lệ nợ lớn như trên, khó lòng nền kinh tế phát triển mạnh. Không
những thế thời gian qua, do tăng tín dụng, tăng nợ, lạm phát cuối năm
2016 đã lên đến 4,7% và có khả năng tăng cao hơn trong năm 2017 (xem
bảng 4). Điều dễ hiểu là tín dụng tăng mạnh. Lạm phát tăng như trên sẽ
đẩy lãi suất lên, có thể tới ít nhất 8%/ năm vào năm 2017, trái ngược
với tình hình lạm phát và lãi suất giảm cho đến cuối năm 2015 và những
tháng đầu năm 2016. Nợ cao, lãi suất cao, khả năng trả nợ sẽ giảm. Kinh
tế khó lòng mà phát triển mạnh, nếu không nói là có thể bị rơi vào khủng
hoảng.
Vấn đề nợ, đặc biệt là nợ chính phủ ngày càng tăng là do chi ngân sách
ngày càng tăng, đưa đến thiếu hụt ngân sách lớn, khoảng 5-6% GDP một
năm. Thông tin trong quá khứ cho thấy thường tỷ lệ chi ngân sách vượt
nghị quyết của Quốc hội 30-40% (xem bài trên TBKTSG số ra ngày
29-10-2015), mà tới hai năm sau mới biết. Như thế, khả năng kiểm soát
chi gần như không có. Cách tốt nhất để kiềm chế trong một vài năm tới là
đóng băng chi, và đóng băng tăng biên chế (dài lâu hay tạm thời), chỉ
cho phép thay thế người về hưu ở vị trí cần thiết. Nếu làm được thế, thu
ngân sách tăng, ít nhất theo tốc độ tăng trưởng kinh tế (6%), thiếu hụt
ngân sách sẽ bị xóa bỏ nhanh chóng. Chỉ có thể kiểm soát chi tiêu nếu
thống kê ngân sách cụ thể, cập nhật và theo đúng chuẩn quốc tế.