Hòa giải và hòa hợp dân tộc: Một thách đố lịch sử (Sơn Dương)

Hòa giải và hòa hợp dân tộc là triết lý điều hành quốc gia, là tinh thần cộng sinh bao dung hòa bình trên những đất nước đã trải qua nội chiến tương tàn cần phải hàn gắn lại những đổ vỡ về mọi mặt của đất nước và xã hội sau chiến tranh. Khi một dân tộc đã không thể phủ nhận nhau hoặc tiêu diệt lẫn nhau, chỉ còn một giải pháp duy nhất phải hòa giải để có thể tiếp tục cộng sinh. Không còn chọn lựa nào khác. Trừ chiến tranh để giết cho hết những người chưa chết. Hòa giải và hòa hợp dân tộc, vì thế, là một bắt buộc của lịch sử. Gian trá, trốn tránh, lần lữa, thực hiện tiến trình Hòa giải và hòa hợp dân tộc là thái độ trốn trách nhiệm trước 95 triệu người Việt Nam hôm nay và muôn vàn thế hệ Việt Nam mai sau. (Sơn Dương)
Trong vô số đặc ngữ, thuật ngữ, khái niệm chính trị đã bị đánh tráo, xuyên tạc nội hàm và ngữ nghĩa trên chính trường Việt Nam hiện nay, người ta cần sự điềm tĩnh, lương thiện tư duy và sự phân tích khách quan của khoa học mới hy vọng không trở thành những người điên nói nhảm. Lấy thí dụ khái niệm "Hòa giải và hòa hợp dân tộc" hằng có ngữ nghĩa và nội hàm chính xác nhưng đã bị chế độ cộng sản Việt Nam, ngụy trí thức cộng sản và cả người không cộng sản khinh miệt tẩy chai đến độ nghe đến chủ trương Hòa giải và hòa hợp dân tộc của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là nổi giận. Thường giận mất khôn.

Hòa giải và hòa hợp dân tộc là một cụm từ dài nhưng có ý nghĩa rõ ràng và thứ tự diễn tiến không thể đảo ngược, hay cắt phần này bỏ phần kia. Dùng bất cứ tự điển Tây Ta nào, hòa giải được định nghĩa tương tự như là tiến trình thương lượng, thuyết phục giữa các thành phần có tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn, oan ức… nhằm tiến đến sự đồng thuận được thực thi trong hòa bình, tránh biện pháp bạo lực hay chiến tranh. Như vậy, ý nghĩa then chốt của cụm từ này là hòa giải trước tiên chứ không phải hòa hợp. Hòa hợp là hệ quả có thể mong đợi sau khi hòa giải thành công. Đảo ngược tiến trình này hoặc chỉ nói hòa hợp mà không lời hòa giải là bịp bợm.
Hòa giải và hòa hợp dân tộc là triết lý điều hành quốc gia, là tinh thần cộng sinh bao dung hòa bình trên những đất nước đã trải qua nội chiến tương tàn cần phải hàn gắn lại những đổ vỡ về mọi mặt của đất nước và xã hội sau chiến tranh. Khi một dân tộc đã không thể phủ nhận nhau hoặc tiêu diệt lẫn nhau, chỉ còn một giải pháp duy nhất phải hòa giải để có thể tiếp tục cộng sinh. Không còn chọn lựa nào khác. Trừ chiến tranh để giết cho hết những người chưa chết. Hòa giải và hòa hợp dân tộc, vì thế, là một bắt buộc của lịch sử. Gian trá, trốn tránh, lần lữa, thực hiện tiến trình Hòa giải và hòa hợp dân tộc là thái độ trốn trách nhiệm trước 95 triệu người Việt Nam hôm nay và muôn vàn thế hệ Việt Nam mai sau.
Khó khăn lớn nhất của giải pháp Hòa giải và hòa hợp dân tộc không phải phía cộng sản Việt Nam mà là văn hóa và tâm lý của người Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam đã thủ lợi tuyệt đối dựa trên nền văn hóa này. Văn hóa và tâm lý bạo lực, mạnh được yếu thua, đã ăn sâu vào não trạng của người Việt trong hàng ngàn năm lịch sử. Sự hòa giải dân tộc như một giá trị cộng sinh mới mẻ của thời đại đã bị cả hai anh em trong gia đình Việt Nam phủ nhận, miệt thị và nguyền rủa trong vô thức hoặc cả trong ý thức. Hòa giải và hòa hợp dân tộc với Đảng cộng sản Việt Nam thì đã rạch ròi dứt khoát không. Không có hòa giải gì tất. Họ đã chiến thắng. Họ tự quyền áp đặt sự cai trị. Mọi chống đối, chỉ trích, phê bình bị trừng trị bằng công an và nhà tù. Cho ‘hòa hợp dân tộc’ đã là khoan hồng. Nhưng ngược lại, bạo lực của Đảng cộng sản Việt Nam cũng giúp cho những người dân chủ không lãng mạn trong cuộc đối đầu với chế độ cộng sản Việt Nam. Hơn bao giờ hết, người ta đã ý thức được chìa khóa giải thể chế độ cộng sản Việt Nam là ép buộc được chúng vào thế chẳng đặng đừng.
