IG Metall – Một tấm gương cho Lao Động Việt và công nhân Việt Nam (Thạch Đạt Lang)
Tuy
nhiên điều quan trọng nhất vẫn là xây dựng ý thức tập thể, biết đoàn
kết cho người lao động Việt, để họ biết nhìn xa, biết cần phải hi sinh
một chút quyền lợi nhỏ để tạo thành sức mạnh đòi hỏi, tranh đấu cho
những quyền lợi to lớn, vững chắc, lâu dài. (Thạch Đạt Lang)
Ngày
12/11/2018, quốc hội chế độ cộng sản Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp Định
Đối Tác Toàn Diện và Tiến Bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Việt Nam như
vậy là nước thứ 7 sau New Zealand, Canada, Mexico, Singapore, Nhật bản,
Australia đồng ý tham gia hiệp định theo những điều khoản đã được quy
định.
Điều
này đồng nghĩa chế độ cộng sản Việt Nam phải chấp thuận cho người lao
động được phép thành lập công đoàn độc lập, không bị bắt buộc tham gia
các công đoàn do chính phủ thành lập hay tài trợ.
Tuy
nhiên, cho dù có cam kết tôn trọng các điều khoản của hiệp định CPTPP,
việc thành lập công đoàn độc lập cho các ngành, nghề chắc chắn còn rất
nhiều trở ngại, khó khăn, phần vì cộng sản Việt Nam chưa bao giờ tôn
trọng các hiệp định, hiệp ước đã ký với quốc tế, phần vì những người
lãnh đạo các phong trào thành lập công đoàn sẽ bỡ ngỡ, chưa có nhiều
kinh nghiệm hoạt động, tổ chức, vận động...
Bài
viết do đó có mục đích giới thiệu với các bạn trẻ trong phong trào Lao
Động Việt, những người quan tâm đến cuộc sống cơ cực của người lao động
nói riêng, người dân Việt Nam nói chung, về lịch sử hình thành của IG
Metall, quá trình tranh đấu gay go cho quyền lợi công nhân viên của một
công đoàn độc lập trong nhiều thập niên, để từ đó các bạn có thêm dữ
kiện học hỏi, tranh đấu.
Người viết hoàn toàn không có tham vọng dậy dỗ, khuyên nhủ, hướng dẫn bất cứ ai về bất cứ điều gì với bài viết này.
Quá trình sinh hoạt công đoàn ở Đức
IG
Metall (Industriegewerkschaft Metall) Công đoàn Sắt Thép là công đoàn
độc lập lớn nhất ở nước Cộng hòa liên bang Đức, đồng thời cũng là tổ
chức đại diện người lao động (Employee) lớn nhất trên thế giới với tổng
số gần 2,7 triệu đoàn viên (năm 2011).
Liên
Hiệp Công Nhân Đức được thành lập đầu tiên năm 1878, đặt nền tảng cho
việc thành một công đoàn, đại diện cho công nhân. Tổ chức này bị Otto
von Bismarck (Thủ tướng đầu tiên của đế chế Đức) tìm cách cấm đoán qua
đạo luật xã hội.
Khi
điều cấm đoán được rút lại, năm 1890 Tổng công đoàn Đức hình thành, một
năm sau đó Liên hiệp Công nhân Kim loại Đức (DMV - Deutsche
Metallarbeiter Verband), tổ chức tiền thân quan trọng nhất của IG ra
đời.
DMV
phát triển nhanh chống, trở thành công đoàn độc lập lớn nhất trong Đế
chế Đức và Cộng hòa Weimar. Ngay trong năm 1892 đã có một đại hội với sự
góp mặt nhiều công đoàn khác. Thời gian sau đó cho đến khi Thế chiến
thứ nhất bắt đầu (1914) đã xẩy ra liên tiếp nhiều cuộc đình công của
công nhân hầm mỏ, sắt thép, đóng tàu...
Thế
chiến thứ nhất chấm dứt năm 1918, tháng 11/1918 Đức thành lập Cộng hòa
Weimar, một năm sau (1919) Tổng Liên Đoàn Lao Động Đức ra đời dựa vào
nền tảng đạo luật Tự do liên hiệp (Koalitionsfreiheit = Coalition
freedom) theo đó giới lao động cũng như giới chủ nhân được quyền liên
minh với nhau, căn cứ vào Hiến pháp Cộng hòa Weimar.
