Ngày 30/4/1975, phe thắng cuộc là ai vẫn chưa ngã ngũ (Nguyễn Hưng Quốc, Huy Đức, BBC tiếng Việt)

Có thể nói, trong hơn mười năm, từ 1975 đến 1985, khi phong trào đổi mới xuất hiện, ở Việt Nam, dân chúng trong cả nước đều chia sẻ nỗi bất hạnh chung xuất phát từ việc miền Bắc thắng miền Nam. Không có gì quá đáng nếu chúng ta nói, trừ giới lãnh đạo cộng sản, tất cả mọi người đều là nạn nhân của biến cố 30 tháng Tư 1975. Không phải chỉ những người bị bắt đi học tập cải tạo hoặc bị lùa đi kinh tế mới mới là nạn nhân : Tất cả mọi người đều là nạn nhân. Không phải chỉ những người bị bỏ mình trên biển mới là nạn nhân, ngay cả những người may mắn vượt thoát và được định cư ở nước ngoài cũng là nạn nhân : họ phải xa lìa tổ quốc để sống tha hương, không lúc nào nguôi nỗi khắc khoải trông ngóng về đất nước cũ. 


Tất cả đều là nạn nhân

Nguyễn Hưng Quốc, VNTB, 29/04/2021

Liên quan đến biến cố 30 tháng Tư 1975, có một câu nói của một quan sát viên quốc tế mà tôi rất tâm đắc : "Không có ai chiến thắng cả. Tất cả đều là nạn nhân" (There were no winners, only victims).

chientranh1

"Không có ai chiến thắng cả. Tất cả đều là nạn nhân"

Nhưng tại sao lại không có người chiến thắng ?

Trước hết, không còn hoài nghi gì nữa, người miền Nam chắc chắn là những người thua cuộc và từ đó, là những nạn nhân không những của chiến tranh mà còn của hòa bình với hàng trăm ngàn người bị bắt đi cải tạo, hàng triệu người liều mạng vượt biển để tìm tự do và hầu như tất cả đều sống trong cảnh vừa lầm than vừa bị áp bức.

Mỹ cũng không phải là những kẻ chiến thắng. Nói cho đúng, họ thắng trong cuộc chiến tranh lạnh với khối xã hội chủ nghĩa bằng việc phân hóa Trung Quốc và Liên Xô đồng thời bằng cách vô hiệu hóa hiệu ứng liên hoàn, gắn liền với thuyết domino vốn là nguyên nhân chính khiến họ tham dự vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Về phương diện quân sự, họ không thắng không bại : họ đã rút quân ra khỏi Việt Nam mấy năm trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt. Tuy nhiên, về phương diện chính trị, họ đã thất bại trong nỗ lực bảo vệ một đồng minh là chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam. Sau đó, về phương diện tâm lý, họ là những nạn nhân với hội chứng Việt Nam, một ám ảnh đầy day dứt trong lương tâm của những người từng tham chiến. Đó là chưa kể hơn 58.000 người lính bỏ mình tại Việt Nam cũng như hàng mấy trăm ngàn người bị thương tật trở thành một gánh nặng trong xã hội Mỹ.

Thế còn miền Bắc ?

Đương nhiên họ là những người thắng cuộc. Thắng về quân sự : đánh bại được quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Thắng về chính trị : thống nhất được đất nước sau 20 năm chia cắt. Tuy nhiên, bên cạnh những chiến thắng ấy, họ cũng gánh chịu không ít thất bại. Những thất bại ấy làm cho chiến thắng của họ trở thành một tai họa cho mọi người.

Trước hết, như là hệ quả của việc chà đạp lên hiệp định Paris, xua quân cưỡng chiếm miền Nam, Việt Nam phải gánh chịu sự cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Trừ Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa, họ không có một người bạn nào cả. Ngay cả với một nước đồng minh thân cận từng giúp đỡ họ cả mấy chục năm, Trung Quốc, cũng biến thành kẻ thù với hậu quả là, ngay sau chiến tranh Nam-Bắc chấm dứt, Việt Nam phải chịu đựng thêm hai cuộc chiến tranh mới : chiến tranh với Campuchia và chiến tranh với Trung Quốc.

