Chiến tranh Việt Nam kết thúc khi Saigon thất thủ vào tháng Tư năm 1975, nhưng theo một số sử gia thì số phận của miền Nam Việt Nam đã được định đoạt từ hơn hai năm trước, khi các bên tham chiến đạt được hiệp định hòa bình ở Paris. Được ký kết ngày 27/1/1973 giữa 4 bên: Hoa Kỳ, hai miền Nam và Bắc Việt Nam, và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam, trên thực tế ‘không chấm dứt chiến tranh mà cũng chẳng mang lại hòa bình’, theo nhận định của sử gia Larry Berman, tác giả của quyển “No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and the Betrayal in Vietnam” – “Không Hòa bình, Không Danh dự: Nixon, Kissinger và sự Phản bội tại Việt Nam”. 
 
Khi những chiếc máy bay trực thăng di tản những nhà ngoại giao và binh sĩ Mỹ cuối cùng ra khỏi Sài Gòn ngày 30/4/1975, câu hỏi được nhiều người đặt ra là: Chẳng lẽ hàng chục ngàn người Mỹ và hàng triệu người Việt Nam ở cả hai bên đã nằm xuống trong cuộc chiến, đều chết một cách vô nghĩa?
Giáo sư Larry Berman nói khi Sài Gòn sụp đổ, câu trả lời đã rõ. Ông nói ngay cả ông Kissinger cũng biết rằng cái mà ông gọi là hiệp định chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam, và cho là sẽ mang lại “hòa bình trong danh dự” cho người Mỹ, thực ra chỉ mang lại một thứ “hòa bình giả tạo- sham peace”, dựng lên nhằm đánh lạc hướng dư luận Mỹ với những lời hoa mỹ về ‘danh dự của Mỹ’ (trang 261).

Giáo sư Berman gọi thỏa thuận lập lại hòa bình ở VN là một thỏa thuận phi lý- “Jabberwocky Agreement” bởi vì trên thực tế thỏa thuận này không phải là một thỏa thuận hòa bình, mà chỉ là một cách để Hoa Kỳ có thể rút ra khỏi Việt Nam mà không phải nhìn nhận rằng Mỹ đã thất bại.

Trong quyển “No Peace, No Honor”, Giáo sư Larry Berman đã dùng các tài liệu mật của Mỹ sau này được giải mật, về các cuộc đàm phán bí mật giữa cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Henry Kissinger và ông Lê Đức Thọ, cố vấn cao cấp Đoàn Đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris, và ông mang các thông tin đó ra đối chiếu với các tài liệu của miền Bắc, ghi chép đầy đủ các cuộc đàm phán bí mật với ông Kissinger.


Lúc bấy giờ, Tổng Thống Nixon và cố vấn Kissinger quyết tâm chấm dứt sự hiện diện của Mỹ tại Việt Nam. Mỹ chỉ có hai mục tiêu chủ yếu, chính là triệt thoái lực lượng Mỹ ra khỏi Việt Nam, và vận động thả tù binh chiến tranh Mỹ để họ được trở về đoàn tụ với gia đình.

Số phận của miền Nam Việt Nam, nguyên do mà Hoa Kỳ tham gia chiến tranh Việt Nam, không được quan tâm đúng mức, thể hiện qua những cố gắng của ông Kissinger và TT Nixon, tăng sức ép buộc Tổng Thống VNCH ký hiệp định mà sử gia Berman cho là một “hiệp định tự sát”, khi đồng ý cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho VOA-Việt ngữ, sử gia Larry Berman nói chỉ có một từ duy nhất để miêu tả hành động của Tổng Thống Nixon và Tiến sĩ Kissinger đối với đồng minh VNCH và hàng chục ngàn binh sĩ đã chiến đấu và nằm xuống trên chiến trường Việt Nam: đó là “phản bội”.

Ông nói hành động phản bội khởi sự ngay từ khi ông Kissinger quyết định đi đêm với ông Lê Đức Thọ và hoàn toàn gạt TT Thiệu sang một bên.


