Nhìn Lại Sử Việt (Lê Mạnh Hùng)
Từ Thượng cổ cho đến hết Bắc thuộc
Mục Lục
Chương 1 : Những dữ liệu
1.1 Những khám phá về khảo cổ học
1.2 Những sử liệu Trung Quốc
1.3 Những sử liệu Việt Nam
1.4 Sử liệu của các nước khác
Chương 2 : Tổng quan về lịch sử Việt Nam
Chương 3 : Nguồn gốc dân tộc Việt Nam : thời kỳ thần thoại
3.1 Kinh Dương vương và Lạc Long quân
Những bằng chứng sử liệu
Những bằng chứng khảo cổ
3.2 Lạc hay Việt
Những bằng chứng sử liệu
Những bằng chứng về ngôn ngữ và phong tục
3.3 Hùng vương và nước Văn Lang
Xã hội dân Lạc dưới triều Hùng vương
Sự suy tàn của triều đại Hùng vương
3.4 An Dương vương và cuộc chiến Hùng-Thục
Nguồn gốc An Dương vương
Cuộc chiến Hùng-Thục
Truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh và những dấu tích của một sử thi Việt Nam
Xã hội Việt Nam dưới triều An Dương vương
Thành Cổ Loa
Chiếc vuốt rùa và cây nỏ thần của An Dương vương
Chương 4 Bắc thuộc lần thứ nhất : Từ Triệu Đà đến cuộc chinh phục của Mã Viện
4.1 Triệu Đà khởi nghiệp
Cuộc chiến giữa Ấu Lạc và Triệu Đà
Chế độ cai trị của nhà Triệu và xã hội Ấu Lạc
Nhà Triệu diệt vong
Vài nhận xét về nhà Triệu và Triệu Đà
4.2 Chính sách cai trị dưới thời Lưỡng Hán
Sự suy tàn của nhà Tây Hán và ảnh hưởng của nó tới đất Giao Chỉ
Chích sách cai trị của nhà Đông Hán
4.3 Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng
Xã hội Giao Chỉ vào lúc Hai Bà Trưng khởi nghĩa
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng
4.4 Từ Lạc chuyển sang Việt : Cuộc chinh phục của Mã Viện
4.5 Sự tan rã của xã hội Lạc và mầm mống hình thành xã hội Lạc Việt
Lạc, "Yueh" và Việt
Vài nhận xét về từ Giao Chỉ
Chương 5 Giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 2 : Từ Mã Viện cho đến cuộc khởi nghĩa của Lý Bí
5.1 Tình hình kinh tế xã hội Giao Chỉ sau cuộc chinh phục của Mã Viện
Chế độ môn phiệt tại Giao Chỉ
Các cuộc nổi dậy và chính sách "nhu viễn"
5.2 Sỹ Nhiếp và sự hình thành tầng lớp môn phiệt Lạc Việt
Xã hội Giao Chỉ dưới thời Sỹ Nhiếp
Đế quốc Kushana và sự phát triển Phật Giáo tại Việt Nam
Tổng hợp Nho-Phật : sự xuất hiện của văn hóa Lạc Việt
5.3 Từ Lạc đến Việt : sự chuyển mình của dân tộc Việt Nam
Họ Sỹ diệt vong
Bà Triệu khởi nghĩa : sự vùng dậy cuối cùng của xã hội Lạc
5.4 Việt và Chàm : Hai di duệ của xã hội Lạc
Cương vực nước Lâm Âp
Quận Nhật Nam dưới thời Lưỡng Hán
Sự thành lập nước Lâm Ấp
5.5 Hán hay Việt ? Các cuộc tranh chấp trong tầng lớp môn phiệt Giao Châu dưới thời Lưỡng Tấn và Lục triều
Xã hội Giao Châu dưới thời Lưỡng Tấn và Lục triều
Đào Hoàng và cuộc chiến tại Giao Châu cuối thời Tam Quốc
Giao Châu dưới thời Lưỡng Tấn : Lương Thạc
Giao Châu vào cuối thời Đông Tấn
5.6 Đỗ Tuệ Độ và Lý Trường Nhân
Đỗ Tuệ Độ và con đường trung thành với đế chế
Lý Trường Nhân và nền tự chủ dưới thời Lưu Tống
5.7 Tình hình kinh tế xã hội Giao Châu dưới thời Lương