Hệ quả của tất cả những điều vừa nêu là, về phương diện kinh tế, Việt Nam hoàn toàn kiệt quệ. Lạm phát tăng nhanh ; nạn đói lúc nào cũng lởn vởn trước mắt mọi người. Trong nhiều năm, ngay cả lúa gạo, nguồn thực phẩm chính và cũng là điểm mạnh của miền Nam, cũng bị thiếu hụt nghiêm trọng. Dân chúng phải thường xuyên ăn độn hoặc ăn bo bo để thế cơm. Việt Nam trở thành một trong những quốc gia nghèo khó và chậm phát triển nhất thế giới.

Về phương diện xã hội, hầu như mọi người đều bị lâm vào cảnh khốn cùng. Mâu thuẫn giữa hai miền Nam và Bắc càng lúc càng sâu sắc. Sự thống nhất chỉ có trên phương diện chính trị và hành chính, nhưng về tâm lý, nhìn nhau, dân chúng giữa hai miền vẫn đầy những nghi kỵ và đố kỵ.

Về phương diện chính trị, dân chúng không còn chút tự do nào cả. Tự do tư tưởng : Không. Tự do ngôn luận : Không. Tự do cư trú và tự do đi lại : Không. Tất cả các quyền tự do căn bản của dân chủ, từ tự do hội họp đến tự do thành lập và tham gia vào đảng phái đều bị tước sạch.

Có thể nói, trong hơn mười năm, từ 1975 đến 1985, khi phong trào đổi mới xuất hiện, ở Việt Nam, dân chúng trong cả nước đều chia sẻ nỗi bất hạnh chung xuất phát từ việc miền Bắc thắng miền Nam. Không có gì quá đáng nếu chúng ta nói, trừ giới lãnh đạo cộng sản, tất cả mọi người đều là nạn nhân của biến cố 30 tháng Tư 1975. Không phải chỉ những người bị bắt đi học tập cải tạo hoặc bị lùa đi kinh tế mới mới là nạn nhân : Tất cả mọi người đều là nạn nhân. Không phải chỉ những người bị bỏ mình trên biển mới là nạn nhân, ngay cả những người may mắn vượt thoát và được định cư ở nước ngoài cũng là nạn nhân : họ phải xa lìa tổ quốc để sống tha hương, không lúc nào nguôi nỗi khắc khoải trông ngóng về đất nước cũ.

Nhưng nếu mọi người đều là nạn nhân, cuộc chiến tranh Nam Bắc vốn kéo dài hai mươi năm có thực sự cần thiết hay không ?

Nguyễn Hưng Quốc

Nguồn : VNTB, 29/04/2021

********************

Vạn cốt khô

Huy Đức, 28/04/2021

Bài viết trên BBC khá gây xôn xao nhưng không bất ngờ, khi một cuốn sách nói là "xét lại vai trò của tướng Giáp" được viết bởi "con gái Lê Đức Thọ" (theo BBC) và được đưa lên "trang nhà Lê Đức Anh".

chientranh2

Nhà  báo Borries Gallasch và Trung tá Bùi Văn Tùng, Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203, trước Dinh Độc Lập 30/4/1975 - Ảnh minh họa

Lê Đức Thọ đã làm những việc này từ năm 1967 và Lê Đức Anh thì mãi tới năm 1991 vẫn còn dựng lên vụ "Năm Châu, Sáu Sứ" để hại tướng Giáp. Nếu lúc ấy, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đưa ra Bộ Chính trị bản "Báo cáo của trung tướng Võ Viết Thanh" thì số phận chính trị của Lê Đức Anh đã kết thúc.

Ngay sau ngày 30/4/1975, khi xương cốt của những người lính trận chưa kịp khô, Văn Tiến Dũng đã viết sách coi như không có vai trò tướng Giáp. Năm 1994, trong một cuộc phỏng vấn riêng, tôi hỏi tướng Giáp : "Thưa Đại tướng, ở thời điểm Chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra, Đại tướng đang là Bí thư Quân ủy trung ương, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, sao trong cuốn Đại Thắng Mùa Xuân lại nhắc rất ít đến vai trò của Đại tướng ?"

Tướng Giáp nghiêm mặt lại, chỉ sang tướng Lê Phi Long, Cục phó Cục Tác chiến, nói : "Long, cậu biết, Nhật ký Tổng hành dinh ghi rõ, tôi lệnh gì, anh Ba lệnh gì. Các nhà báo, các nhà sử học muốn tìm hiểu sự thật phải đọc Nhật ký Tổng hành dinh chứ không nên căn cứ vào tuyên bố của một ai đó".