Cùng
trong năm, lần đầu tiên các hợp đồng làm việc với mức lương rõ ràng
được hợp thức hóa bằng luật lệ. Những năm tiếp theo, nhiều đạo luật về
lao động như quyền thành lập Hội đồng Cố vấn xí nghiệp
(Betriebsrätegesetz : Works Councils act) năm 1920 hay Luật bảo hiểm
thất nghiệp đã chứng tỏ vai trò quan trọng của các công đoàn độc lập
cũng như của tiền thân IG Metall.
Năm
1928 DMV cho xây dựng nhà truyền thống ở Berlin, đường
Kreuzberger-Linden, người vẽ họa đồ là kiến trúc sư nổi tiếng Erich
Mendelsohn.
Năm
1933 DMV bị xóa sổ khi Hitler lên nắm chính quyền. Chế độ Faschist cấm
tất cả các công đoàn tự do hoạt động. Nhiều đoàn viên DMV bị bắt giam,
không ít người bị tử hình hoặc chết trong tù.
Chiến tranh thế giới lần thứ II chấm dứt, nước Đức chia đôi, phía Tây do Mỹ, Anh, Pháp chiếm đóng, phía Đông là Liên Xô.
Ở
Tây Đức xuất hiện nhiều công đoàn độc lập theo nguyên tắc riêng, lẻ. IG
Metall ra đời năm 1949. Cùng trong năm đó đã có một buổi họp thành lập
Tổng Công Đoàn Đức (DGB : Deutsche Gewerkschaft Bund) IG Metall trở
thành một thành viên trong Tổng Công Đoàn DGB. Đạo luật về thang lương
cũng được thông qua (Tarifvertragsgesetz : Collective Agreement Act)
Quyền
tự do liên hiệp (Coalition freedom) trong hiến pháp Cộng hòa Weimar
trước đó đã được sử dụng lại, trở thành một điều khoản căn bản trong nền
tảng luật pháp của Cộng hòa liên bang Đức.
Cuộc tranh đấu cho quyền lợi người lao động của IG Metall tiến triển qua nhiều giai đoạn.
-
Năm 1951 một đạo luật về quyền tham gia quyết định chính sách, đường
lối của xí nghiệp được ban hành (Mitbestimmungsgesetz : Co-determination
Act).
Theo
đó, những xí nghiệp, hãng xưởng hình thành bởi các cổ phiếu
(Aktiengesellschaft : Jointstock company) hay cổ đông (Share Holder)
trách nhiêm hữu hạn (Kommanditgesellschaft : Limited Partnership with
Stock) hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn (Gesellschaft mit beschränter
Haftung : Limited Partnership) có 2.000 lao động trở lên thì đại diện
người lao động có quyền tham gia vào Hội đồng Giám sát (Aufsichtsrat :
Supervisory Board) với số người tương đương phía chủ nhân.
Trong
trường hợp (thí dụ) như bỏ phiếu để thay đổi chính sách tiền lương, một
kế hoạch sản xuất,... nếu số phiếu hai bên ngang nhau thì chủ tịch Hội
Đồng Giám Sát (Aufsichtrat Vorsitzender : Supervisory Board Chairman)
được phép có 2 phiếu (double match right). Trường hợp Board Chairman có 2
phiếu là để tránh trường hợp không thể đạt được thỏa thuận giữa phía
chủ nhân và đại diện người lao động.
Chủ tịch Hội đồng Giám sát luôn do cổ đông bầu ra, phó chủ tịch là đại diện người lao động.
Cán
cân quyết định mọi việc luôn nghiêng về phía chủ nhân nếu 2 bên không
đạt được thỏa thuận. Điều này phù hợp với luật sở hữu và hiến pháp.
-
Năm 1952 bộ luật hiến định về xí nghiệp (Betriebverfassungsgesetz :
Company Constitution Act) ra đời đặt nền tảng căn bản cho sự phối hợp
làm việc vì ích lợi của cả hai bên, giới chủ nhân cũng như người lao
động.