Giống như thằng bé chơi dại tự buộc dây vào cổ, thập niên 80 Đảng cộng sản Việt Nam đã tự mình phải tháo dây treo cổ. Sự tự mãn phát sinh từ chiến thắng ‘Mỹ Ngụy’ và giải phóng miền Nam đã làm Đảng cộng sản Việt Nam mê sảng. Họ ngạo mạn với khả năng trời biển có thể dùng bạo lực cải tạo nền kinh tế miền Nam tiến lên xã hội chủ nghĩa nhanh chóng cho bằng miền Bắc. Các chính sách phản kinh tế như ngăn sông cấm chợ đã đưa đất nước vào cảnh suýt chết đói. Đảng cộng sản Việt Nam bị bắt buộc phải tháo dây ngăn sông cấm chợ vì nguy cơ mất kiểm soát chính trị vì dân đã bị đói.
Trước năm 1979, sự đoàn kết răng hở môi lạnh với Trung Quốc, tình hữu nghị đời đời bất diệt giữa Việt Nam và Trung Quốc là bài bản được tuyên giáo cộng sản Việt Nam ca ngợi rền rĩ trên các loa phường và báo đài quốc doanh. Đến khi Trung Quốc bất thần xua quân tấn công qua biên giới Việt Nam thì tình hữu nghị tan vỡ. Chiến tranh biên giới đã làm thiệt hại nặng nề nhân mạng và tài sản người Việt Nam Nhưng đụng độ với Trung Quốc, nguy cơ Đảng cộng sản Việt Nam bị mất quyền cai trị Việt Nam còn nghiêm trọng hợn. Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã rơi vào thế bị triệt buộc phải qua hòa giải với Trung Quốc để sống còn. Hệ lụy như ta đã thấy là Hội nghị Thành Đô 1990.
Thời sự nóng bỏng hiện nay về vụ kiện thế kỷ của công dân Hà Lan Trịnh Vĩnh Bình có thể quy chiếu để chấm dứt các giải pháp kiến nghị, phản đối, xin xỏ, mong đợi Đảng cộng sản Việt Nam tự nguyện hồi tâm tôn trọng lẽ phải và công lý. Tòa án Quốc tế đã phán xử Chính quyền cộng sản Việt Nam phải bồi thường 40 triệu đô la vì đã vi phạm các điều lệ trong Hiệp định Khuyến khích và Bảo vệ Đầu tư đã được ký kết giữa chính phủ Hà Lan và Chính quyền cộng sản Việt Nam. Tại sao Chính quyền cộng sản Việt Nam phải bồi thường nhục nhã thế ? Họ đã từng ký nhiều văn kiện quốc tế, như Hiệp định Paris 1973, và đã nuốt trọng chữ ký mà ai đã dám làm gì. Nhưng lần này Chính quyền cộng sản Việt Nam phải bồi thường vì không còn chọn lựa nào khác. Tòa án Quốc tế có thể ra lệnh tịch biên tài sản hoặc phong tỏa các trương mục của Chính quyền cộng sản Việt Nam ở các nước tư bản nếu chính quyền cộng sản Việt Nam không thi hành án. Tài sản ở nước ngoài quá lớn bị đe dọa buộc chính quyền cộng sản Việt Nam phải ‘hy sinh’ trả nợ nhỏ. Càng trả sớm càng khỏi phải trả thêm tiền lời và tiền ‘thiệt hại tinh thần’ cho Trịnh Vĩnh Bình.
Bản chất của chế độ cộng sản Việt Nam như thế đã rõ, vấn đề nan giải là hình thành một lực lượng dân chủ Việt Nam. Lực lượng này phải có tiềm năng chính trị buộc được Đảng cộng sản Việt Nam vào thế phải thực hiện tiến trình Hòa giải và hòa hợp dân tộc như đã ghi trong Hiệp định Paris 73. Không có lực lượng này, chế độ cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục làm cơn ác mộng của cả dân tộc Việt Nam.
