Món quà quí của Lê Mạnh Hùng: Việt Nam đã hình thành như thế nào? (Nguyễn Gia Kiểng)
Sử
gia Lê Mạnh Hùng vừa quyết định tặng đồng bào của ông một món quà quý.
Ông cho phép chúng tôi phổ biến trên mạng quyển đầu tiên –cũng là quyển
độc đáo nhất- của bộ sử Việt Nam mới mà ông hoàn tất cách đây ba năm sau
gần 40 năm sưu tập và tổng hợp.
Bộ sử này mang tên là "Nhìn Lại Sử Việt"
và quả nhiên nó đúng là một cái nhìn mới và một cách viết sử mới đối
với người Việt Nam, thành quả của một công trình tìm kiếm tài liệu công
phu và một khả năng tổng hợp và lý luận hiếm thấy của một sử gia chân
chính và hoàn toàn độc lập.
Bộ sử này, tổng cộng khoảng 2.500 trang, gồm năm quyển :
1. Từ tiền sử đến tự chủ (khi Ngô Quyền mở ra kỷ nguyên độc lập) ;2. Từ Ngô Quyền đến thuộc Minh (939 – 1407) ;
3. Từ thuộc Minh đến thống nhất (1407 – 1802) ;
4. Từ Gia Long đến Cách Mạng Tháng 8-1945 (1802 – 1945) ;
5. Thời cận hiện đại (1945 – 1975).
Có
thể nói một cách không mấy quá đáng rằng Lê Mạnh Hùng đã dành phần
chính của đời mình cho công trình này, một bộ sử Việt Nam hơn hẳn các bộ
sử mà tôi đã đọc.
Nhưng cuộc đời Lê Mạnh Hùng đã như thế nào ?
Sinh
năm 1942, ông mơ ước được vào trường sĩ quan hải quân sau khi tốt
nghiệp trung học nhưng số phận đã quyết định khác. Lê Mạnh Hùng trúng
tuyển kỳ thi học bổng và được đi du học Mỹ, tốt nghiệp Bachelor rồi
Master tại MIT (Massachussetts Institute of Technology), một trong những
trường đại học danh tiếng nhất tại Mỹ, không chỉ về kỹ thuật mà còn cả
về kinh tế. Về nước, ông đã làm chuyên viên tại bộ kinh tế và tại nhiều
ngân hàng, làm giám đốc trường kỹ sư công nghiệp Phú Thọ và sau cùng tại
bộ kế hoạch với chức vụ tổng giám đốc vào ngày 30 tháng 4-1975.
Lê
Mạnh Hùng là một trong những người trẻ có nhiều điều kiện lý tưởng nhất
để thành công vào giai đoạn đó : tài giỏi, trung thực, nhiệt tình và
được mọi người quý trọng. Hơn thế nữa còn có diễm phúc được một người vợ
trẻ đẹp, tài ba và danh giá : Phan Lâm Hương, con gái bác sĩ Phan Huy
Quát, một chính trị gia đầy uy tín, từng nhiều lần làm bộ trưởng trong
các chính quyền quốc gia, từng là thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa. Ông Phan
Huy Quát đáng lẽ đã là người lãnh đạo chính quyền quốc gia sau hiệp định
Genève nếu ông Ngô Đình Nhu không bất ngờ vận động thành công với Pháp
để đưa ông Ngô Dình Diệm lên cầm quyền. Và sự thực là Lê Mạnh Hùng đã
rất thành công, thăng tiến rất nhanh trong khi bạn bè còn muốn ông tiến
nhanh hơn nữa. Nhưng lần này số phận cũng đã quyết định khác, và một
cách bi thảm. Ngày 30-4-1975 đã ập tới. Lê Mạnh Hùng thuộc thành phần
tinh hoa đúng nghĩa của miền Nam vào thời điểm đó, lớn lên trong không
khí vừa khá cởi mở vừa đầy biến động, có ý thức quốc gia mạnh, lương
thiện và đầy thiện chí, lại được đào tạo trong những điếu kiện lý tưởng.
Những con người này, ở lứa tuổi trung bình ba mươi lúc đó, đã có thể mở
ra cho Việt Nam một kỷ nguyên rất sán lạn, nhưng họ đã trưởng thành quá
trễ, chưa giành được vai trò chủ động thì lịch sử đã sang trang.