Giao Châu dưới thời Lương
Thuế khóa và cống phẩm
Chương 6 Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân
6.1 Lý Bí và bước đầu trong tiến trình dành độc lập
Lý Bí và Tinh Thiều
Triệu Túc
Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí
Sự thành lập nhà nước Vạn Xuân
6.2 Cuộc chinh phục của Trần Bá Tiên
6.3 Triệu Quang Phục và Lý Phật tử
Cuộc kháng chiến của Triệu Quang Phục và triều đại Lý Phật tử theo sử liệu Việt Nam
Triệu Quang Phục và Lý Phật tử theo sử Trung Quốc
6.4 Cuộc chinh phục của nhà Tùy : đất Việt rơi trở lại tình trạng nội thuộc
6.5 Thế kỷ thứ 6 và sự thành hình của dân tộc tính Việt Nam
Chương 7 Giai đoạn Bắc thuộc lần thứ ba : Từ sự sụp đổ của nhà Tiền Lý cho đến cuối đời Đường
7.1 Việt Nam dưới triều Tùy và Đường
7.2 Cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Mai Thúc Loan
Cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên
Cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan
7.3 Cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng
An Nam đô hộ phủ và cuộc khủng hoảng thời Trung Đường
Giặc Chà Và
Bố Cái đại vương Phùng Hưng
7.4 Dương Thanh và Vô Ngôn thông
7.5 Cao Biền và cuộc chiến chống Nam Chiếu
An Nam đô hộ phủ vào giữa thế kỷ thứ 9
Cuộc xâm lược của Nam Chiếu
Cao Biền phá quân Nam Chiếu
An Nam đô hộ phủ sau cuộc xâm lược của Nam Chiếu - Tăng Cổn
Chương 8 Độc lập : Họ Khúc và Ngô Quyền
8.1 Sự sụp đổ của nhà Đường
Nam Hán cát cứ Quảng Châu
Họ Khúc dấy nghiệp
Khúc Thừa Mỹ và cuộc xâm lược của Nam Hán
8.2 Dương Diên Nghệ và Ngô Quyền
8.3 Ngô Quyền phá quân Nam Hán
Chương 9 Nhìn lại một ngàn năm Bắc thuộc : tại sao dân Việt không bị đồng hóa ?
Niên biểu các triều đại và sự kiện
Tài liệu tham khảo
Mục lục
**********************
Chương 1. Những dữ liệu
1.1. Những khám phá về khảo cổ học
Kể từ khi nhà khảo cổ học người Đan Mạch Olov Janse
khám phá ra nền văn minh Đông Sơn, những cuộc khai quật tiếp sau đó,
đặc biệt là trong những năm của thập niên từ 1960 tới cuối thập niên
1980 đã phát hiện rất nhiều bằng chứng về một nền văn minh tập trung
trong lưu vực sông Hồng và sông Mã kéo dài hàng ngàn năm từ thời đại đồ
đá giữa (mesolithic) qua thời kỳ đồ đá mới (neolithic) cho đến hết thời
đại đồng thau (bronze age) và sang đến thời đại đồ sắt mới hết.
Theo
các nhà khảo cổ Việt Nam, khu vực hiện nay là miền Bắc Việt Nam là một
trong những nơi mà loài người xuất hiện khá sớm. Những di vật tìm được
cho thấy con người đã xuất hiện tại miền Bắc Việt Nam cách đây khoảng
trên 25 ngàn năm. Nền văn hóa đầu tiên được xác định dựa theo những di
vật còn lại được đặt tên là văn hóa Sơn Vi có niên đại khoảng từ 15.000 cho đến 16.000 năm trước Công nguyên. Sau Sơn Vi là Hòa Bình, được ước tính có niên đại khoảng 9.000 năm trước Công nguyên ; và sau Hòa Bình là văn hóa Bắc Sơn.
