Người Việt Nam trong Hội Tam Điểm và những khác biệt với Đạo Cao Đài (Nguyễn Ngọc Châu)

Hội Tam Điểm là gì ?
Hội Tam Điểm được khai sanh tại Vương quốc Anh và Ireland từ sự chuyển biến vào thế kỷ XVII ở các nơi tập hợp những người xây dựng nhà thờ để truyền nhau sự hiểu biết, thành nơi người trí thức đến để chia sẻ một nghi thức và cùng nhau tìm cách cải thiện bản thân về mặt đạo đức và tinh thần. Họ lấy Đấng Toàn Năng làm ẩn dụ đã tạo ra Vũ trụ như Kiến trúc sư vĩ đại, và giống như Vua Solomon xây dựng Đền thờ Jerusalem của người Do Thái, họ đặt mục tiêu trở thành kiến trúc sư xây dựng Đền thờ tâm linh riêng của mình trong mình.

Ba đức hạnh thần học của Hội Tam Điểm Anh
Đó không phải là một tổ chức quốc tế duy nhất, mà nhiều tổ chức độc lập gọi là Grande Loge (Grand Lodge bằng tiếng Anh), được gọi bằng tiếng Việt là "Hội Tam Điểm". Mỗi hội gồm nhiều Chi hội gọi là Loge (tiếng Pháp), Lodge (tiếng Anh), và các hội Tam Điểm công nhận giữa họ với nhau là Tam Điểm khi áp dụng cho hội một số giới luật gọi là "Landmarks" để xác định mình thật sự là một Hội Tam Điểm.
Ngoại trừ một số rất ít Hội Tam Điểm, chánh trị và tôn giáo không được đề cập trong sinh hoạt của các Chi hội vì bị cho là yếu tố chia rẽ.
United Grand Lodge of England là Hội Tam Điểm Thông Nhất của Anh thừa kế các Chi hội Tam Điểm đầu tiên trên thế giới được chánh thức thành lập vào năm 1717, tuyên bố trên trang web của mình rằng "[Hội Tam Điểm] bắt nguồn từ truyền thống của những thợ đẽo đá thời trung cổ, những người xây dựng thánh đường và lâu đài" và đối với hội viên Hội Tam Điểm "bốn giá trị quan trọng giúp xác định con đường của họ trong cuộc sống là : Chánh trực (trở thành những con người tốt), Huynh đệ (cùng nhau xây dựng trong tình anh em), Tôn trọng (đề cao đoàn kết) và Từ thiện (phát triển lòng nhân ái)".
Tại Pháp, trong thế kỷ 19, người Tam Điểm sống dưới nền Đệ Tam Cộng Hòa (Troisième République - 1870-1940). Trong thời kỳ này, thành viên của các Hội Tam Điểm ("người Tam Điểm") đặc biệt rất tích cực. Ngay từ đầu, vào ngày 4/9/1870, "Chánh phủ Phòng vệ Quốc gia" (Gouvernement de Défense nationale) của Pháp gồm 12 thành viên, trong đó có 9 người Tam Điểm.
Jean-Paul Lefebvre-Filleau viết (3) : "Rõ ràng là, trong khi nói mình không làm chánh trị, người Tam Điểm của nền Đệ Tam Cộng Hòa trên thực tế hoàn toàn tham gia vào chánh trị, thậm chí còn đi xa đến mức tự nhận mình là người bảo vệ nền Cộng hòa, rõ ràng hơn : những người bảo vệ chế độ hiện tại" (4). Sau đó, bất kỳ người Cộng hòa nào muốn tranh cử đều phải tham gia sinh hoạt thực tế Tam Điểm", và danh sách các chánh trị gia Cộng hòa là người Tam điểm rất dài. Chỉ trong vòng vài năm, một phần ba số người được bầu vào Thượng viện và Hạ viện là người Tam Điểm.
Cũng nên nhắc là trên thế giới có nhiều nhân vật có tiếng là người Tam Điểm như : Hoa Kỳ có 15 trên tổng số 47 tổng thống cho đến năm 2025 (trong đó có Benjamin Franklin, George Washington, Franklin D. Roosevelt, Lyndon B. Johnson và Gerald Ford…), John.H.Glenn, Edwin Aldrin ; Vương quốc Anh : Charles X, Edward VI, Edward VII, Công tước xứ Kent, Rudyard Kipling, Winston Churchill… ; vua William I của Đức ; Pháp : Hầu tước de Lafayette, Gustave Eiffel, Voltaire, Auguste Bartholdi… Áo có Mozart, Algeria có Abdel Kader, Chile có Salvador Allende, v.v.