Lê
Mạnh Hùng bị đi tù 7 năm sau chiến thắng cộng sản. Trong cái sui của
đất nước và của thế hệ ông lần này Lê Mạnh Hùng là một trong những người
sui nhất. Có lẽ trong những ngày hẩm hiu trong tù mà ông đã tự hỏi tại
sao Việt Nam lại phải chịu đựng nhiều nghịch lý như thế và quyết định
dành phần còn lại của đời mình để nghiên cứu lịch sử, để hiểu và giúp
đồng bào cùng hiểu đất nước mình. Trong tù ông đã học chữ Hán để có thể
tham khảo các tài liệu Trung Quốc, điều mà ông đã làm trong tám năm sống
tại Việt Nam sau khi ra khỏi nhà tù với sự tiếp tay của ông chú vợ Phan
Huy Lê, cũng là một sử gia. Ra nước ngoài năm 1990, với phản xạ "phải
biết làm thì hãy làm" của một chuyên gia Lê Mạnh Hùng đi học về sử và
đậu tiến sĩ sử học tại London trước khi tổng hợp các tài liệu và ghi
chép của chính mình thành bộ sử. Nhìn Lại Sử Việt đã hoàn tất năm 2015.
Lê Mạnh Hùng cũng vừa viết xong một cuốn sử thế giới với tựa đề "Văn minh, con đường tới xã hội hiện đại" mà ông cũng có nhã ý cho phép phổ biến trên mạng và tôi hy vọng có thể viết bài giới thiệu trong một tương lai gần.
Trở lại với quyển 1 của bộ Nhìn Lại Sử Việt
Theo
tôi đây là cuốn nhiều phát giác mới và quan trọng nhất trong bộ sử rất
công phu này. Nó đảo lộn nhiều điều tưởng như đã chắc chắn và cho chúng
ta biết nước ta đã hình thành như thế nào, từ lúc nào và trong bao lâu.
Chúng
ta tự hào là có một lịch sử dài và một truyền thống dựng nước và giữ
nước vẻ vang nhưng nếu được hỏi một cách nghiêm chỉnh đất nước Việt Nam
đã hình thành như thế nào thì đa số, kể cả trí thức, sẽ trả lời rằng tổ
tiên ta từ phương Bắc cùng nhau theo vua Hùng xuống miền Nam dựng nước
từ một thời rất xa xưa, ba hoặc bốn ngàn năm rồi. Hiến pháp hiện nay của
chế độ cộng sản bắt đầu bằng câu : "Trải qua mấy ngàn năm lịch sử…". Nhưng "mấy ngàn năm" là mấy ngàn năm ? Hiến pháp 1992 của chế độ nói rõ hơn (và lố bịch hơn) : "Trải hơn bốn ngàn năm lịch sử…". Một câu nói của ông Hồ Chí Minh được chế độ ca tụng như một danh ngôn là "các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước".
Đảng Cộng Sản và ông Hồ Chí Minh đã chỉ lập lại những huyền thoại ở cửa
miệng dân gian. Hầu hết mọi dân tộc đều có những huyền thoại tương tự,
có điều họ không coi đó là lịch sử. Họ rất thận trọng ngay cả khi có
những sử liệu chắc chắn. Thí dụ như nước Pháp còn những bằng chứng rất
đồ sộ và thẩm mỹ về sinh hoạt có tổ chức của những cộng đồng người tiền
sử từ hơn 30.000 năm trước nhưng họ không tự hào là có "hơn ba mươi
nghìn năm lịch sử". Phải nhìn nhận rằng chúng ta đã chỉ huênh hoang chứ
không cố gắng tìm hiểu một cách chính xác quá trình hình thành của đất
nước mình như những dân tộc lớn. Có lẽ vì vậy mà chúng ta chưa là một
dân tộc lớn.
Cố gắng đó một số sử gia đã làm nhưng Lê Mạnh Hùng, với quyển 1 của bộ Nhìn Lại Sử Việt này,
đã làm một cách chu đáo và thành công nhất, có lẽ vì ông có những điều
kiện phù hợp nhất. Ông giúp cho mọi người Việt Nam đọc kỹ cuốn sách này
hiểu đất nước mình đã hình thành như thế nào và do đó chính mình là ai
bởi vì dù muốn hay không mỗi con người đều ít nhiều là sản phẩm của một
quá khứ nào đó.