-
Năm 1954 lần đầu tiên người lao động ở Cộng hòa liên bang Đức được
hưởng tiền lễ Giáng sinh (Weihnachtsgeld : Christmas bonus) do chủ nhân
chi trả.
Số
tiền này thay đổi tùy theo nhiều yếu tố như :- xí nghiệp, hãng, xưởng
lớn hay nhỏ, thời gian làm việc, mức lương của từng người... và thường
được trả vào tháng 11. Mục đích nguyên thủy là để người lao động có tiền
mua quà, tổ chức party, họp mặt gia đình vào những ngày Giáng sinh,
cuối năm.
-
Tháng 10 năm 1956, một cuộc đình công dài nhất trong lịch sử nước Đức
kể từ năm 1905, khởi đi từ Schleswig-Holstein bùng lên, nhanh chóng lan
sang các tiểu bang khác, kéo dài 114 ngày với khoảng 37.000 người, đòi
hỏi giới chủ nhân phải tiếp tục trả lương trong trường hợp người lao
động không thể làm việc do bệnh hoạn.
Nguyên
tắc trước khi quyết định đình công của công đoàn là phải bỏ phiếu thăm
dò (Urabstimmung). Chỉ khi nào đạt được ít nhất 75% số phiếu đồng ý của
đoàn viên (Trade Union Member) thì công đoàn mới tổ chức đình công.
Để
chuẩn bị cho cuộc đình công, IG Metall đưa những cán bộ công đoàn được
huấn luyện thành thạo trong công tác đến từng vùng có các xí nghiệp liên
hệ giải thích, kêu gọi người lao động tham gia đình công.
Truyền
đơn, biểu ngữ được phân phát, các buổi sinh hoạt cuối tuần cho người
lao động được tổ chức để giải thích nguyên nhân, mục đích cuộc đình
công... IG Metall cũng đồng thời thông báo cho báo chí biết.
Lần
đầu tiên môt cuộc đình công lớn, quy mô và dài nhất không đòi tăng
lương nhưng nhằm mục đích đạt được một thỏa thuận định mức (Tarif
vertrag) với các điểm chính nói trên.
Sau
nhiều cuộc đàm phán gay go, hòa giải mâu thuẫn do phía chủ nhân không
muốn việc tiếp tục trả lương cho người bệnh trở thành tiền lệ, hai bên
đã đạt được một Thỏa thuận định mức (Tarifvertrag : Collective
Agreement), theo đó người lao động được tiếp tục hưởng lương 6 tuần
trong trường hợp bệnh hoạn không thể làm việc, được nhiều ngày nghỉ phép
hơn và được một số tiền phụ trội khi đi phép.
Đình công chấm dứt ngày 9/02/1957
Đối với IG Metall, cuộc đình công dài nhất trong lịch sử xã hội Đức đã kết thúc tốt đẹp với những kết quả mỹ mãn.
Chỉ ít tháng sau Quốc hội Đức thông qua đạo luật bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động trong trường hợp bệnh hoạn.
- 1962 : Tiền nghỉ phép (Urlaubsgeld).
Cần
phân biệt tiền nghỉ phép (Urlaubsgeld) và tiền lương khi nghỉ phép
(Urlaubsentgeld). Tiền nghỉ phép là tiền lương được trả phụ trội khi đi
phép ngoài tiền lương hàng tháng. Tiền nghỉ phép thay đổi và tùy thuộc
vào thời gian làm việc lâu hay mới.
Tiền nghỉ phép có thể được trả vào một thời điểm nhất định hoặc đúng vào thời gian đi phép, trước hay sau đó.
- 1965 : Tuần làm việc 40 giờ.
Sau
thế chiến thứ hai, thời gian làm việc cho người lao động thường
48giờ/tuần (6 ngày/8 giờ mỗi ngày). Qua thập niên 50, kinh tế Đức đã
phục hồi nhanh chóng như một phép lạ, Tổng Liên Đoàn Đức (DGB) cảm thấy
đã đến lúc cần phải thương lượng với giới chủ nhân, bớt giờ làm việc cho
người lao động sau khi đã đạt được thỏa thuận cho việc tăng lương rõ
rệt.
