'Trung Quốc dự liệu đúng về Liên Xô khi tấn công Việt Nam năm 1979' (VNExpress)
Bài báo này một lần nữa cho chúng ta thấy sự thiếu viễn kiến của Ban lãnh đạo ĐCSVN. Họ không biết là Liên Xô đã kiệt quệ nên không thể giúp VN. Họ không biết âm mưu của TQ là đánh VN để lấy điểm với Mỹ. Họ không biết rằng đánh Polpot ở biên giới là một chuyện còn đem quân chiếm đóng Campuchia lại là một chuyện khác. Trái với tuyên truyền của VN, hành động chiếm đóng Campuchia của VN đã bị thế giới lên án và cấm vận trong khi hành động xâm lược của TQ dưới danh nghĩa "dạy cho VN một bài học" lại được châm chước bỏ qua.
Lãnh đạo Bắc Kinh phán đoán Liên Xô không mạo hiểm huy động lực lượng lớn đánh trả Trung Quốc, dù Việt - Xô quan hệ khăng khít.
Cách đây 40 năm (17/2/1979), Trung Quốc nổ súng tấn công 6 tỉnh biên
giới phía Bắc Việt Nam, gây nhiều đau thương cho người dân. VnExpress có
cuộc trao đổi với Thiếu tướng, Giáo sư Nguyễn Hồng Quân, nguyên Phó
viện trưởng Viện Chiến lược quốc phòng về những mưu toan của Bắc Kinh
khi gây chiến.
- Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc rạn nứt từ thời điểm nào, thưa ông?
- Để hiểu rõ hơn, cần đặt mối quan hệ Việt - Trung trong mối
quan hệ cũng như tính toán chiến lược giữa các nước lớn. Cụ thể là giữa
Việt Nam - Trung Quốc; Liên Xô - Trung Quốc và Liên Xô - Mỹ.
Giai đoạn 1950-1964 được coi là thời kỳ "trăng mật" của quan hệ Việt -
Trung. Hai nước là láng giềng gần gũi, hữu nghị truyền thống, chung ý
thức hệ, chung nhu cầu đảm bảo an ninh quốc gia. Vì thế Trung Quốc là
nước viện trợ hàng đầu cho Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ.
Việt Nam cũng luôn ủng hộ đường lối đối ngoại của Trung Quốc, tuy không
ký kết bất kỳ hiệp định đồng minh chính thức nào.
Dù vậy, Bắc Kinh luôn giữ tư tưởng bề trên. Luôn nói "không gây sức ép
về chính trị, kinh tế thông qua viện trợ", nhưng Trung Quốc lại muốn
Việt Nam thừa nhận vai trò lãnh đạo của nước này với phong trào giải
phóng dân tộc trong khu vực và thế giới.
Từ giữa thập niên 1960, Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung
Quốc công khai mâu thuẫn, đối đầu toàn diện. Để tránh Việt Nam đứng về
phía Trung Quốc, Liên Xô tìm cách lôi kéo Việt Nam.
Trung Quốc muốn Việt Nam chỉ đánh du kích có giới hạn chống Mỹ, để họ dễ
bề điều khiển, phục vụ ý đồ bắt tay với Mỹ. Trong khi Việt Nam muốn
thống nhất đất nước. Việt Nam cũng muốn trực tiếp đàm phán với Mỹ, không
qua trung gian và đã đàm phán từ năm 1968. Còn Trung Quốc thì phản đối,
muốn Việt Nam tiếp tục chiến tranh đến khi Mỹ chấp nhận thua cuộc mới
đàm phán.
Năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và Trung - Mỹ ra thông cáo
chung. Có ý kiến coi hành động này là sự phản bội của Trung Quốc. Cùng
với đó, Trung Quốc cắt giảm viện trợ cho Việt Nam nhằm tìm kiếm cơ hội
đàm phán với Mỹ.
Năm 1974, Trung Quốc cưỡng chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam)
trong sự làm ngơ của Mỹ. Một năm sau, Việt Nam và Liên Xô ra Tuyên bố
Việt - Xô, xác định quan hệ toàn diện giữa hai Đảng. Tháng 11/1978, Việt
Nam và Liên Xô ký Hiệp ước Hữu nghị, hợp tác. Cùng năm đó, Việt Nam gia
nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV) và được Liên Xô gọi là "tiền đồn
đáng tin cậy của các nước XHCN ở Đông Nam Á".
Cuối năm 1978, Liên Xô ký thỏa thuận với Việt Nam về việc xây dựng và
cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật tại Cam Ranh trong 25 năm.