Tính đến năm 2025, Hoa Kỳ có 15 trên tổng số 47 tổng thống là người Tam Điểm (trong đó có Benjamin Franklin, George Washington, Franklin D. Roosevelt, Lyndon B. Johnson và Gerald Ford…)
Một số ý tưởng của Hội Tam Điểm được dịch thành luật, chẳng hạn như ý tưởng về tự do ngôn luận và tự do báo chí năm 1881. Nhiều chánh trị gia, công chức ở các thuộc địa và ở chánh quốc Pháp, một số toàn quyền Đông Dương (22 trên 32) (5), cao ủy (6 trên 8), thống lãnh quân sự (9 trên 16) và quản trị viên thuộc địa như : Gambetta, Jules Ferry, Camille Pelletan, Henri Brisson, Auguste Pavie, Paul Doumer, v.v. đều là người Tam Điểm.
Vì vậy, việc một số người Việt Nam lợi dụng thời gian cư ngụ ở Pháp, hoặc sau này tại Việt Nam, xin nhập vào Hội Tam Điểm với sự giúp đỡ của bạn Pháp có thể được hiểu rằng trở thành thành viên Tam Điểm, họ có thể tìm được chánh trị gia Tam Điểm Pháp ủng hộ và giúp họ trong công cuộc tranh đấu dành độc lập của họ (6).
Người Tam Điểm Việt Nam
Tại Việt Nam, các Hội Tam Điểm Đại Đông Phương (Grand Orient - GO), Đại Hội Tam Điểm Pháp (Grande Lodge de France - GLDF) và Quyền Con Người (Droit Humain - DH) lúc đầu chỉ kết nạp người Pháp, sau đó cũng nhận người Việt. Nhưng cũng có một số người Tam điểm Pháp chống việc thành lập Chi hội do người Việt nắm giữ ở Việt Nam (7), vì cho rằng các Chi hội đó có nguy cơ trở thành "những tụ điểm nóng của cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của Pháp". Việc người Tam Điểm Việt Nam không nhận được sự hỗ trợ nào cho cuộc đấu tranh giành độc lập và tự chủ trong tình anh em của các Hội Tam Điểm Pháp, cho thấy tình huynh đệ giữa người Tam Điểm gốc Pháp và người bản xứ rất hạn chế.

Tòa nhà Hội Tam Điểm tại Hà Nội (bị sụp ngày 22/9/2015).
Trần Trọng Kim, Thủ tướng của Bảo Đại năm 1945, thuộc Chi hội Tam Điểm Les Écossais du Tonkin của Grand Loge de France (GLDF).
Bùi Quang Chiêu, người sáng lập Đảng Lập Hiến, trình cho nhiều Chi hội hai bài viết có chủ đề "Pháp đã mất Đông Dương?" và "Vấn đề thuộc địa hóa trước các thuộc địa".
Tháng Giêng năm 1926, Phạm Quỳnh trình bài về "Lý tưởng của nhà hiền triết trong triết học Nho giáo".
Luật sư Vương Quang Nhường đọc một bài tham luận tại một đại hội của GLDF ở Pháp năm 1936, tựa là "Vấn đề thuộc địa trong xã hội hiện đại".
Lê Văn Trung, quyền Giáo Tông của Cao Đài tại Tây Ninh làm dấu hiệu cầu cứu cho giám đốc nhà tù nơi ông bị đưa đến, cũng là một người Tam điểm.
Tạ Thụ Thâu, lãnh thụ cộng sản Đệ Tứ ; Phạm Ngọc Thạch, thành viên bí mật của Đảng cộng sản Đông Dương và là người thành lập Thanh niên Tiền Phong ; Trịnh Đình Thảo của Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam ; Hoàng đế Duy Tân trở thành Hoàng tử Vĩnh San (Chi hội l’Amitié tại đảo Réunion), và nhiều người Việt Nam khác là người Tam Điểm.

