Hành trình về dân chủ đa nguyên (Phần 1). (Bùi Quang Vơm-THDCĐN)
Chủ nghĩa đa nguyên thừa nhận
tính bình đẳng của mọi thành tố tạo nên xã hội, cả những
thành phần hình thành từ nhu cầu tự thân, lẫn những cơ cấu
nhân tạo do chính ý tưởng của con người làm ra từ bất cứ nguyên
nhân nào và vì bất cứ một mục đích gì. Mọi thành phần, mọi
sản phẩm có tư cách pháp lý ngang nhau. Cơ chế sàng lọc duy
nhất của xã hội đa nguyên là hệ thống pháp chế. Vì vậy, hệ
thống pháp chế phải đảm bảo thật sự là ý chí của toàn thể
xã hội, được hình thành trên nguyên tắc đồng thuận, phản ánh
quyền và lợi ích của mọi thành phần, bất kể quy mô và đặc
điểm.
Hành trình về dân chủ đa nguyên (Phần 1). (Bùi Quang Vơm-THDCĐN)
Hành trình cuối cùng, hành trình về phía con người
Chủ nghĩa cộng sản thế giới đang
chứng kiến những năm tháng cuối cùng trong cuộc hành trình gian
khổ hàng ngàn năm của xã hội loài người. Lý tưởng cộng sản
đã trở thành một triết lý trống rỗng, đạo đức giả, không che
đậy được ai, không còn sức sống và đang trở thành một thứ trở
lực, ngăn cản chu trình tiến hoá chung của nhân loại.
Ở đâu còn tồn tại chủ chĩa cộng
sản, ở đó có hận thù và chia rẽ. Ở đâu còn tư tưởng cộng
sản thống trị, ở đó xã hội còn bị phân chia thành các giai
cấp đối kháng, mâu thuẫn xã hội, từ những ganh đua dù lành
mạnh và cần thiết, cũng bị đẩy lên thành xung đột giữa các
thế lực đối địch, chỉ giải quyết được bằng công cụ trấn
áp vũ lực, tiêu diệt lẫn nhau.
Ở những quốc gia còn do đảng cộng
sản cầm quyền, dân chúng bị phân chia thành các loại hạng có
những tiêu chuẩn giá trị và quy phạm xã hội khác nhau. Từ sự
phân loại ý thức hệ, xã hội bị phân hoá thành các tầng
lớp theo quy phạm đạo đức và văn hoá khác nhau, có các quyền
lợi được chế độ phân phát khác nhau, chịu tác động và ứng xử
của luật pháp khác nhau, có các cơ hội và quyền khai thác
tài sản chung, tài nguyên quốc gia và thành quả phát triển
khác nhau. Chế độ tồn tại dựa trên căn cứ chia rẽ dân chúng,
đẩy dân chúng thành những lực lượng tự xung đột, kiềm chế lẫn
nhau, buộc phải có nhu cầu dựa vào chế độ, buông quyền điều
hành xã hội cho thế lực cầm quyền và tìm kiếm đặc quyền theo
mức độ thiện cảm của chế độ.
Ở tột đỉnh quyền lực, đảng cộng
sản đồng nhất hoá đảng với nhà nước, lái hướng nguyện vọng
của đông đảo quần chúng theo khuôn khổ ý chí của chế độ, biến
các công cụ quyền lực của Nhà nước thành công cụ chuyên chính
khống chế tự do, trấn áp sáng kiến cá nhân và khác biệt ý
thức hệ, chỉ nhằm bảo vệ chế độ và lợi ích của đảng.
Đó là loại chế độ sinh ra từ tiêu
diệt đối kháng và tồn tại dựa trên nguyên tắc nuôi dưỡng mâu
thuẫn đối kháng. Nếu trong lòng xã hội, những mâu thuẫn nảy
sinh giưã các bộ phận thành phần có thể tự điều tiết, tự
hoà giải thì vai trò của chế độ sẽ mất dần. Phải có mâu
thuẫn đối kháng, phải có lực lượng chống đối để chính danh
hóa lý do chuyên chế và tăng cường các công cụ trấn áp bạo
lực, độc quyền hoá quyền sử dụng quân đội và cảnh sát. Dưới
chế độ cộng sản, ổn định xã hội được duy trì bằng áp lực
cưỡng chế. Đó là thứ ổn định giả, ổn định bề mặt. Chỉ nới
lỏng áp lực cưỡng chế, ổn định đó tự tan vỡ.