Theo đó, Cam Ranh trở thành nơi tiếp nhận tàu chiến, tàu ngầm, tàu hộ
tống, máy bay trinh sát, vận tải và máy bay mang tên lửa thuộc Hạm đội
Thái Bình Dương của Liên Xô. Việt - Xô gần gũi và thân thiết bao nhiêu,
thì lãnh đạo Trung Nam Hải lúc ấy tức tối bấy nhiêu.
Sau năm 1975, Trung Quốc tăng cường viện trợ cho Pol Pot ở Campuchia,
đây cũng là khoảng thời gian đội quân này mạnh tay tàn sát dân lành Việt
Nam dọc biên giới Tây Nam, đẩy mâu thuẫn hai nước thêm gay gắt.
Khi Việt Nam đưa quân phản kích Pol Pot, giúp nhân dân Chùa Tháp thoát khỏi nạn diệt chủng thì quan hệ Việt - Trung lao dốc.
- Tam giác quan hệ Xô - Trung - Mỹ ảnh hưởng ra sao đến việc Bắc Kinh quyết định tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam?
- Đầu thập niên 1970, lãnh đạo Trung Quốc theo đuổi chiến lược toàn cầu
chống Liên Xô, dựa trên cơ sở hướng tới hợp tác với Mỹ. Tuy nhiên thời
điểm này Washington không hưởng ứng. Trung Quốc tin rằng lý do là Mỹ
đang quan tâm hơn đến chính sách hoà dịu với Liên Xô.
Khi Trung Quốc lập liên minh chống Liên Xô, Việt Nam phản đối. Trung
Quốc giảm mạnh viện trợ và đến năm 1978 thì cắt toàn bộ. Một trong những
điều kiện để Trung Quốc nối lại viện trợ là Việt Nam phải từ chối tất
cả các khoản viện trợ của Liên Xô. Trước việc Việt Nam quan hệ chặt chẽ
hơn với Liên Xô, Trung Quốc gọi Việt Nam là "tiểu bá", còn Liên Xô là
"đại bá".
Đặc biệt sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam được ký kết (ngày 27/1/1973), quan hệ Trung - Xô - Việt
phức tạp hơn, lợi ích và xung đột về kinh tế, chính trị đan xen, rạn nứt
Việt - Trung ngày càng rõ nét.
Ngày 1/11/1977, Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc gọi Liên Xô là
kẻ thù nguy hiểm nhất và coi Mỹ là đồng minh. Đầu tháng 4/1978, Liên
Xô tuyên bố sẽ triển khai trên tuyến biên giới các hệ thống vũ khí
mới. Mặt khác, Liên Xô cố gắng kéo dài hiệp ước hữu nghị, hợp tác Xô -
Trung ký năm 1950 nhưng Trung Quốc tuyên bố chấm dứt sớm một năm.
Đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố khả năng một cuộc chiến tranh tổng
lực chống Liên Xô và tập trung 1,5 triệu quân dọc biên giới hai nước.
Ngược lại, Liên Xô triển khai hơn 40 sư đoàn, thường xuyên tập trận bắn
đạn thật.
Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Trung Quốc Đặng Tiểu Bình
(trái) và Tổng thống Jimmy Carter tại Nhà Trắng năm 1979. Ảnh: AFP
|
Trung Quốc tin rằng Liên Xô và Việt Nam đang phối hợp để đe doạ nước
này, nhất là Việt Nam cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh. Giới lãnh đạo
Bắc Kinh cũng khó chịu vì nỗ lực của Việt Nam trong việc thiết lập quan
hệ đặc biệt với Lào và hợp tác toàn diện với Campuchia. Thậm chí, Bắc
Kinh cho rằng Liên Xô hậu thuẫn Việt Nam đưa quân vào đánh đuổi Pol Pot,
giải phóng Campuchia. Vậy nên dưới góc nhìn của Trung Quốc, Việt Nam là
mối đe doạ quân sự nghiêm trọng, cần thiết phải phát động cuộc chiến
tranh "trừng phạt".
- Cuộc xâm lược dưới danh nghĩa "trừng phạt" đó được lên kế hoạch như thế nào?
- Khi bàn kế hoạch tấn công Việt Nam, Trung Quốc đã tính toán kỹ các khả
năng Liên Xô có thể đáp trả. Họ nhận định Liên Xô sẽ không mạo hiểm huy
động lực lượng lớn để tấn công Trung Quốc song có thể xúi giục các phần
tử dân tộc thiểu số lưu vong tấn công các vùng xa xôi như Nội Mông, Tân
Cương hoặc gây đụng độ nhỏ kích động căng thẳng ở biên giới.