Lê
Mạnh Hùng đã kiểm điểm các bằng chứng khảo cổ, ngôn ngữ, sử liệu và
truyện tích dân gian mà chúng ta có thể có để tìm hiểu thời kỳ lập quốc.
Ông cũng cống hiến những lập luận xác đáng và chuyên nghiệp dựa trên
những phương tiện đó. Ông giúp người đọc nhận ra một cách khá chắc chắn
là từ thế kỷ 5 trước Công Nguyên (trước Công nguyên) trên nửa phần đất
phía Bắc của nước ta đã có những nhóm người phần lớn thuộc giống Nam Á
(Austroasiatic), một phần nhỏ thuộc giống Nam Đảo, chung sống với nhau
từ một thời rất xa xưa, không biết từ bao giờ nhưng đã hòa nhập với
nhau. Họ ở một mức độ tiến hóa tương đương với các nhóm người khác trong
vùng Đông Nam Á, kể cả nửa phía Nam của nước ta, cũng thuộc hai chủng
tộc Nam Á và Nam Đảo. Đó chính là tổ tiên chúng ta. Nền văn minh này thể
hiện qua các trống đồng và nhiều dụng cụ bằng đồng khác được tìm thấy
khắp nơi, đặc biệt là ở Đông Sơn (Thanh Hóa).
Vào
đầu thế kỷ 2 trước Công nguyên các bộ lạc này thực sự được tiếp xúc với
một nền văn minh vượt trội hơn hẳn, nền văn minh Trung Hoa, với cuộc
chinh phục của Triệu Đà. Trước đó số người phiêu lưu từ Trung Quốc xuống
phía Nam rất hiếm hoi. Các vua Hùng và Thục Phán (An Dương Vương) có
mọi triển vọng thuộc số những con người ít ỏi này. Họ trở thành những
thủ lãnh nhưng đồng thời cũng lập tức bị đồng hóa. Trong hai thế kỷ kế
tiếp, dưới sự thần phục nhà Triệu rồi nhà Tây Hán các tiếp xúc với nền
văn minh Trung Hoa tăng lên nhưng về bản chất vẫn là trao đổi chứ không
áp đặt. Các bộ lạc Lạc (tên gọi của nước ta và dân ta thời tiền sử) quy
thuận Bắc triều nhưng vẫn tự trị và tiếp nhận văn hóa Trung Hoa một cách
tự nguyện theo nhịp độ của mình, những người Hán rất ít ỏi xuống miền
Nam, kể cả những đại diện cho quyền lực Bắc triều, nhanh chóng trở thành
người địa phương sau khi đã đóng góp khai hóa dân Lạc. Tình hình chỉ
thay đổi vào đầu Công Nguyên khi nhà Đông Hán áp đặt sự thống trị trực
tiếp và mô hình xã hội Trung Quốc. Chính sách Hán hóa dứt khoát này đã
làm nổ ra một cuộc nổi dậy lớn của giai cấp quyền thế địa phương còn
mang nặng truyền thống Lạc do hai Hai Bà Trưng lãnh đạo. Cuộc nổi dậy
này đã đuổi được quân Hán và khiến Hai Bà Trưng cầm quyền trong ba năm
trước khi bị quân Hán của Mã Viện đánh bại năm 43. Nó không chỉ giới hạn
tại miền Bắc nước ta mà là một phần của một cuộc tổng nổi dậy của nhiều
sắc tộc ở phía Nam Trung Quốc bao gồm cả hai tỉnh Quang Đông và Quảng
Tây hiện nay. Sau cuộc đàn áp của Mã Viện xã hội Lạc kể như hoàn toàn bị
khuất phục và tiến trình Hán hóa liên tục về mặt chính trị và văn hóa
bắt đầu. Mãi hai thế kỷ sau mới có một cuộc nổi dậy nhỏ ít nhiều mang
mầu sắc Lạc và nhanh chóng bị dập tắt của anh em Triệu Quốc Đạt, Triệu
Thị Trinh. Từ đó việc khôi phục lại xã hội Lạc không đặt ra nữa và một
nước Việt mới dần dần hình thành theo dòng thời gian cho đến khi đã đủ
sức mạnh để trút bỏ sự lệ thuộc Trung Quốc. Đó là năm 939 khi Ngô Quyền
đánh thắng quan Nam Hán và xưng vương.