Năm 2005, suốt tuần lễ trước 30/4, báo Quân đội nhân dân đăng loạt bài của tướng Lê Hữu Đức. Tướng Lê Hữu Đức, còn gọi là Đức Cụt, là một trong những chỉ huy đầu tiên đánh Mỹ trên mặt trận Tây Nguyên. Ông là một trong 4 người thuộc "Tổ Trung tâm" được lập ra bởi tướng Giáp, bí mật suốt hai năm liền nghiên cứu kế hoạch "giải phóng miền Nam". Việc chọn Buôn Mê Thuột để đánh trận mở đầu là việc được tính rất kỹ của Tổ Trung tâm, trước khi trình ra Bộ Chính trị chứ chẳng phải ý kiến của ông Thọ hay ông Duẩn.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, tướng Lê Hữu Đức là Cục trưởng cục Tác chiến. Loạt bài của ông, công bố rất nhiều tư liệu lấy từ Nhật ký Tổng Hành dinh, cho biết, tướng Giáp phải mất bốn cuộc họp để thuyết phục Bộ Chính trị lựa chọn cách đánh như đã diễn ra thay vì cách đánh mà Lê Duẩn muốn (tương tự hồi Mậu Thân).

Cho đến giờ này ít ai biết là ngay chiều 30/4/1975, đã có những loạt súng giận dỗi trong khuôn viên Dinh của những người lính thuộc đơn vị được Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ chọn "cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập". Cũng trong chiều hôm đấy, Lữ 203 của trung tá Bùi Văn Tùng phải rút về Long Thành, nhường Dinh Độc lập cho Sư 7.

Lữ 203 thuộc Quân đoàn II, nằm trong đội hình của "Cánh quân phía Đông" dưới quyền tướng Lê Trong Tấn, vị chỉ huy trung thành với tướng Giáp.

Tấm huân chương nào cũng có hai mặt. Việc rồi đây sẽ có thêm sách vở nói về mặt còn lại của những người như tướng Giáp và cả Hồ Chí Minh là điều chắc chắn xảy ra. Tuy nhiên, lịch sử chỉ có chỗ cho những nghiên cứu khách quan, khoa học.

Huy Đức

Nguồn : osinhuyduc, 30/04/2021)

PS : Trong khu tưởng niệm Lê Đức Thọ ở Nam Định quê ông, có rất ít sách vở, gần như chỉ trưng bày cuốn Đường Thời Đại của Đặng Đình Loan, cuốn sách đã bị ném vào sọt rác từ lâu. Loan là một trong những "dư luận viên" đầu tiên được sử dụng để đánh vào tướng Giáp.

**********************

Xét lại vai trò tướng Giáp : Một quan điểm viết sử mới tại Việt Nam

BBC, 27/04/2021

"Thắng lợi Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 do Trung ương Đảng, Bộ Chính trị - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh : Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng tối cao và Tổng bí thư Trường Chinh - trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo cụ thể trên tất cả các phương diện chính trị, quân sự và ngoại giao, trong nước và quốc tế".

"Cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao của cách mạng Việt Nam, Tổng bí thư Trường Chinh và Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn là những người "đứng mũi chịu sào" chèo lái đưa con thuyền độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc tới bến vinh quang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược".

chientranh3

Hình vẽ Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Hai đoạn trên là trích từ một cuốn sách in gần đây tại Việt Nam, thể hiện một quan điểm viết sử, theo đó, vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, viên tướng nổi tiếng nhất Việt Nam thế kỷ 20, không lớn như hầu hết các sách chính thức tại Việt Nam truyền thống vẫn nói.

Cuốn sách "Đảng và Bác Hồ : từ Điện Biên đến Đại thắng mùa Xuân 1975" được Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông ấn hành năm 2015, khi kỷ niệm 40 năm thống nhất Việt Nam.

Tác giả sách là Tiến sĩ Lê Trung Nguyệt (nguyên Trưởng phòng Khoa học Chính trị, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam).

Bà Lê Trung Nguyệt là con gái của ông Lê Đức Thọ, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng Ban Tổ chức Trung ương suốt từ 1956 tới 1982 tại Hà Nội.