Chủ nghĩa cộng sản ra đời từ một
sản phẩm ý thức hệ nhân tạo và phản khoa học, một tư tưởng
hận thù giai cấp vị kỷ, khi trở thành một trào lưu, đã đẩy
nhân loại thành hai nửa đối kháng, nuôi dưỡng hận thù và nguy
cơ chiến tranh huỷ diệt, cuối cùng đang chết dần và sẽ biến
mất như một hiện tượng bất thường của tiến hoá.
Chủ nghĩa cộng sản mà đặc trưng
của nó là chế độ độc đảng cực quyền, cưỡng chế xã hội
thành một thực thể độc nhất, gồm một thành phần duy nhất,
một phương thức tồn tại đồng nhất, một xã hội đơn nguyên, duy
ý chí, trái quy luật vũ trụ. Những cải cách giả hiệu chỉ là
những giải pháp tình thế bắt buộc tìm kiếm tăng trưởng, nhằm
xoa dịu những bức bối nghèo đói, che đậy bản chất phản dân
chủ, đánh lạc hướng dư luận và áp lực xã hội, những tăng
trưởng bề mặt đósẽ nhanh chóng hết đà và bộc lộ những mâu
thẫn không thể khắc phục. Hơn một thế kỷ tồn tại, chủ nghĩa
cộng sản thế giới đánh dấu khúc quanh cuối cùng trong hành
trình tìm kiếm phẩm giá nhân cách của loài người.
Nhân lọai đi về đâu, đang đi về đâu
và cuối cùng sẽ về đâu? Câu hỏi luôn day dứt những con
người lương thiện này, tưởng chừng phức tạp, nhưng thực ra lại
đơn giản.
Bản chất tự nhiên của xã hội loài
người, giống như vạn vật tự nhiên khác, có bản chất đa nguyên.
Xuất phát từ tính đa nguyên của điều kiện sinh tồn, tính đa
nguyên của môi trường sinh thái, vạn vật có cơ hội xuất hiện
và phát triển đồng thời và độc lập lẫn nhau. Đó là một thế
giới đa nguyên.
Cộng đồng loài người, ngay từ buổi
ban đầu sơ khai là một cộng đồng đa nguyên. Con người sinh ra
bình đẳng trước tạo hoá, ngay từ sơ khai, loài người đã bình
đẳng về cơ hội và sở hữu giá trị. Xã hội loài người, trước
khi bị biến dạng do chính những tác động sai lầm, ấu trĩ của
mình, là một xã hội đa nguyên.
Con người sinh ra tự do, bởi con
người không sinh ra từ một mệnh lệnh áp đặt nhân tạo, vì vậy
con người là chủ nhân duy nhất và tuyệt đối cuộc sống và số
phận của mình. Con người có quyền sở hữu tối cao và hoàn
toàn những tài sản tự có của cá nhân như tiếng nói, trí tuệ
và những sản phẩm do chính lao động của mình làm ra, là
chủ nhân tối cao và duy nhất đối với các quyết định, các lựa
chọn của mình. Con người có khả năng và ý chí thích ứng và
hoà hợp với môi trường vì chính sự tồn tại và phát triển
của chính cá nhân mình. Con người chỉ hành động vì lợi ích
của bản thân, nhưng con người cũng tự ý thức và có khả năng
thích ứng hoà hợp lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng.
Mọi cá thể trong cộng đồng xã hội đều theo đuổi truy tìm một
lợi ích cao nhất cho riêng mình. Như vậy, lợi ích cá nhân cao
nhất có thể, trong một cộng đồng xã hội, là lợi ích cao nhất
đạt được mà không vi phạm lợi ích cao nhất có thể của các
cá nhân khác. Đó chính là nguyên tắc đồng thuận đa nguyên. Con
người có bản năng tự vệ và có quyền tự tìm kiếm và lựa
chọn phương thức bảo vệ cuộc sống và lợi ích của chính
mình. Ngay bản thân luật pháp, khi không còn giá trị bảo vệ cá
nhân, luật pháp đó không còn chính danh và không còn hiệu lực,
ít nhất với cá nhân đó.