Từ
năm 1956 DGB đã bắt đầu mở chiến dịch Tuần Làm Việc 40 giờ với phương
châm : "Ngày thứ bẩy cha tôi thuộc về tôi" (Samstag gehört Vati mir).
Trong năm đó ngành công nghiệp thuốc lá coi như đầu tiên giảm thời gian
làm việc xuống 40giờ/tuần. Một số các ngành khác cũng bắt đầu rút ngắn
thời gian làm việc trong tuần với mức lương như cũ.
Tuy nhiên mãi đến năm 1965 ngành ấn loát mới áp dụng chế độ 40giờ/tuần, qua đến 1967 đến lượt ngành sắt thép, chế biến gỗ.
Lần
lượt các ngành, nghề khác cũng bắt đầu tuần lễ làm việc 40 giờ : 1969
ngành xây dựng, 1970 ngành hóa học, chế biến giấy, vải... 1971 ngành
buôn bán lẻ cũng theo chân các ngành khác.
40 giờ/tuần trở thành khuôn mẫu cho tất cả mọi nghề nghiệp trên nước Đức.
Tài
sản của IG Metall trong năm 1972 đã lên tới 631.000.000 DM (Deutsche
Mark, đơn vị tiền tệ của Đức trước khi hội nhập vào đồng Euro). Tài sản
này hình thành do tiền nguyệt liễm của đoàn viên, được kinh doanh, phát
triển qua nhiều hình thức như thành lập nhà Bank, xây dựng nhà cửa, cao
ốc cho thuê...
- 1978 : Đình công cho Tuần lễ làm việc 35 giờ ở công nghiệp thép.
Tranh luận về Tuần lễ làm việc 35 giờ đã dẫn đến xung đột khốc liệt giữa giới chủ nhân và người lao động.
Sự
tiến bộ của khoa học, kỹ thuật vào thập niên 70, Roboter, máy móc tự
vận hành (Automaten), phân tích, điều hành dữ kiện... bằng những Sensor
cực nhỏ, phương pháp Taylor hợp lý hóa dây chuyền sản xuất... đã làm
tăng mức sản xuất công nghiệp lên đến độ chóng mặt nhưng đồng thời cũng
gây ra một vấn nạn cho nền kinh tế quốc dân.
Đó
là tình trạng thất nghiệp hàng loạt khi con người bị thay thế bởi máy
móc trong các ngành công nghiệp thép, điện, đóng tàu... dẫn đến cuộc
khủng hoảng kinh tế của Đức cuối thập niên 70 sang đầu thập niên 80.
Chỉ trong vòng 3 năm, từ 1980 đến 1983 số người làm việc trong ngành sắt thép đã giảm 10%.
Sự
sa thải hàng hoạt không chỉ xẩy ra trong công nghiệp sắt thép mà cả
trong ngành ấn loát. Trong vòng 10 năm 1973-1983 số lao động làm việc
trong ngành ấn loát giảm bớt 38.511 người, chỉ còn 164.912. Tỉ lệ mất
việc là 20%.
Cộng
hòa liên bang Đức rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế với số người
thất nghiệp lên đến 1.833.000. Trước đó tình trạng thất nghiệp trong 2
năm 1980-1982 là 890.000. Chỉ trong vòng 1 năm tăng gần 1.000.000, hơn
100%. Một con số thật khủng khiếp.
Lãnh
đạo của công đoàn IG Metall đối diện với sự thật bi đát, thấy không còn
cách nào hơn là phải tranh đấu để giảm bớt giờ làm việc cho người lao
động. Theo quan niệm của họ, giảm giờ làm việc sẽ tạo nên chỗ trống
trong xí nghiệp, qua đó xí nghiệp phải tuyển thêm người, tình trạng thất
nghiệp sẽ giảm.
Giới
chủ nhân nghĩ khác. Giảm giờ làm việc sẽ làm tăng chi phí sản xuất, dẫn
đến việc mất khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường. Do đó
giới chủ nhân theo truyền thống của Henry Ford, áp dụng tối đa hợp lý
hóa và dây chuyền sản xuất, giảm thiểu tối đa phí tổn nhân công. Nếu
giảm giờ làm việc thì phí tổn nhân công sẽ tăng lên.