Trong sách, tác giả nhấn mạnh : "Không loại trừ được chủ nghĩa cá nhân ra khỏi quá trình nghiên cứu và tái hiện lịch sử cách mạng của dân tộc thì sẽ không khẳng định được trí tuệ lãnh đạo tập thể của Trung ương Đảng và Bộ Chính trị qua các giai đoạn lịch sử cụ thể, đặc biệt là ở những thời điểm bước ngoặt của cách mạng".

"Cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao của cách mạng Việt Nam, Tổng bí thư Trường Chinh và Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn là những người "đứng mũi chịu sào" chèo lái đưa con thuyền độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc tới bến vinh quang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược".

Điện Biên Phủ : Vai trò Hồ Chí Minh lớn hơn Võ Nguyên Giáp ?

Ngay trong chương mở đầu về kháng chiến chống Pháp, tác giả nhấn mạnh nhiều đoạn với hàm ý vai trò chỉ huy, chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tối cao.

"Theo kế hoạch của Bộ Chỉ huy Chiến dịch Biên giới do Đại tướng - Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy Chiến dịch, Cao Bằng là mục tiêu tấn công đầu tiên. Nhưng với tư duy binh pháp khi phân tích địa hình và bố trí lực lượng của địch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo phải đánh căn cứ Đông Khê trước, vì Đông Khê là vị trí quan trọng và cũng là nơi địch yếu hơn so với Cao Bằng, khi bị mất Đông Khê, địch phải đem quân đến ứng cứu, tạo điều kiện cho ta tiêu diệt chúng".

Tổng kết chương này, tác giả lại nhấn mạnh vai trò của Hồ Chí Minh và Trường Chinh.

"Quá trình chuẩn bị và triển khai Chiến dịch Điện Biên Phủ cho thấy rõ tầm nhìn chiến lược trong việc xác định chiến trường trọng điểm và tư duy quân sự độc đáo của Trung ương Đảng, trí tuệ lãnh đạo tập thể cùng sự chỉ đạo cụ thể, trực tiếp, toàn diện, sát sao, liên tục của Bộ Chính trị và Ban Bí thư - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bí thư Trường Chinh".

Tác giả nói : "Ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bí thư Trường Chinh tại Hội nghị Trung ương 4 khóa II, tháng 1/1953, về xây dựng pháo binh và quán triệt sâu sắc phương châm "đánh chắc, tiến chắc" có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi trọn vẹn của Chiến dịch Điện Biên Phủ".

Tác giả chỉ ra : "Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo và phê phán tư tưởng "ham đánh to, ăn to, chủ quan khinh địch", đồng thời cũng đã căn dặn "phải chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh". Nhưng trên thực tế, phương châm "đánh nhanh, thắng nhanh" vẫn được triển khai ngay cả từ đầu Chiến dịch Điện Biên Phủ (rồi buộc phải kéo pháo và đưa quân ra để bố trí lại) cũng như trong đợt tấn công lần thứ 2 (không đạt được mục tiêu đặt ra và bị tổn thất)".

"Nhờ sự chỉ đạo kịp thời, chấn chỉnh liên tục và kiên quyết của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, cuối cùng thì phương châm "đánh chắc, tiến chắc" đã được tuân thủ".

Hồ Chí Minh và trận Mậu Thân 1968

Ở chương về tổng tiến công 1968, tác giả khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn toàn nắm rõ kế hoạch và mạnh mẽ thông qua.

"Người đã cùng Bộ Chính trị họp bàn quyết định và chỉ đạo từng bước cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân nhằm đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang và đàm phán với ta".

Tác giả Lê Trung Nguyệt điểm qua các luận cứ bổ trợ cho khẳng định của bà, ví dụ như :

Cuộc họp Bộ Chính trị tháng 10/1967, do Trường Chinh chủ trì. Tại đây, Văn Tiến Dũng báo cáo kế hoạch tác chiến đánh vào Sài Gòn và các thành phố khác để Bộ Chính trị phê duyệt.

Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp không tham dự cuộc họp này vì đang đi kiểm tra sức khỏe, khám chữa bệnh ở nước ngoài.

Sau một tuần lễ nghe báo cáo và thảo luận, Trường Chinh kết luận : "Bộ Chính trị thống nhất ý kiến, thông qua kế hoạch quân sự để các đồng chí bên quân đội về triển khai cho kịp. Còn ba vấn đề phải suy nghĩ thêm : Nổi dậy, lập chính phủ liên hiệp và mở mặt trận ngoại giao, chờ anh Ba về sẽ họp tiếp".