Thư viết ngày 6/9/1936 của những người Việt Nam trong Hội Tam Điểm gởi đến Đại Phụ Hội Tam Điểm Pháp
Trước khi mang biệt danh Hồ Chí Minh, ông dùng tên Nguyễn Ái Quấc, sinh ngày 15/2/1895 (Annam), hành nghề sửa ảnh và thợ vẻ, để xin nhập vào Chi hội La Fédération Universelle thuộc Grand Orient (GO) tại Paris trước khi tuyên bố, vào tháng 12/1922, trong một cuộc họp chi bộ lần thứ 17 của Liên đoàn sông Seine thuộc Đảng cộng sản Pháp, rằng ông tin "Hội Tam Điểm và các thành viên của Liên minh Nhân quyền thực hiện sự hợp tác giai cấp chứ không phải đấu tranh giai cấp". Ông cũng đồng ý và chấp thuận các nghị quyết của Đại hội lần thứ 4 của Comintern cấm người cộng sản tham gia Hội Tam Điểm và một số tổ chức khác.
Hội Tam Điểm và Đạo Cao Đài
Những biểu tượng Thiên Nhãn, Mặt Trời và Mặt Trăng được phơi bày trong Đạo Cao Đài như trong các Hội Tam Điểm, có người tin rằng Hội Tam Điểm đóng một vai trò trong việc Đạo Cao Đài ra đời. Đặc biệt là khi được biết rằng quyền Giáo tông Lê Văn Trung (8) và con rể người Pháp của Hộ pháp Phạm Công Tắc của Tòa Thánh Tây Ninh thuộc tổ chức này, và nhiều người Tam Điểm Pháp tại Việt Nam ủng hộ tôn giáo mới này.

Tranh thờ trong gia đình tín đồ đạo Cao Đài được gọi là Thánh tượng Thiên nhãn, gồm các chi tiết : Trên cùng là Thiên nhãn (mắt trái) cao nhất ở giữa - biểu trưng cho Đức Chí Tôn là đấng tối cao của đạo Cao Đài, mặt trời bên trái, mặt trăng và các vì sao bên phải. Hàng thứ nhất : Phật Thích Ca ở giữa, Thái Thượng Lão Quân bên trái, Khổng Tử bên phải. Hàng thứ hai : Lý Thái Bạch ở giữa, Quán Thế Âm bên trái, Quan Công bên phải. Hàng thứ ba : Chúa Jesus. Hàng thứ tư : Khương Tử Nha. Dưới cùng: Bảy cái ngai được xếp thành ba hàng : Hàng trên một cái, hai hàng dưới mỗi hàng ba cái.
Cách giải thích như vậy bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về cả hai tổ chức, thấy mà không hiểu, và hiểu thì hiểu sai. Thiên Nhãn của Hội Tam Điểm, về nguyên tắc là một con mắt giữa, tượng trưng cho Kiến Trúc Sư Vĩ Đại của Vũ trụ, Đấng tạo ra tất cả những gì hiện hữu trên trái đất, khác với Thiên Nhãn của Đạo Cao Đài là con mắt trái xuất hiện với người Cao Đài đầu tiên, ông Ngô Văn Chiêu, ám chỉ phía Tâm linh ở bên trái, trái là phía Tâm linh. Nhưng cần lưu ý : có nhiều nền văn hóa tôn thờ con mắt (9).
Những dụng cụ làm việc của thợ xây dựng nhà thờ và thánh đường như thước đo cạnh (équerre), dùng để đo và vẽ cạnh 90°, và compa (compas) dùng để vẽ vòng tròn, trở thành những biểu tượng của thợ xây dựng "tư biện" (spéculatif - xây dựng bằng lý trí), tánh "chánh trực" (droiture - ngay thẳng) và "phạm vi và kết quả của việc mình làm trong cuộc sống hàng ngày" (nằm trong hạn mức của vòng tròn vẽ được).

Biểu tượng của Hội Tam Điểm : Mắt giữa, Thước đo cạnh và Compa

Đạo Cao Đài : Mắt trái, Sách Xuân Thư, Bình bát vu và Cây phất chủ (Khổng, Phật và Lão giáo)
Trong khi đó các công cụ của tín đồ Cao Đài hiện rõ trên cờ của Đạo, biểu tượng Tam Giáo (Khổng, Phật và Lão giáo) với cuốn Sách Xuân Thư, Bình bát vu và Cây phất chủ. Trong Đạo Cao Đài không có thước đo cạnh 90° và compa, nhưng xuất phát từ truyền thống Trung Hoa, Thước đo cạnh 90° cho phép vẽ hình vuông tượng trưng cho Địa (Đất), Âm, thế gian và compa hình tròn tượng trưng cho Thiên (Trời), Dương, thế giới tâm linh. Đồng xu Trung Hoa và Việt Nam thời cổ đại có hình tròn với một lỗ vuông ở trung tâm. Mặt trời và Mặt trăng đại diện cho Ánh sáng của ban ngày và ban đêm theo tư tưởng Kitô giáo (Sách Sáng thế-Genèse B1, 14-18), trong khi đối với Cao Đài giáo, họ tượng trưng cho Dương và Âm.
Theo Hội Tam Điểm, Mặt trời và Mặt trăng đại diện cho Ánh sáng ban ngày và ban đêm, còn Đạo Cao Đài Mặt trời và Mặt trăng đại diện cho Dương và Âm. Âm và Dương, hình tròn và hình vuông, Mặt trời và Mặt trăng đại diện cho Dương và Âm Âm và Dương, hình tròn và hình vuông, Mặt trời và Mặt trăng đã có từ lâu trong tư tưởng Trung Hoa và Việt Nam, rất lâu trước khi Hội Tam Điểm ra đời vào thế kỷ XXVII.