Thật
ra cuộc đấu tranh đòi hỏi tuần lễ làm việc 35 tiếng đã khơi mào từ năm
1978 ở ngành thép (Stahlindustrie) tiểu bang Nordrhein-Westfalen.
Cuộc
đình công của 38.000 người lao động kéo dài 6 tuần lễ coi như là một
thất bại của IG Metall. Họ chỉ nhận được thêm 4% lương, đồng thời được
thêm ngày phép, từng bước sẽ tăng đến 6 tuần trong năm, người lao động
lớn tuổi hoặc làm đêm được thêm ngày nghỉ. Thỏa thuận này (Tarifvertrag)
kéo dài 5 năm.
Mọi cuộc tranh đấu tiếp theo cho quyền lợi người lao động chỉ có thể bắt đầu vào năm 1983 khi thỏa thuận này hết hiệu lực.
Khi
thỏa thuận hết hiệu lực, trong thời gian từ 14/05 đến 04/07/1984 công
nhân ngành sắt thép ở 2 tiểu bang Baden-Württemberg và Hessen bắt đầu
đình công đòi hỏi tuần làm việc 35 giờ, cao điểm lên tới 55.000 người.
Trước
đó đã có những cuộc đàm phán kéo dài nhiều ngày cũng như những cuộc nói
chuyện giữa các lãnh đạo cao cấp công đoàn IG Metall và giới chủ nhân
nhưng không đi đến kết quả nào.
Hiệp
hội chủ nhân tất cả ngành kim loại (Unternehmerverband Gesamtmetall) từ
chối đòi hỏi Tuần Lễ 35 giờ của IG Metall. Thay vào đó họ đề nghị thời
gian làm việc uyển chuyển (Flexible working hours), đồng thời rút ngắn
thời gian làm việc cả đời cho người lao động (Lebensarbeitszeit
Verkürzung) cùng lúc cho về hưu sớm những người lao động lớn tuổi.
Sau
nhiều lần đàm phán thất bại dù IG Metall lẫn hiệp hội chủ nhân đều
xuống nước, phía IG Metall giảm bớt dần những đòi hỏi, phía Hiệp Hội Chủ
Nhân tăng thêm quyền lợi cho người lao động, hai bên đồng ý hòa giải
bởi một hội đồng có 3 trọng tài : cựu bộ trưởng quốc phòng Đức, chủ tịch
công đoàn George Leber và Bernd Rüthers một chuyên gia về luật lao
động.
Một
thỏa hiệp được hình thành với nhiều bước. Trước nhất thời gian làm việc
bình quân trong xí nghiệp sẽ rút ngắn còn 38,5giờ/tuần, từng xí nghiệp
có thể uyển chuyển thay đổi giờ làm việc cho người lao động từ 37 đến
40giờ/tuần. Những bước kế tiếp sẽ là 37 giờ rồi 35giờ/tuần.
Cuộc
đình công chấm dứt trong thời gian bỏ phiếu thăm dò (Urabstimmung) lần
thứ hai từ 29/06 đến 04/07/1984 về bản thỏa hiệp. Khác với Urabstimmung
về đình công, Urabstimmung về thỏa hiệp chỉ cần 25% số phiếu đồng ý thì
thỏa hiệp được chấp nhận. Cả 2 nơi xẩy ra đình công đều đạt được số
phiếu đồng ý trên 52%.
Tuy
nhiên mãi đến năm 1995, tuần làm việc 35 giờ mới thực sự được áp dụng
trong các xí nghiệp ngành kim loại phía Tây Cộng hòa liên bang Đức
(Westdeutschland).
Sau
khi nước Đức thống nhất (không hề có chiến tranh, không hi sinh vài
triệu thanh niên cả hai miền Nam, Bắc), những thành quả đạt được cùng
cấu trúc của các công đoàn, đặc biệt là của IG Metall dần dần được đưa
vào áp dụng bên phía Đông.
Sau
cuộc đình công kéo dài 7 tuần năm 1984, IG Metall không còn tổ chức
cuộc đình công nào gây thiệt hại nặng nề cho cả hai bên, giới chủ và
công đoàn, như vậy nữa. Theo sự ước tính của các chuyên gia, mỗi bên
thiệt hại vào khoảng 4 tỉ DM (thời giá năm 1984).