Sơn Vi được coi như là giai đoạn thuộc thời đồ đá cũ (paleolithic). Đến
Hòa Bình, các cư dân tại miền Bắc Việt Nam hiện nay đã chuyển sang đến
thời đồ đá giữa (mesolithic) và Bắc Sơn là giai đoạn đầu thời đồ đá mới
(neolithic).
Vào
khoảng cuối thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên, một nền văn hóa mới
xuất hiện tại đồng bằng sông Hồng được mệnh danh là văn hóa Phùng Nguyên.
Các nhà khảo cổ miền Bắc Việt Nam coi đây là một nền văn hóa chuyển
tiếp giữa thời đại đồ đá mới và thời đại đồ đồng. Trong các di chỉ thuộc
nền văn hóa này người ta đã phát hiện được các đồ đá, đồ gốm. Đồ đá ở
đây không những đạt được đỉnh cao về kỹ thuật mà còn phong phú về loại
hình. Đồ gốm bao gồm loại đồ gốm mỏng, độ nung thấp, gốm mềm. Các hoa
văn được dùng là loại văn thừng, văn chải, tức là lấy sợi giây thừng ép
vào hoặc dùng tay chải để tạo ra những đường cong, đường tròn sinh động
và phong phú. Hình dáng đồ gốm cũng có nhiều loại. Có các loại nồi,
bình, bát có chân. Tại một vài nơi đã tìm thấy xỉ đồng chứng tỏ rằng vào
thời của nền văn hóa này người ta đã bắt đầu biết luyện đồng tuy rằng
chưa phổ biến. Văn hóa Phùng Nguyên được coi như là ở vào giai đoạn
chuyển tiếp giữa thời đại đồ đá mới sang thời đại đồng thau.
Tiếp sau giai đoạn Phùng Nguyên là giai đoạn mà các nhà khảo cổ gọi là văn hóa Gò Mun. Trong
giai đoạn này số lượng và các loại hình đồ đá giảm bớt, chỉ còn tồn tại
một số rìu đá và đồ trang sức. Đồ gốm thời đại này được nung ở nhiệt độ
cao hơn nên cứng hơn đồ gốm ở thời văn hóa Phùng Nguyên. Hình dáng đồ
gốm cũng có những đặc trưng riêng, các hoa văn phần lớn là hoa văn hình
học ; về kiểu dáng thì có nhiều loại nồi vò, ly cốc có chân cao, bát, vò
có chân thấp hình vành khăn. Tại những địa điềm thuộc di chỉ Gò Mun
người ta đã phát hiện được khá nhiều đồ đồng như mũi tên đồng, lưỡi câu,
mũi lao, cùng một ít rìu. Đặc biệt trong số đồ đồng đào người ta đã đào
được tượng một con gà, đây là một số hiếm hoi các tác phẩm nghệ thuật
tìm được trong giai đoạn này.
Văn hóa Gò Mun
được coi như là bắt đầu khoảng đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công
nguyên và kéo dài đến khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên thì nhường
chỗ cho một giai tầng văn hóa mới gọi là văn hóa Đông Sơn. Các
di tích của nền văn hóa này được phân bố rộng rãi khắp vùng Bắc bộ và
bắc Trung bộ. Trong giai đoạn này, đồ đá hầu như không còn nữa. Đồ gốm
về hoa văn đã có tính đơn giản hóa, chủ yếu là văn thừng và chải. Về
hình dáng có thêm loại nồi đáy lồi, đáy bằng, ngoài ra cũng bắt đầu xuất
hiện loại đồ dùng có nắp đậy. Số lượng đồ đồng thì rất phong phú phổ
biến nhất là các loại vũ khí, dao găm, mũi lao, mũi giáo, dụng cụ như
rìu, lưỡi liềm, lưỡi hái, đồ đựng như thạp, thố, nhạc cụ như trống,
chuông. Đồ đồng Đông Sơn so với thời đại Gò Mun không những khác về
trình độ mà cả về phong cách. Giai đoạn Đông Sơn được hầu hết các nhà
khảo cổ coi như là giai đoạn thành hình của xã hội cư dân tại vùng châu
thổ sông Hồng và sông Mã.