Giáo sư Berman nói:

“Giải pháp ông ta bí mật điều đình mà không hề tham khảo ý kiến của đồng minh Nam Việt Nam, về cơ bản, là một ‘thỏa thuận tự sát’ đối với đất nước từng được gọi là Nam Việt Nam.”
Sau cùng, ông Kissinger nhượng bộ hầu hết mọi đòi hỏi của miền Bắc, đơn phương triệt thoái lực lượng Mỹ ra khỏi Việt Nam, nhưng đồng ý để miền Bắc duy trì ước lượng 160 ngàn quân ở miền Nam. Theo Giáo sư Berman, khi phát hiện ra những nhượng bộ của ông Kissinger với miền Bắc, Tổng thống Thiệu đã hết sức giận dữ, ông Nixon rốt cuộc phải viết thư mật, bảo đảm Mỹ sẽ lập tức điều máy bay ném bom B52 ngay để bảo vệ VNCH nếu Hiệp định Paris bị vi phạm.

Ông Bùi Diễm, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Hoa Kỳ, nói với VOA:

“Người Mỹ hứa hẹn với miền Nam Việt Nam sẽ phản ứng một cách hết sức mạnh mẽ nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp định Ba-Lê, đồng thời sẽ giúp Việt Nam chống đỡ trước các cuộc tấn công của miền Bắc, thì Hoa Kỳ đã không giữ và vì vậy cho nên miền Nam mới bị đặt vào trường hợp năm 1975: thiếu súng đạn, thiếu tất cả mọi thứ, trong khi người miền Bắc được tiếp tế bởi Liên Xô và Trung Cộng, thành thử về phương diện quân sự nó rõ ràng bị chênh lệch, thì tình trạng của Hiệp định Paris đưa đến tình trạng năm 1975, thì nó rõ ràng là như vậy.”

Giáo sư Larry Berman nói ông không tin là Tổng Thống Nixon có ý định nuốt lời hứa với Tổng thống Thiệu:

“Không có cách chi Tổng Thống Nixon chấp nhận để cho lịch sử viết rằng miền Nam Việt Nam đã sụp đổ trong khi ông đang nắm quyền ở Washington. Theo tôi, ông Nixon đã thực hiện lời hứa nếu không xảy ra vụ Watergate. Nhưng ông Kissinger thì khác, ông cố vấn ông Nixon rằng người Mỹ đã làm đủ rồi. Như tôi đã viết trong cuốn ‘No Peace, No Honor,’ đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ mà chúng ta để cho một đồng minh rơi vào tình trạng thiếu đạn dược, giữa lúc đồng minh đang chiến đấu để bảo vệ đất nước họ.”

Giáo sư Berman nói thật là oái ăm là các cuộc điều đình bí mật dẫn tới hiệp định Paris, và sau này kéo theo sự sụp đổ của VNCH, đã khiến ông Kissinger và ông Lê Đức Thọ được Hội đồng Nobel chọn để trao Giải Nobel Hòa Bình.

Tiến sĩ Berman nói việc hai nhà ngoại giao đã ‘đi đêm’ với nhau được trao giải Nobel Hòa Bình là một điều khôi hài. Ông nói:

“Đáng chú ý là Henry Kissinger nhận Giải Nobel Hòa Binh, trong khi đối tác của ông trong các cuộc thương lượng, Lê Đức Thọ, từ chối, không nhận Giải. Bởi vì không có một giây phút hòa bình nào đã đến với Việt Nam.”

Theo tài liệu của Người Kể Sử của Việt Nam, ông Lê Đức Thọ từ chối Giải Nobel Hòa bình “với lý do hòa bình chưa thực sự lập lại trên đất nước Việt Nam”.

Quả vậy, trước khi chữ ký trên văn kiện lịch sử này ráo mực, Hiệp định Paris đã bị vi phạm bởi cả hai bên trong cuộc chiến, với những vụ lấn đất giành dân, và chiến tranh lại tiếp diễn ngày càng dữ dội, để rốt cuộc dẫn tới biến cố 30/4/1975, khi miền Bắc xua quân thôn tính miền Nam trong hành động “vi phạm trắng trợn cuối cùng”, theo sử gia Berman.

Nguồn tin: VOA Tiếng Việt