Để
tránh khơi mào lại một cuộc chiến mà đôi bên đều bị thiệt hại nặng nề,
IG Metall và giới chủ nhân luôn tìm mọi cách thỏa thuận, biết điều với
nhau trước thời hạn chấm dứt hợp đồng.
Sự
thành công của IG Metall Đức cho thấy sức mạnh của tập thể người lao
động, đặc biệt là giai cấp công nhân. Gia nhập thành đoàn viên công
đoàn, hi sinh 1% tiền lương hàng tháng, người lao động đã liên kết với
nhau tạo thành sức mạnh để tranh đấu cho những quyền lợi to lớn, lâu
dài, vững chắc hơn.
Tình hình ở Việt Nam hiện nay hoàn toàn khác với Đức vào những năm 1878 hay 1949 sau thế chiến thứ hai.
Ý thức sinh hoạt công đoàn của công nhân Việt
Sự
hình thành giai cấp công nhân Việt và giai cấp lao động Việt Nam không
giống Đức. Việt Nam là nước nông nghiệp, do đó ý thức tập thể của người
lao động Việt cũng không thể so sánh với người lao động Đức.
Tại Đức
Cá
nhân người viết nhận thấy, ngay cả người Việt Nam ở ngoại quốc hiện nay
là công nhân trong các xí nghiệp, cũng không có ý thức tập thể cao hơn
người trong nước, kinh nghiệm này người viết có được qua những lần đi
vận động người Việt tham gia trở thành đoàn viên công đoàn.
Khi
có kêu gọi đình công, người công nhân Việt trong các xí nghiệp của Đức
hầu hết đều dững dưng như chuyện của ai, chẳng dính dáng gì tới mình.
Theo
thống kê của IG Metall, tỉ lệ người Việt tham gia công đoàn rất khiêm
nhường, chỉ khoảng 1-2% trên tổng số người Việt trong các xí nghiệp,
trong khi tỷ lệ tham gia của các sắc dân khác (Turkey, Jugoslavia,
Spain...) giống như người Đức bản xứ, nghĩa là 15-20%, trong nhiều xí
nghiệp có khi lên 35-40%, cao nhất là 85% như ở hãng chế tạo xe
Volkswagen (VW) tại Wolfsburg.
Theo
người viết, nguyên nhân chính khiến lao động Việt trong các xí nghiệp ở
Đức ít tham gia sinh hoạt công đoàn hay muốn trở thành đoàn viên công
đoàn là do cảm thấy xót xa, tiếc tiền, khi phải đóng 1% tiền lương cho
công đoàn.
Nếu
người lao động Việt trong nước tiếc 1% tiền lương, đó là điều có thể
hiểu được. Với số lương còm cõi, ít ỏi, họ phải chắt chịu, tính toán
từng đồng để có thể sinh tồn trong thời giá lạm phát hiện nay.
Tuy
nhiên, ở Đức vài chục Euro không phải là một con số cần suy nghĩ, tính
toán với giá sinh hoạt hoặc so với những quyền lợi mà người lao động có
được như 6 tuần lễ nghỉ phép, bệnh hoạn không đi làm vẫn tiếp tục được
lãnh lương trong 6 tuần, sau đó lãnh 85% tiền lương bình quân 3 tháng
cuối cùng do bảo hiểm sức khỏe trả, Giáng sinh có tiền thưởng, đi phép
lãnh thêm tiền nghỉ phép...
Ở Việt Nam
Một
điểm khác biệt không kém quan trọng nữa là giới chủ nhân. Giới chủ nhân
ở Việt Nam trong các xí nghiệp hầu hết là người ngoại quốc như Nam Hàn,
Đài Loan, Hồng Kông, Indonesia hay Trung Quốc đội lốt... Họ sẵn sàng
cấu kết với chế độ, đảng viên cộng sản... để bòn rút, hà hiếp người lao
động Việt đến mức tối đa.