Nhưng nan giải không có nghĩa không giải được. Sự cai trị của Đảng cộng sản Việt Nam sau hơn 40 năm áp đặt ‘thống nhất’ đã chứng tỏ đây là một đảng chính trị gian trá. Từng ngày trong đời sống của xã hội Việt Nam có vô số chứng minh cho nhận định này. Không phải qua các trang mạng xã hội bị chế độ cộng sản Việt Nam quy chụp là phản động mà chính trên báo giới truyền thông quốc doanh. Sự hoành hành tự tung tự tác của liên minh ma quỷ, tiền, quyền, thẻ đảng và tư bản rừng rú trên xã hội đã lên mức cao điểm.
Những điều kiện căn bản cho một cuộc cách mạng đã xuất hiện. Đảng cộng sản Việt Nam đã mất lý tưởng làm nền tảng cho đảng viên quyết sống chết với chế độ. Lý tưởng cộng sản không còn thuyết phục được ai. Đảng cộng sản Việt Nam đã ung thối, chia rẽ, phân hóa và đang vật vã tìm lý cớ để tồn tại. Người dân đã nhận chân được chế độ cộng sản Việt Nam như một u bướu ung thư ác tính cần phải cắt bỏ. Người dân mong đợi một chế độ mới biết tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do của người dân, không tham nhũng, không ngồi lên pháp luật, không bao che các đảng viên vi phạm pháp luật, không hèn với giặc, ác với dân. Cuối cùng là sự mong đợi một lực lượng chính trị mới như một giải pháp chính trị đáp ứng được nguyện vọng của toàn dân xuất hiện. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đang nỗ lực để trở thành một thành phần xứng đáng của lực lượng mới ấy.
Chưa cần đến đồng thuận trong từng chi tiết trong giải pháp Việt Nam hiện tại, để có thể xây dựng một lực lượng chính trị người ta cần phải đồng thuận trên những mục tiêu căn bản. Như đồng thuận về một quốc gia mới dân chủ đa nguyên, lấy tinh thần Hòa giải và hòa hợp dân tộc chỉ đạo các chính sách điều hành xã hội bằng một phương pháp hòa bình như bất bạo động. Tổ chức những cuộc xuống đường bất tuân dân sự, đình công, bãi thị, bãi trường, ngưng mọi sinh hoạt kinh tế là những hình thức đấu tranh bất bạo động. Có được sự đồng thuận căn bản này, một lực lượng chính trị đối lập với Đảng cộng sản Việt Nam sẽ thành hình.
Những chướng ngại cho giải pháp Hòa giải và hòa hợp dân tộc hiện nay cũng cần được nhận diện để hóa giải. Nền văn hóa dùng bạo lực giải quyết xung đột đã ăn sâu vào tâm lý người Việt Nam nhưng có thể thay đổi nhờ vào mạng lưới internet. Chỉ cần một giây, những thông tin trên khắp thế giới có sẵn để người đọc biết đến, kiểm tra, đối chiếu, phân tích độc lập. Tuyên giáo đã mất độc quyền. Những giá trị xưa cũ lỗi thời trên thế giới đang bị đào thải nhường bước cho những giá trị mới.
Hòa giải dân tộc là một giá trị mới đang được tôn trọng trên thế giới văn minh. Tại các quốc gia tiên tiến luôn có một ngày dành riêng cho giá trị này, thậm chí như tại Úc Đại Lợi, còn có cả ngày Xin Lỗi Toàn Quốc (National Sorry Day, ngày 26/5). Ngày này Chính phủ Úc xin lỗi những người dân đã bị thiệt hại vì các chính sách điều hành xã hội. Chắc chắn trong niên lịch của Đảng cộng sản Việt Nam không có những ngày cảm động như thế. Ít ra cho đến khi một lực lượng chính trị đối lập xuất hiện.
Cũng cần nhận diện những suy nghĩ cảm tính của người không cộng sản để hóa giải vì tương lai đất nước. Hòa giải và hòa hợp dân tộc là một giải pháp hòa bình để người Việt Nam có thể cộng sinh hài hòa theo dòng sinh mệnh của dân tộc. Dân tộc nào cũng thế, dù có thể vì nhiều lý do khác nhau đã đưa đến chiến tranh nhưng nếu không tiêu diệt được nhau thì phải hóa giải xung đột để có thể cộng sinh. Hòa giải đòi hỏi người gây thiệt hại phải xin lỗi và bồi thường cho người bị thiệt hại. Người bị thiệt hại cũng không được tầm thù báo oán khi đã chấp nhận sự hòa giải.