Theo Hội Tam Điểm (trên), Mặt trời và Mặt trăng đại diện cho Ánh sáng ban ngày và ban đêm, còn Đạo Cao Đài (dưới) Mặt trời và Mặt trăng đại diện cho Dương và Âm.
Mục tiêu và tư tưởng của hai tổ chức hoàn toàn không giống nhau. Một bên con người hành động nhân danh và/hoặc cho vinh quang của Đấng Kiến Tạo Vũ Trụ Toàn Năng trong việc truy tìm con đường phải đi để cải thiện đạo đức và tâm linh của chính mình, còn bên kia, con đường đã được vạch sẵn và có thầy chỉ đạo để thoát khỏi những đau khổ của trần gian đi đến sự giải thoát.
Nguyễn Ngọc Châu
(19/12/2025)
---------------------------
Chú thích :
(1) Việt Nam gọi là Tam Điểm vì số 3 rất quan trọng trong các Hội Tam Điểm (có ba cấp chẳng hạn). Bên Pháp gọi là Franc-Maçonnerie và các nước tiếng Anh là Freemasonry, tức Hội những thợ đục đá xây dựng đền thờ.
(2) Pierre Brocheux, "Une histoire croisée : l’immigration politique indochinoise en France, 1911-1945" (Lịch sử chéo : Chính sách nhập cư người Đông Dương ở Pháp, 1911-1945), Hommes et Migrations, 2005, tr. 26-38 https://indomemoires.hypotheses.org/.
(3) Jean-Paul Lefebvre-Filleau, La Franc-Maçonnerie au cœur de la République de 1870 à nos jours (Hội Tam Điểm trong lòng nước Cộng hòa từ năm 1870 đến nay), Nhà xuất bản De Borée, 2016.
(4) Pierre Chevallier, Histoire de la Franc-Maçonnerie française, Tome 3, "La Maçonnerie : Église de la République" (1877-1944) (Lịch sử Hội Tam Điểm Pháp, Tập 3, Hội Tam Điểm : Nhà thờ của nền Cộng hòa (1877-1944), Nhà xuất bản Fayard 1975, trang 26, được nhắc trong bài viết của Bruno Clemenceau, "La République, c'est la franc-maçonnerie ou la République vue par les écrivains antimaçons français (1880- 1914)" (Nền Cộng hòa, chính là Hội Tam Điểm hay nền Cộng hòa theo cách nhìn bởi những người chống Tam Điểm Pháp (1880-1914).
(5) Bài viết ngày 13/10/2015 của Cơ quan Thông tin Hiệp Hội Thừa sai Paris (MEP - Missions étrangères de Paris) về vụ sập tòa nhà Hội Tam Điểm ở Hà Nội ngày 22/9/2015.
(6) "Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale" (Người Việt Nam trong Hội Tam Điểm thuộc địa), một bài báo trên tạp chí Revue Française de l'Histoire d'Outre-Mer của Jacques Dalloz ; và Gilbert Davidn, Chroniques secrètes d'Indochine (1928-1946), Tome 1, Le Gabaon (Biên niên sử bí mật Đông Dương, (1928-1946), Tập 1, Le Gabaon), Nhà xuất bản L’Harmattan, 01/01/1994, Paris.
(7) Jean Lan, chi hội La Fraternité tonkinoise, Paquin, chi hội L’Étoile du Tonkin và Bouault, chi hội Réveil de l’Orient được trích dẫn trong : Jacques Dalloz, "Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale" (Người Việt Nam trong Hội Tam Điểm thuộc địa), Revue Française de l'Histoire d'Outre-Mer, 1998, tr. 103-118.
(8) Lê Văn Trung, quyền Giáo Tông tương lai của Cao Đài tại Tây Ninh đeo biểu hiệu và làm dấu hiệu đau khổ của Hội Tam Điểm với giám đốc trại tạm giam nơi ông bị nhốt, cũng là một thành viên Hội Tam Điểm.
(9) Khi vào Dojo, võ đường đạo Zen, phải vào bằng chân trái trước, và khi rời thì đi lui và bước lui với chân phải trước, chân trái còn trên Dojo. Dojo là nơi tâm linh, tượng trưng bằng phía trái.