Các lãnh đạo Trung Quốc phán đoán cuộc tấn công Việt Nam chớp nhoáng, có
giới hạn sẽ không đủ để kích thích Liên Xô can thiệp trực tiếp hay quốc
tế phản đối. Tuy vậy, Bắc Kinh vẫn di tản dân gần đường biên và lệnh
các đơn vị quân đội ở biên giới với Liên Xô sẵn sàng chiến đấu.
Việc tấn công Việt Nam còn để Bắc Kinh thăm dò khả năng giúp đỡ của Liên
Xô và khả năng phòng thủ của Việt Nam khi là thành viên của Hội đồng
tương trợ kinh tế (SEV). Đến nay nhìn lại, cần thừa nhận rằng Trung Quốc
đã dự liệu đúng phản ứng của Liên Xô.
Đối với Mỹ, thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam là một chấn thương
nặng nề mà họ đang ôm trong lòng. Đồng thời, Mỹ muốn tìm kiếm mối quan
hệ chặt chẽ với Trung Quốc để tạo thế cân bằng trước Liên Xô.
Trung Quốc nhận thấy điều đó nên hy vọng bình thường hoá quan hệ với Mỹ
sẽ cải thiện vị trí chiến lược của nước này, tạo điều kiện thuận lợi cho
cải cách kinh tế. Xa hơn, đánh Việt Nam, Trung Quốc sẽ thuyết phục Mỹ
rằng hai nước có lợi ích chung và sẵn sàng hợp tác chống Liên Xô.
Vì vậy, Trung Quốc lựa chọn thời điểm tấn công Việt Nam ngay sau chuyến công du Mỹ của Đặng Tiểu Bình.
- Còn vấn đề Hoa kiều thì sao thưa ông?
- Tháng 4/1978, Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp ở miền
Nam, ít nhiều liên quan tới người Hoa là thương nhân, nhà sản xuất, tiểu
thủ công nghiệp... Đây là công việc đối nội của Việt Nam, nhưng Trung
Quốc coi là sự thách thức với chính sách bảo vệ Hoa kiều của Bắc Kinh.
Phong trào đòi lấy quốc tịch Trung Quốc trong người Hoa ở Việt Nam nổi
lên. Trung Quốc loan tin trong cộng đồng người Việt gốc Hoa về cuộc
chiến tranh không thể tránh khỏi giữa hai nước, khiến cộng đồng người
Hoa hoảng hốt.
Năm 1978, người Hoa ở Việt Nam ồ ạt kéo về Trung Quốc. Đến tháng 2/1979,
đã có khoảng 160.000 Hoa kiều hồi hương từ Việt Nam bằng đường
biển hoặc đường bộ qua cửa khẩu Hữu Nghị.
Trung Quốc lập các trạm đón tiếp dọc biên giới và đưa tàu sang đón người
Hoa về. Ngày 12/7/1978, Trung Quốc đóng cửa biên giới với Việt Nam, làm
cho hàng vạn người Hoa muốn về Trung Quốc bị kẹt tại biên giới.
Đặng Tiểu Bình lấy cớ cho rằng Hà Nội "vong ơn, bội nghĩa" tạo thêm sức ép cho quyết định tấn công Việt Nam.
- Cuộc phản công Pol Pot của Việt Nam ở biên giới Tây Nam ảnh hưởng ra sao đến kế hoạch của Bắc Kinh?
- Theo tài liệu của Trung Quốc, tháng 9/1978, Bộ Tổng tham mưu Quân Giải
phóng nhân dân Trung Quốc đã họp bàn về vấn đề xung đột biên giới với
Việt Nam. Lúc đầu, Bắc Kinh dự định tiến hành chiến dịch quy mô nhỏ nhằm
vào một trung đoàn bộ đội địa phương huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
của Việt Nam nằm sát đường biên giới với tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Tuy nhiên, sau khi có tin Việt Nam sắp phản công tự vệ ở biên giới Tây
Nam và tiến công Pol Pot ở Campuchia, thì đa số giới lãnh đạo Bắc Kinh
đặt quyết tâm, bất kỳ hành động quân sự nào cũng phải gây ảnh hưởng đáng
kể với Hà Nội và tình hình Đông Nam Á. Họ chủ trương tiến công các đơn
vị quân chính quy của Việt Nam trên địa hình rộng lớn.