hghhdt02
Chim bồ câu tung cánh : biểu tượng của hy vọng và tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
Không ít người có ác cảm với Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên vì ngộ nhận rằng giải pháp Hòa giải và hòa hợp dân tộc là sự xin xỏ kẻ chiến thắng ? Không thể sai hơn vì Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên không van xin mà là đòi hỏi và áp lực cộng sản Việt Nam phải thực hiện Hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Mặt khác, chính vì Đảng cộng sản Việt Nam không chấp nhận Hòa giải và hòa hợp dân tộc mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên buộc họ phải thực hiện. Nếu nói rằng vì Đảng cộng sản Việt Nam không chịu Hòa giải và hòa hợp dân tộc, chúng ta đòi hỏi chỉ vô ích, vậy tại sao chúng ta lại tiếp tục kiên trì, bất chấp sự đánh đập, tù đày, kể cả ‘tự tử trong đồn công an’, tranh đấu cho quyền con người, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền biểu tình, quyền tự do ứng cử và bầu cử, quyền được bình đẳng trên pháp luật… những quyền chính trị mà chế độ cộng sản Việt Nam đã dứt khoát khước từ ?
Tại sao chế độ cộng sản Việt Nam khước từ hòa giải và hòa hợp dân tộc mà những người phản đối giải pháp hòa giải và hòa hợp dân tộc của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên lại thể đồng ý với chúng để cũng khước từ hòa giải và hòa hợp dân tộc như chúng ?
Có nhân sĩ, học giả ăn bã tuyên huấn cộng sản Việt Nam lên giọng phải quên đi quá khứ vì đất nước đã thống nhất, hết chiến tranh rồi ? Nhưng họ không giải thích tại sao lại không phải là sòng phẳng với quá khứ. Sòng phẳng với quá khứ mới có thể đưa đến hòa hợp. Trấn áp quá khứ mới đưa đến cơn giận không nguôi. Với những thương tật trên cơ thể của đất nước và con người Việt Nam hiện nay làm sao có thể đi đến hòa hợp mỗi khi, và nhất là, mỗi năm chế độ cộng sản Việt Nam liên hoan mừng đại thắng 30/4 chỉ gây thêm cơn đau nhức ?
Có nhân sĩ, học giả còn dạy rằng muốn có Hòa giải và hòa hợp dân tộc thì phải có sự xin lỗi của kẻ ác, phải bồi thường dù là tượng trưng cho kẻ bị thiệt hại. Những người này mới phát minh ra bánh xe. Từ thập niên 1980 khi đưa ra ‘Cơ sở Tư tưởng’, ‘Thành công Thế kỷ 21’, Thử thách và Hy vọng’ (năm 2001), Khai sáng Kỷ nguyên thứ Hai (2015) Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã đòi hỏi hành động hòa giải như thế.
"Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ phải phục hồi danh dự cho những người đã bị hạ nhục, phải bồi thường thiệt hại dù chỉ là một cách không đầy đủ, cho những nạn nhân mà không tạo ra những nạn nhân mới"
(trích Khai sáng Kỷ nguyên thứ 2, trang 78).
Cuối cùng, một số đông người tỏ ra không thiện cảm với giải pháp Hòa giải và hòa hợp dân tộc vì không tin vào một giải pháp nào có thể thực hiện được với sự ngoan cố của Đảng cộng sản Việt Nam. Hoặc họ đã tuyệt vọng, dù chưa bao giờ hành động, cảm thấy quá khó khăn và có thái độ buông xuôi. Họ không ý thức được thái độ chính trị của họ đang được Đảng cộng sản Việt Nam ngầm tán thưởng để sự kéo dài chế độ. Nhân dân đừng lo, mọi chuyện có Đảng lo ! Như Tú Xương giải thích thái độ kẻ sĩ của ông trong thế kỷ trước ‘thiên hạ đều đang ngủ cả, việc gì thức một mình ta’.
Tuy những lý lẽ và thái độ của một số những học giả, nhân sĩ, trí thức… có thể gây khó khăn cho sự thành hình một lực lượng dân chủ Việt Nam nhưng không ai phủ nhận được giá trị của giải pháp Hòa giải và hòa hợp dân tộc. Trong lúc thiếu vắng một giải pháp khả thi khác hơn Hòa giải và hòa hợp dân tộc từ những trí thức chính trị và các tổ chức chính trị, nổ lực cố gắng xây dựng một lực lượng chính trị chấp nhận chia sẻ những đồng thuận căn bản là bước triệt buộc cho phong trào dân chủ Việt Nam.
Sơn Dương
(14/04/2019)