So
sánh cuộc đình công của người lao động Việt Nam cuối tháng 3/2015 vừa
qua với cuộc đình công của IG Metall năm 1984, thấy có sự khác biệt hẳn
về nguyên nhân lẫn mục đích.
Cuộc
đình công ở Việt Nam bộc phát từ hãng Pou Yuen, nhanh chóng lan qua các
tỉnh Bình Dương, Long An, Tiền Giang... không phải vì xung đột quyền
lợi giữa chủ và thợ, không được chuẩn bị, tổ chức, hướng dẫn. Đó chỉ là
cuộc đối đầu giữa người lao động với chính quyền ăn cướp.
Khi
Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng của chế độ Mafia kiến nghị, yêu cầu trả lại
chén cơm (dự trữ cuối cùng) cho người lao động thì cuộc đình công chấm
dứt.
Cuộc
đình công của IG Metall năm 1984 là cuộc đình công có chuẩn bị, tổ
chức, tuyên truyền, giải thích cặn kẽ, các xí nghiệp đình công được chỉ
định rõ ràng trong từng khu vực để tránh Aus-Sperrung (Lock Out)(1).
Đình công này nhằm mục đích tranh đấu cho những quyền lợi thiết thực lâu
dài.
Phong trào Lao Động Việt hoạt động bảo vệ quyền lợi người lao động - Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương - Ảnh minh họa
Việc
thành lập công đoàn độc lập hiện nay ở Việt Nam gặp muôn vàn trở ngại
nếu không muốn nói là bất khả thi. Chỉ hi vọng (không nhiều) khi được
gia nhập TPP, chế độ cộng sản Việt Nam phải thay đổi chính sách dưới sức
ép của quốc tế, phải tuân theo luật chơi của TPP, Việt Nam sẽ có được
một công đoàn độc lập đúng nghĩa tranh đấu cho quyền lợi thiết thực của
người lao động Việt Nam.
Dùng
chữ hi vọng (không nhiều) vì người viết tin rằng dù có phải chấp nhận
cho thành lập công đoàn độc lập thì chính quyền cộng sản Việt Nam cũng
sẽ tìm mọi cách khống chế, phá hoại, lèo lái... công đoàn này theo ý
muốn của mình.
Tuy
nhiên điều quan trọng nhất vẫn là xây dựng ý thức tập thể, biết đoàn
kết cho người lao động Việt, để họ biết nhìn xa, biết cần phải hi sinh
một chút quyền lợi nhỏ để tạo thành sức mạnh đòi hỏi, tranh đấu cho
những quyền lợi to lớn, vững chắc, lâu dài.
Có
được sự đoàn kết, thống nhất, hoạt động chặt chẽ trong công đoàn độc
lập thì mọi âm mưu gian trá, hiểm độc của chế độ cộng sản Việt Nam sẽ bị
người lao động phát giác, bẻ gẫy.
Thạch Đạt Lang
(14/11/2018)
(1)
Aus-Sperrung là một biện pháp trả đòn đình công của giới chủ nhân. Khi
có đình công do công đoàn tổ chức, giới chủ nhân có thể ra lệnh đóng cửa
toàn bộ xí nghiệp. Những người không là đoàn viên công đoàn cũng không
thể tiếp tục làm việc, do đó không được lãnh lương, đồng thời cũng không
được công đoàn trợ giúp tài chánh trong thời gian đình công.
Trường
hợp này gọi là Heisse-Sperrung (Hot Lock-Out) khác với Kalte-Sperrung
(Cold Lock-Out) là một biện pháp khác khi giới chủ nhân ra lệnh đóng cửa
các xí nghiệp có liên hệ sản xuất với xí nghiệp đang đình công.
Thí
dụ : Khi hãng sản xuất xe hơi đình công thì giới chủ nhân có thể cho
đóng cửa các xí nghiệp liên hệ đến sản xuất xe hơi như hãng cung cấp phụ
tùng, cơ phận, bánh xe...
Điều
này sẽ khiến công đoàn chảy máu, nhanh chóng kiệt quệ tài chánh vì phải
trả thêm tiền cho đoàn viên ở những nơi không có đình công, đồng thời
có thể gây bất mãn, xung đột giữa những người lao động không là đoàn
viên với đoàn viên.
Tài liệu tham khảo :