Cũng trong tháng 10/1967, lực lượng công an nhân dân đã "phá tổ chức chống Đảng, làm tình báo cho nước ngoài của một số cán bộ cao cấp ở Hà Nội".

Ngày 10/11/1967, để ổn định tình hình nội bộ và khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân chuẩn bị thực hiện cuộc tiến công chiến lược Tết 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố "Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng".

Ngày 28/12/1967, Bộ Chính trị đã họp ra Nghị quyết về "Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam", quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết 1968.

Trong cuộc họp lịch sử này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị : "Kế hoạch phải thật tỷ mỉ ; hợp đồng phải thật ăn khớp ; bí mật phải thật tuyệt đối ; hành động phải thật kiên quyết ; cán bộ phải thật gương mẫu".

Nghị quyết này của Bộ Chính trị sau đó được Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương khóa III thông qua và trở thành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương khóa III, tháng 1/1968.

Ngày 1/1/1968, vào lúc 14 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Bộ Chính trị, căn dặn một số công việc cần giải quyết trong thời gian tới.

16 giờ, ông rời Hà Nội đi Trung Quốc chữa bệnh.

Rạng sáng ngày 31/1/1968, Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy Miền và Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã ra lệnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa trên toàn miền Nam.

Ngày 22/4/1968, chỉ một ngày sau khi từ Bắc Kinh về tới Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã họp Bộ Chính trị, nghe báo cáo diễn biến toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

Ngày 24/4/1968, Bộ Chính trị họp, chấp thuận đề nghị mở tiếp cuộc tiến công đợt 2 của Trung ương Cục miền Nam và để phối hợp với mặt trận ngoại giao. Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về việc mở tiếp đợt 2 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Tám ngày sau, ngày 13/5/1968, phiên họp công khai đầu tiên giữa đoàn Mỹ với đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được khai mạc tại Hội trường Kléber, Paris.

Sách này nói gì về vai trò Lê Duẩn ?

Với 26 năm liên tục đảm nhận cương vị Bí thư thứ nhất và Tổng bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam, Lê Duẩn được Đảng cộng sản gọi là "chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng".

Dư luận người dân ở Việt Nam lâu nay vẫn xem Lê Duẩn và Lê Đức Thọ (bố của tác giả Lê Trung Nguyệt) là "cặp bài trùng" trong các quyết sách của Đảng nhiều thập niên.

Một số nhà nghiên cứu độc lập ở ngoài nước còn xem Lê Duẩn có vai trò chi phối trong Đảng, thậm chí lấn lướt Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay thập niên 1960.

Còn trong sách này, ở giai đoạn 1957-1959, tác giả khẳng định ông Lê Duẩn đã ủng hộ chủ trương dùng vũ trang ở miền Nam.

Tháng 8/1956, Lê Duẩn hoàn thành bản dự thảo "Đề cương cách mạng miền Nam" : "Nhân dân ta ở miền Nam chỉ có một con đường là vùng lên chống Mỹ - Diệm, để cứu nước và tự cứu mình. Đó là con đường cách mạng".

Sách dẫn lời Võ Chí Công nói cuối năm 1957, Lê Duẩn nói "khi đồng chí mới ra, đề nghị chuẩn bị họp Trung ương ra nghị quyết theo tinh thần Đề cương đó, nhưng có người phản đối vì sợ Mỹ tố cáo ta vi phạm Hiệp định Giơnevơ và lấy cớ đưa quân vào miền Nam".

Trong thư "Gửi anh Mười Cúc và các đồng chí Nam bộ ngày 7/2/1961", Lê Duẩn nhắc lại : "Hồi ấy, có đồng chí đề nghị không nên đấu tranh vũ trang vì sợ rằng dùng lực lượng vũ trang sẽ có hại cho việc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ. Nhưng tôi đã trình bày, đã nói rõ sự cần thiết phải xây dựng lực lượng vũ trang".

Sách của bà Lê Trung Nguyệt nêu quan điểm : "Từ tiến trình khách quan của các sự kiện lịch sử, có thể thấy hai sự chậm trễ : chậm trễ kéo dài gần 2 năm mới thông qua được Nghị quyết Trung ương 15 khóa II và chậm trễ kéo dài 4 tháng mới phổ biến nghị quyết này cho Xứ ủy Nam bộ. Phải chăng, chính tư tưởng sợ Mỹ và ảnh hưởng theo giáo điều "thi đua hòa bình" đã là vật cản dẫn tới sự chậm trễ trong chuyển hướng chỉ đạo chiến lược sang đấu tranh vũ trang ở miền Nam, gây ra những tổn thất nặng nề ?"