Lê
Mạnh Hùng kể lại giai đoạn lập quốc này đầy đủ và rõ hơn mọi cuốn sử từ
trước đến nay, với phần về thời kỳ tiền sử đặc biệt xuất sắc. Ông cho
chúng ta nhìn rõ hơn vai trò quan trọng của những quan cai trị đã dẫn
dắt dân ta từ nếp sống thô sơ vào nền văn minh Trung Hoa, những Nhâm
Diên, Tích Quang v.v., nhất là Sĩ Nhiếp, người được một số sử gia đầu
tiên của Việt Nam gọi là vua. Ông cũng giúp chúng ta khám phá ra những
nhân vật lịch sử từ trước tới nay ít được nói đến, thậm chí không được
nhắc đến, như Đào Hoàng, Lương Thạc, Đỗ Tuệ Độ, Lý Trường Nhân, Lý Tự
Tiên, Đinh Kiên, Vô Ngôn Thông, Tăng Cổn v.v. Những nhân vật lịch sử
này, mỗi người với cương vị và chủ đích khác nhau đã góp phần quyết định
vào tiến trình lập quốc của chúng ta không kém những Hùng Vương, Thục
Phán, Lý Nam Đế, Lý Phật Tử, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng. Ông cũng đã cập
nhật nhiều tài liệu quan trọng kèm theo những nhận định giúp chúng ta
nhìn rõ hơn lịch sử. Một thí dụ : Nhà Ngô thời Tam Quốc chưa bao giờ là
một triều đại của toàn thể Trung Quốc và cũng chỉ cai trị nước ta khoảng
70 năm vào thế kỷ thứ 3 nhưng tại sao người Việt Nam lại có thói quen
gọi Trung Quốc là nước Ngô ("giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng") ? Vì sao Nguyễn Trãi đặt tựa cho bản tuyên ngôn độc lập sau khi đuổi được quân Minh là "Bình Ngô đại cáo" ?
Đọc cuốn sách này người ta có thể hiểu tầm quan trọng của nhà Ngô.
Những hành động thô bạo –tàn sát toàn bộ những người Hoa mới tới- của
Lương Thạc (năm 332) và Lý Trường Nhân (468) cũng đóng góp giúp chúng ta
ý thức rằng những người gốc Hoa luôn luôn chỉ là một thiểu số ngay
trong giai cấp quyền lực trong một giai đoạn lập quốc kéo dài gần một
ngàn năm và nhanh chóng trở thành người Việt dù đã đóng một vai trò
quyết định.
*****************
Phải
nhìn nhận đóng góp rất lớn của Lê Mạnh Hùng về sử liệu và lý luận trong
việc soi sáng giai đoạn lập quốc, nhưng cũng phải hiểu rằng có những ý
kiến ông chỉ đưa ra để thảo luận.
Thí
dụ như, có lẽ do tinh thần dân tộc mạnh, Lê Mạnh Hùng tạo cảm giác là
ông nắm lấy mọi sự kiện có thể vận dụng được để khẳng định tinh thần bất
khuất và ý chí dựng nước của dân tộc Việt Nam trong khi chính những sự
kiện ấy cũng có thể khiến người ta nghĩ rằng điều mà chúng ta thường gọi
là lịch sử dựng nước thực ra chỉ là sự hình thành chậm chạp của một
quyền lực thống trị địa phương trong tay một thiểu số rất nhỏ gồm những
người từ phương Bắc tới và những người địa phương đã hấp thụ văn hóa
Hán. Thành phần quyền thế này, mà Lê Mạnh Hùng và nhiều sử gia khác gọi
là "môn phiệt" tuy đại đa số gốc Lạc nhưng không tỏ ra gắn bó với quần
chúng Lạc. Họ đấu tranh chủ yếu để đòi hỏi cho chính họ một mức độ tự
trị lớn hơn đối với một Bắc triều xa xôi không giúp gì cho họ mà chỉ đòi
phục tùng và triều cống. Các cuộc nổi dậy của Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu
Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Dương Diên Nghệ đều nằm trong
logic này.