Xã hội với tư cách là cộng đồng
của những cá thể tự do, tự nhiên và tất nhiên có tính đa
nguyên, bắt buộc phải đa nguyên. Tính đa nguyên phản ánh bản
chất của xã hội.
Lịch sử thế giới từ khi xuất hiện
loài người là lịch sử trưởng thành của chính con người, là
lịch sử phát triển từ những quan hệ sơ khai tới cấu trúc xã
hội, từ một cấu trúc xã hội đơn giản tới một kết cấu xã
hội đa tầng, đa diện. Nhưng từ sơ khai tới hoàn chỉnh, xã hội
là một cấu trúc đa nguyên, khởi thuỷ và kết thúc đa
nguyên. Những mô thức khác chỉ là những biến dạng có tính
trung chuyển, quá độ, dù có thể có những giai đoạn kéo dài
nhiều nghìn năm.
Đó là lịch sử đấu tranh sinh tồn
của chính con người. Động lực và mục tiêu tự thân của lịch sử
nhân loại là sự hoàn thiện chính mình, hoàn thiện những giá
trị và phẩm chất của chính con người.
Cuộc đấu tranh cho chính sự hoàn
thiện của mình là một cuộc vật lộn không ngừng nghỉ chống
lại mọi thế lực chướng ngại, cản trở tiến trình truy tìm lợi
ích và hạnh phúc cá thể trên nền tảng cộng hưởng và giao
thoa sự hài hoà cộng đồng.
Trong những chướng ngại ngăn cản
quá trình tiến hoá tới hoàn thiện của loài người, trước hết
và thường xuyên gắn kết với quá trình tiến hoá hàng triệu năm
của nhân lọai là thế lực thiên nhiên. Nhưng, cùng với sự tiến
hoá, sự trưởng thành đã giúp loài người dần dần làm chủ
thiên nhiên thông qua nhận thức các quy luật địa – vật lý- vũ
trụ. Thiên tai đã từ lâu không còn là một thế lực thần bí và
toàn năng. Con người đã đạt tới trình độ biến sức mạnh của
thiên nhiên thành đồng minh, thành tài sản phục vụ lợi ích của
mình.
Tuy nhiên, chính trong quá trình
trưởng thành dần dần của mình, con người đã tự tạo ra những
trở ngại, khiến lịch sử có lúc như dừng lại, có lúc đi lùi,
ngược chiều, lặp lại quá khứ, tự tiêu diệt những mầm mống
phôi thai của sự hoàn thiện.
Lịch sử đã chứng minh, từ khi hình
thành xã hội, chính sự phát triển trí tuệ khập khiễng, mất
cân đối đã đưa loài người vào các khúc quanh, khiến con đường
tiến hoá trở nên gập ghềnh khúc khuỷu. Sự gian truân đó con
người phái trả giá cho chính mình.
Loài người là sinh vật ở tột đỉnh
của quá trình tiến hoá. Năng lực tự ý thức được việc làm
của mình đã tách con người khỏi thế giới hoang dã. Loài người
nhận thức được chính mình, nhận thức được xung quanh, hiểu
việc mình làm và phát hiện các quy luật vật lý của vũ trụ.
Nhưng chính cái trí khôn trong lúc phát triển mất cân
đối, chưa đầy đủ đã đẩy con người tới việc vi phạm quy luật
của vũ trụ, tự mê hoặc, phá huỷ chính mình.
Nhận thức chân lý là một quá
trình liên tục, không có điểm cuối cùng. Con người, dù có một
năng lực đặc biệt, chỉ tiếp thu được các chân lý tương đối,
chân lý tại từng thời đọan, nó đúng khi chưa trở thành sai,
mặc dù trên thực tế, đang dần trở thành sai. Như vậy, quá
trình tiến hoá tới trưởng thành và hoàn thiện của loài người
là một qúa trình những sai lầm gối đầu nhau liên tiếp. Tuy
nhiên, đó cũng là quá trình tiệm cận chân lý, là quá trình
gối tiếp nhau của sự tự điều chỉnh tiến dần tới hoàn thiện.