Vai trò của ông Lê Duẩn trong chiến dịch đánh miền Nam đầu năm 1975 được sách khẳng định.

Theo đó, ngày 8/1/1975, ông Lê Duẩn đã giao nhiệm vụ "dùng 3 sư đoàn quân chủ lực đánh Tây Nguyên, mở thông hành lang nối liền Nam Tây Nguyên với Đông Nam bộ, tạo điều kiện để bộ đội chủ lực cơ động nhanh vào miền Đông, phối hợp với quân chủ lực Miền để tiến đánh Sài Gòn".

Nhưng sách cho hay ban đầu vẫn có ý kiến muốn đánh chi khu Đức Lập chứ không phải Buôn Ma Thuột.

Vì thế, ngày 9/1, Lê Đức Thọ "bất ngờ tới dự cuộc họp" của Thường trực Quân ủy Trung ương để khẳng định quyết tâm đánh trận đầu vào Buôn Ma Thuột.

Ông Lê Đức Thọ nói : "Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được Buôn Ma Thuột là thế nào ?"

Do còn có ý kiến phân vân trong việc chọn đột phá khẩu, nên ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ "đã đề nghị Bộ Chính trị cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào chiến trường Tây Nguyên để chỉ đạo trực tiếp tại chỗ".

Trong chương này, tác giả kết luận : "Chiến thắng Buôn Ma Thuột cho thấy rõ tầm nhìn chiến lược sắc sảo cùng sự quyết đoán mau lẹ trong việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo chỉ huy để bảo đảm đánh chắc thắng của Bộ Chính trị - đứng đầu là đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn".

"Quyết định sáng suốt của đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn về trận đánh mở đầu Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên, đã được thực hiện thành công trọn vẹn do sự chỉ huy trực tiếp, quyết đoán và mưu lược của Đại tướng Văn Tiến Dũng".

Tác giả khẳng định vai trò chỉ đạo tối cao của ông Lê Duẩn trong những trận đánh cuối cùng.

Ngày 18/3/1975, Võ Chí Công, Bí thư Khu ủy Khu V, đã điện cho Lê Duẩn và Bộ Chính trị xin cho tấn công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng.

Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị điện trả lời đồng ý và nói : "Nếu thấy làm được thì giải phóng Đà Nẵng đi".

Ngày 24/3, họp Bộ Chính trị, Lê Duẩn nói : "Cuộc tổng tấn công bắt đầu. Tây Nguyên mở đột phá khẩu. Tiếp tục tấn công Đà Nẵng. Cuối cùng giải phóng Sài Gòn...".

Ngày 1/4, trong một bức điện gửi Trung ương cục miền Nam, Lê Duẩn chỉ thị cần phải hành động "thần tốc, táo bạo, bất ngờ" để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam ngay trong tháng 4/1975.

Trong cả chương 8 về chiến dịch Hồ Chí Minh, tên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ được nhắc 3 lần.

Tác giả kết luận : "Trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, đã có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ trong lãnh đạo và chỉ đạo của Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam".

"Bộ Chính trị đứng đầu là Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã quyết đoán và linh hoạt trong hoạch định và chỉ đạo chiến lược rất sát sao, cụ thể đối với các chiến trường ; đồng thời căn cứ vào diễn tiến cụ thể trên chiến trường và tình hình quốc tế, đã mau lẹ và kịp thời điều chỉnh kế hoạch thời cơ chiến lược giải phóng miền Nam từ hai năm 1975-1976 xuống trong năm 1975, sau đó tới trước mùa mưa năm 1975, rồi ngay trong tháng tư năm 1975".

Toàn văn cuốn sách của Tiến sĩ Lê Trung Nguyệt hiện có thể đọc trên trang web Đại tướng Lê Đức Anh.

Ông Lê Đức Anh (1920-2019), khi sinh thời, trực tiếp tham gia các diễn tiến của Chiến tranh Việt Nam, từng là Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân hướng Tây - Tây Nam đánh vào Sài Gòn.

Nguồn : BBC, 27/04/202