Riêng Đặng Tiểu Bình nhìn thấy cả thách thức lẫn cơ hội trong mối quan
hệ khó khăn với Việt Nam và cho rằng cách giải quyết tốt nhất là hành
động quân sự. Tháng 1/1978, trong chuyến thăm chính thức Thái Lan,
Malaysia, Singapore nhằm dò xét và tìm sự hậu thuẫn, Đặng tuyên bố sẽ
tiến công Việt Nam nếu nước này tiến vào Campuchia. Trong chuyến thăm
này, Đặng tuyên bố với báo giới "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt
Nam bài học". Hôm sau, báo chí Trung Quốc rút gọn thành "phải dạy cho
Việt Nam bài học".
Ngày 7/12/1978, Hội nghị Quân uỷ Trung ương Trung Quốc họp và quyết định
phát động "Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam". "Mệnh lệnh
triển khai chiến lược" được ban hành một tháng sau đó, nêu rõ mục đích
cuộc chiến là "chi viện cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân
Campuchia chống Việt Nam xâm lược".
- Bắc Kinh đã tính toán như thế nào khi huy động 600.000 quân trong cuộc tấn công xâm lược này thưa ông?
- Lúc đầu Bắc Kinh dự tính sử dụng 6 quân đoàn chủ lực đánh 3-5 ngày vào
một số huyện biên giới, tiêu diệt một đến hai sư đoàn Việt Nam. Ngày
31/12/1978, Quân ủy Trung Quốc lại họp hội nghị tác chiến, quyết định mở
rộng quy mô chiến tranh, tăng thêm 3 quân đoàn, đổi mục tiêu tấn công
huyện lỵ thành các tỉnh lỵ biên giới; thời gian kéo dài lên 15-20 ngày,
nhằm tiêu diệt 3 đến 5 sư đoàn Việt Nam.
Sự chuẩn bị của Bắc Kinh diễn ra khá lâu trước khi quân đội Việt Nam
vượt sông Mê Kông đã chứng minh rõ ràng việc Trung Quốc rêu rao "trả
đũa" Việt Nam tiến quân vào Campuchia chỉ là cái cớ. Từ lâu, Trung Quốc
vẫn giữ tư tưởng bá quyền nước lớn, ngấm ngầm tìm cách đánh Việt Nam.
Trung Quốc coi cuộc chiến chống Việt Nam là phép thử với quan hệ Xô -
Việt và lôi kéo Mỹ cùng chống lại Liên Xô. Đó mới là lý do sâu xa của
cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc từ tháng 2/1979.
- Việt Nam đã ứng phó ra sao trước âm mưu và hành động của Bắc Kinh?
- Đối phó lại việc Trung Quốc tập trung bộ binh và vũ khí hạng nặng tại
biên giới, Việt Nam tăng cường chuẩn bị các vị trí phòng ngự, sẵn sàng
cho cuộc chiến.
Lúc đó ở ta cũng có ý kiến tự hào vì được trang bị vũ khí của Liên Xô và
của Mỹ thu hồi được, hơn hẳn trang bị của quân đội Trung Quốc. Tuyên bố
của Đặng Tiểu Bình chỉ một tuần trước khi nổ súng, rằng chiến dịch quân
sự này sẽ "giới hạn về không gian và thời gian" khiến có người tin
tưởng khả năng cầm chân quân Trung Quốc ở biên giới chỉ bằng dân quân và
bộ đội địa phương.
Chúng ta đã huấn luyện và trang bị vũ khí hạng nhẹ cho dân quân các tỉnh
biên giới. Ngày 1/1/1979, các lực lượng vũ trang biên giới được lệnh
chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Ngày 15/2/1979, ngoại trừ
các xã biên giới và một vài đơn vị, các lực lượng trên tuyến một được
lệnh hạ cấp xuống trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Một số đơn
vị cho một phần bộ đội về trạng thái sinh hoạt bình thường, điều chỉnh
lại đội hình.
Ngày 12/2/1979, Quân uỷ Trung ương Trung Quốc ra mệnh lệnh tấn công Việt Nam vào sáng 17/2.
Sáng sớm hôm đó, Trung Quốc huy động 29 sư đoàn bộ binh thuộc 9 quân
đoàn chủ lực ồ ạt tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam. Cùng ngày, Nhân dân Nhật báo đăng
bài "Không thể nhẫn chịu, thật không thể nhẫn chịu - báo cáo từ biên
giới Trung-Việt" như cách công bố với thế giới Bắc Kinh đã tấn công Việt
Nam.
Trung Quốc còn thâm độc khi lựa chọn tấn công vào ngày Thứ Bảy. Khi đó,
các phương tiện truyền thông còn khá lạc hậu, nên phải đến đầu tuần sau
thông tin chi tiết về cuộc chiến cũng như phản ứng của Việt Nam mới được
thế giới biết đến rộng rãi.