Trong lịch sử hơn hai nghìn năm của
dân tộc, con người Việt nam đã phải đi qua bao nhiêu cuộc hành
trình. Từ những cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng, Bà Triệu,
Ngô Quyền tới Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, ba lần kháng chiến
chống quân Nguyên của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, cuộc kháng
chiến bền bỉ mười năm của Lê Lợi chiến thắng quân Minh, chiến
tích tiêu diệt hai mươi vạn quân Thanh tại gò Đống Đa của Quang
Trung Nguyễn Huệ. Đó là những cuộc hành trình đầy xương và
máu, tìm kiếm giành giật tự do, nhân dạng của dân tộc Việt
Nam. Nhưng sau mỗi cuộc đi, thành quả của sự hy sinh xương máu
của người dân lại bị các thế lực cầm quyền tước đoạt. Vinh
quang và phú quý lọt vào tay vua chúa quan lại.Tài nguyên quốc
gia và lao động của số đông chỉ trở thành tài sản của thiểu
số những thế lực đặc quyền. Số phận người dân chỉ thay đổi
từ nô lệ cho nước ngoài thành nô lệ cho chính những đồng bào
của mình.
Cuộc kháng chiến 35 năm, từ 1945
tới 1975, do đảng cộng sản dẫn dắt với danh nghĩa độc lập và
giải phóng dân tộc, ruộng đất về tay dân nghèo, vì mục tiêu tự
do và dân chủ công bằng, khiến gần 6 triệu người chết, hàng
triệu người tàn phế, hàng vạn gia đình tan hoang, thất tán,
hàng trăm nghìn trẻ mồ côi, nhưng cuối cùng, «đất đai do nhà
nước thống nhất quản lý», tự do đi lại, cư trú, tự do báo
chí, tự do ngôn luận, tự do ý kiến, tự do tư tưởng, tự do tôn
giáo tín ngưỡng, tự do chính trị, tự do đoàn thể, tự do hội
họp, mọi thứ tự do đều bị tước đoạt, cấm đoán và hình sự
hoá. Thành quả của cách mạng lại một lần nữa lọt vào tay
một nhóm người cầm quyền, tác oai quyền lực, bòn rút và vơ
vét tài nguyên quốc gia. Một dân tộc khao khát tự do, nhân bản,
giàu can đảm và lòng hy sinh một lần nữa lại bị tập đoàn một
nhóm người lưà gạt.
Nhưng cuộc hành trình lần này là
cuộc hành trình không theo một thứ chủ nghĩa nhân tạo nào, không
chịu sự dẫn dắt của bất cứ ý chí chủ quan nào. Đây là cuộc
hành trình quay trở về nguồn gốc của vạn vật, quay trở về
bản chất của chính mình, rũ bỏ mọi sự biến dạng do ý chí
chủ quan. Ở cuối con đường này là tự do cá nhân và sự phồn
thịnh, là ước nguyện bất biến và bất khả xâm phạm.
Chúng ta đang cùng bước trên con
đường chối bỏ chế độ độc đảng. Sức mạnh của chúng ta không
phải là loại sức mạnh được tạo ra từ sự mê muội do một thiểu
số nhỏ bé những phần tử bệnh hoạn và lạc hậu dẫn dắt. Sức
mạnh của chúng ta đến từ ước nguyện bản năng, đó là tự do
của cá nhân mưu cầu hạnh phúc cho chính mình. Không có loại
hạnh phúc do người khác đem đến bằng cách tước đoạt tự do của
mình. Không có lọai tự do dân chủ do một thiểu số người ban
phát. Không có loại tư tưởng của một người hay một nhóm người
có thể trở thành quy phạm của mọi tiêu chuẩn. Chúng ta là chủ
thể duy nhất quyết định số phận của mình. Chúng ta là chủ
sở hữu tối thượng và bất khả tước đoạt những tài sản do
Thượng đế ban phát đều nhau cho tất cả, là chủ sỡ hữu duy
nhất những sản phẩm được tạo ra từ chính sức lao động của
mình.