Chỉ
có một ngoại lệ kỳ lạ mà có lẽ Lê Mạnh Hùng là sử gia đầu tiên nhìn
thấy tầm quan trọng là cuộc nổi dậy của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến. Lý Tự
Tiên bị giết nhưng Đinh Kiến tiếp tục chiến đấu, rồi chiếm được kinh
thành và cầm quyền vài năm trước khi bị tiêu diệt. Không hề thấy Đinh
Kiến xưng một tước hiệu hay chức vụ nào cả. Ông được sử Trung Quốc nói
là thuộc thành phần dân gian. Có mọi triển vọng đây là cuộc nổi dậy xuất
phát từ quần chúng. Đinh Kiến đã không nhận được một sự hưởng ứng nào
từ lớp môn phiệt. Ý thức dân tộc -hiểu theo nghĩa một tình cảm liên đới
giữa những con người cảm thấy cùng là thành viên của một cộng đồng- hầu
như không có trong giai đoạn lập quốc này. Tình trạng này không thay đổi
bao nhiêu cho đến khi Ngô Quyền thiết lập nền tự chủ lâu dài và cũng
không thay đổi bao nhiêu trong năm thế kỷ kế tiếp.
Một
đặc tính cũng cần được lưu ý là sự thiếu vắng của tư tưởng chính trị
trong suốt quá trình hình thành của đất nước Việt Nam. Không hề có dấu
vết tư tưởng nào cả. Như vậy đất nước Việt Nam đã hình thành với hai đặc
tính, một là sự vắng mặt của tư tưởng chính trị ngay cả ở mức độ sơ
sài, hai là sự tách biệt giữa thành phần môn phiệt –thành phần khá giả
và quyền thế- với quần chúng. Chúng ta không có tư tưởng và chỉ có ít
tình đồng bào. Đó là tật nguyền bẩm sinh -ngay trong gen- của đất nước
ta và có thể đóng góp giải thích nhiều nghịch lý lịch sử sau này. Thí dụ
như sau Thế Chiến II một kỷ nguyên độc lập và dân chủ mở ra nhưng lực
lượng được nhân dân ủng hộ nhất lúc đó lại là Đảng Cộng Sản, một đảng
theo đuổi một chủ nghĩa mà mục đích sau cùng là xóa bỏ quốc gia. Kết quả
là Cách Mạng Tháng 8, nội chiến 30 năm và thảm kịch cộng sản vẫn còn
đang tiếp tục. Đó là vì một dân tộc không có tư tưởng chính trị cũng
không khác một con tầu không la bàn, không đụng phải đá ngầm này thì
cũng đâm vào băng đảo khác, tai nạn là không tránh khỏi. Sự thực này cho
đến nay vẫn chưa được ý thức rõ rệt.
Đất
nước Việt Nam không phải chỉ là miền Bắc và quá trình lập quốc của
chúng ta cũng không phải chỉ diễn ra tại miền Bắc. Điều mà bộ Nhìn Lại Sử Việt,
và đặc biệt là quyển 1 này, nhắc nhở là tổ tiên chúng ta trong tuyệt
đại đa số không đến từ phương Bắc mà là những người thuộc chủng tộc Nam Á
có pha trộn một phần Nam Đảo đã sinh sống trên đất nước này, miền Nam
cũng như miền Bắc, từ một thời tiền sử rất xa xưa. Gần như cùng một lúc
họ đã tiếp nhận hai nền văn minh, văn hóa Hán tại miền Bắc và văn hóa Ấn
Độ tại miền Nam. Cuối cùng thì nền văn hóa gần gũi hơn về địa lý và
giao thông, nghĩa là văn hóa Trung Hoa, đã giành được ưu thế. Nhưng điều
căn bản phải ghi nhớ là dân tộc Việt Nam trong tuyệt đại đa số chỉ là
một, dù có lúc phân chia thành Giao Châu, Lâm Ấp và Phù Nam hay Đại
Việt, Chiêm Thành và Chân Lạp. Sự thống nhất đã dễ dàng và tự nhiên bởi
vì dân tộc ta trong tuyệt đại đa số có cùng một nguồn gốc.
Nhìn Lại Sử Việt là một bộ sử mà mọi người Việt Nam quan tâm tới đất nước rất nên dành thì giờ để đọc. Riêng Quyển 1, Từ tiền sử đến tự chủ,
thì bắt buộc phải đọc, nhất là từ nay mọi người đều có thể đọc trên
mạng và tải về. Đọc để hiểu cái lịch sử đã tạo ra chúng ta, để biết
chúng ta là ai và phải khắc phục những gì nếu muốn vươn tới một tương
lai khác.
Nguyễn Gia Kiểng
(08/08/2018)