Chủ nghĩa cộng sản đã chết. Chế
độ độc đảng cộng sản chỉ còn sống sót ở một vài nơi trên
mặt địa cầu, sớm hay muộn cũng sẽ chết. Xã hội phải quay về
bản chất đa nguyên tự có của nó. Nhưng xã hội loài người là
cộng đồng phức hợp của những sinh vật có trí khôn đã tiến
hoá tới mức có tư tưởng. Chúng ta phải xây dựng những thiết
chế cần có để những quái thai sinh ra từ những tư tưởng bệnh
hoạn không thể một lần nữa quay trở lại.
Cuộc hành trình mà chúng ta đang
dấn bước là hành trình tiến tới thiết lập một chế độ dân
chủ đa nguyên, một chế độ tôn vinh tự do và trách nhiệm cá
nhân, tôn trọng tính đa thể, đa dạng, đa năng, tôn trọng sự tồn
tại tự nhiên bình đẳng của mọi thành tố xã hội, vĩnh viễn
thay thế chế độ đơn nguyên độc đảng.
Chúng ta không chủ trương lật đổ
bất kỳ ai, bất kỳ lực lượng hay hình thái tổ chức chính trị
và xã hội nào đang tồn tại, nhưng chúng ta có quyền chuẩn bị
để tiếp nhận một cách có trách nhiệm sự sắp đặt của lịch
sử.
Trong cuộc đồng hành này, chúng ta
sẽ có cơ hội thảo luận về mô hình tổ chức xã hội, lần lượt
xem xét từng thành phần của hệ thống chính trị trong một thể
chế đa nguyên dân chủ. Với tư cách là những môn đồ của chủ
nghĩa đa nguyên, với chúng ta, mọi tiếng nói từ bất cứ đâu,
bất cứ ai, bất cứ lực lượng nào đều có giá trị và được quý
trọng ngang nhau. Nguyên tắc của chúng ta là không một ý kiến nào bị cấm nêu ra, không một đề tài nào bị cấm bàn đến, không một tư tưởng nào là thống soái.
ĐA NGUYÊN LÀ GÌ?
Đa nguyên, âm hán việt của việc chuyển nghĩa của thuật ngữ pluralisme, bắt nguồn từ chữ latin pluralis có nghĩa là đa, nhiều, ngược lại với nghĩa của từ đơn hay độc.
Tính đa nguyên phản
ánh tính đa dạng của vật thể trong thế giới tự nhiên và trong
xã hội loài người cùng tồn tại độc lập với nhau, có thể có
những đặc tính chung hoặc khác biệt với nhau. Tính đa nguyên là
đặc trưng tự nhiên của thế giới, bắt nguồn từ tính đa dạng
của các điều kiện nảy sinh, tồn tại và phát triển của vạn
vật.
Có đa nguyên sinh thái, có đa nguyên
chủng tộc, có đa nguyên văn hoá, nghệ thuật, đa nguyên tôn gíáo,
đa nguyên chính trị, v.v..
Đa nguyên chủ nghĩa (pluralisme)
là một hệ thống chính trị thừa nhận và chấp nhận các khác
biệt trong các ý kiến và các chủ thể đại diện của những ý
kiến đó. Trong sinh hoạt chính trị, tính đa nguyên biểu
hiện bằng tính đa đảng. Cơ chế đơn đảng, thậm chí lưỡng đảng
là những cơ chế chính trị trong đó hàm lượng ý chí chủ quan
chiếm ưu thế.
Đa nguyên là khuôn khổ tương tác
trong đó các nhóm khác nhau thể hiện đầy đủ sự tôn trọng và
bao dung cùng tồn tại và hoạt động tương tác trong không khí coi
trọng ôn hoà hơn xung đột, không có ý chí triệt tiêu, lọai bỏ
nhau.
Thuật ngữ Đa nguyên chỉ mới được
dùng gần đây. Nhà triết học người Đức Christian Wolff là người
sử dụng thuật ngữ này lần đầu tiên khoảng năm 1720. Mãi tới
năm 1932 nó mới xuất hiện trong các từ điển tiếng Pháp. Khái
niệm hiện đại của thuật ngữ đa nguyên còn nhiều tranh cãi, nhưng
cốt lõi của nó hầu như được thực thể hoá cả trên lý luận
và thực hành trong các quốc gia phát triển nhất, đại diện
nhất của văn minh nhân loại.
Tuy nhiên, ý niệm về đa nguyên đã
có dấu tích trong Hy Lạp cổ đại. Chủ nghĩa đa thần đã cho
phép sự đa dạng các mô thức tồn tại, đa dạng trong nhận thức
thế giới. Sự thống nhất trong đa dạng chính là sự tóm lược ý
niệm của Đa nguyên.
Đa nguyên khác độc nguyên hay đơn nguyên và không phải là nhị nguyên, tức là nhiều hơn nhị nguyên.
Chủ nghĩa đa nguyên với tư cách là triết lý về hình thái cấu trúc xã hội có thể có những đặc điểm sau:
1- Chủ nghĩa đa nguyên chỉ đơn thuần
là phản ánh của thế giới vào nhận thức có khả năng phê phán
của con người. Chủ nghĩa đa nguyên không phải là một phát minh
nhân tạo, không phải là một sản phẩm của tư tưởng có tên tác
giả, nhóm tác giả hoặc có thể truy nguyên nguồn gốc từ con
người. Chủ nghĩa đa nguyên chống lại mọi học thuyết có nguồn
gốc nhân tạo.Tác giả của các quy luật vận động của vạn vật,
trong đó có loài người là thế giới thiên nhiên, là sự chuyển
động của vũ trụ, con người chỉ nhận thức các quy luật và
hành động theo các quy tắc thuận chiều với quy luật. Con người
không sáng tạo ra quy luật thiên nhiên và điều khiển chuyển động
của nó.
2- Chủ nghĩa đa nguyên thừa nhận
tính bình đẳng của mọi thành tố tạo nên xã hội, cả những
thành phần hình thành từ nhu cầu tự thân, lẫn những cơ cấu
nhân tạo do chính ý tưởng của con người làm ra từ bất cứ nguyên
nhân nào và vì bất cứ một mục đích gì. Mọi thành phần, mọi
sản phẩm có tư cách pháp lý ngang nhau. Cơ chế sàng lọc duy
nhất của xã hội đa nguyên là hệ thống pháp chế. Vì vậy, hệ
thống pháp chế phải đảm bảo thật sự là ý chí của toàn thể
xã hội, được hình thành trên nguyên tắc đồng thuận, phản ánh
quyền và lợi ích của mọi thành phần, bất kể quy mô và đặc
điểm.
3- Nguyên tắc bất biến của chủ nghĩa đa nguyên là giải phóng các áp lực tự phát.
Thiên nhiên và xã hội loài người
phát triển tiến hoá theo quy luật tự hoàn thiện, tối ưu hóa
các nhân tố có đặc tính thích ứng cao nhất đối với điều kiện
tồn tại. Những cái có đặc tính thích ứng vượt trội, vừa ra
khỏi chiến thắng những cái lạc hậu, là những cái đang tồn
tại. Nhưng những đặc tính thích ứng đó xuất hiện từ những
điều kiện trong quá khứ, đang thay đổi và luôn thay đổi. Vì
vậy, chính những cái đang tồn tại đang trở thành lạc hậu,
xuất hiện những nhân tố mới có khả năng thích ứng tốt hơn với
những điều kiện môi trường hiện hữu. Mâu thuẫn giữa cái cũ
lạc hậu và cái mới tiên tiến xuất hiện. Áp lực tiến hoá sinh
ra từ trong lòng sự vận động. Đó là một áp lực sinh ra ở
mọi nơi, mọi lĩnh vực, mọi không gian và thường trực vĩnh cửu.
Chủ nghĩa đa nguyên thưà nhận các mâu thẫn và áp lực đó. Chủ
nghĩa đa nguyên không tìm cách cản trở, ngăn chặn các mâu thuẫn
tự thân bằng các biện pháp cưỡng chế nhân tạo, duy ý chí.
Các mâu thuẫn bị ức chế sinh ra xung đột, như một bộ phanh hãm
ma sát, tiêu hao năng lượng của xã hội một cách vô ích. Thiết
chế xã hội phải có cơ cấu của một van súp-páp tự động. Nó
phải tự mở để giải phóng áp lực, hoá giải các xung đột trong
hoà bình.
(còn tiếp)
BÙI QUANG VƠM (THDCĐN)