Nguồn
gốc của nền văn hóa Đông Sơn hiện vẫn còn là một đề tài tranh luận
trong giới khảo cổ. Những nhà nghiên cứu đầu tiên về nền văn hóa này như
Janse cho rằng đây là một nền văn hóa du nhập từ bên ngoài vào. Phần
lớn coi kỹ thuật đúc đồng của Đông Sơn được du nhập từ vùng Nam Hoa. Sở
dĩ họ cho như vậy là vì trong quá khứ, người ta cho rằng kỹ thuật đúc
đồng xuất hiện trước tiên tại vùng Hoa Bắc sau đó mới được truyền xuống
miền nam. Tuy nhiên những nghiên cứu gần đây của các nhà khảo cổ, nhất
là tại vùng đông bắc Thái Lan cho thấy nghề đúc đồng đã xuất hiện tại
Đông Nam Á còn trước khi xuất hiện tại Trung Quốc nữa. Thành ra người ta
đã có thể khẳng định rằng nghệ thuật đúc đồng Đông Sơn hầu như chắc
chắn không phải du nhập từ phương Bắc.
Các
công trình nghiên cứu của các nhà khảo cổ Việt Nam miền Bắc cho thấy
những trống đồng đầu tiên của nền văn hóa Đông Sơn còn có những quan hệ
mật thiết về cơ cấu và trang trí với những đồ gốm thuộc văn hóa Phùng
Nguyên đủ để thấy rằng xã hội tạo ra văn hóa Phùng Nguyên và xã hội Đông
Sơn có những quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau. Cũng theo những công
trình nghiên cứu này thì văn hóa Đông Sơn đã có những mối liên hệ mật
thiết với các nền văn hóa Thái Miến ở Vân Nam và Lào, và đặc biệt với
một nền văn hóa cổ đại Môn Khmer tại vùng Cánh Đông Chum thuộc cao
nguyên Trấn Ninh bên Lào. Cao nguyên Trấn Ninh là con đường bộ tự nhiên
nối liền vùng đồng bằng Bắc bộ và bắc Trung bộ với vùng đông bắc Thái
Lan hiện nay.
Xã
hội Đông Sơn là một xã hội đã phát triển về nông nghiệp. Ngoài ra cơ
cấu xã hội cũng diễn biến trở thành phức tạp, có phân chia thành giai
cấp. Những lưỡi cầy đồng tìm được chung cùng với xương nhiều trâu bò cho
thấy nông nghiệp đã biết dùng sức kéo của gia súc. Những đồ dùng, nhạc
khí bằng đồng cho thấy trong xã hội đã có phân hóa giầu nghèo trong khi
một loạt những loại vũ khí mới cho thấy rằng xã hội thời Đông Sơn có thể
đã phải đối phó với nhiều cuộc chiến tranh hoặc nội bộ hoặc từ bên
ngoài.
Việc
tìm thấy những quan tài hình thuyền cũng như những mô -típ trang trí
trên trống đồng Đông Sơn như hình những chiếc thuyền với những người
chèo và những chiến sỹ cầm vũ khí cũng như hình những con chim biển
trang trí chứng tỏ rằng nền văn minh Đông Sơn có quan hệ mật thiết với
biển và có thể xuất phát từ ngoài biển vào. Những di tích của nền văn
hóa Đông Sơn này tồn tại cho đến đầu thiên niên kỷ thứ nhất, trùng hợp
với giai đoạn nước Việt Nam của chúng ta bị nội thuộc vào Trung Quốc
dưới thời Tây Hán. Tới đây, thời kỳ khuyết sử của chúng ta không còn nữa
mà ta đã bắt đầu có những sử liệu thành văn, quan trọng nhất là sử liệu
của Trung Quốc.
1.2. Những sử liệu Trung Quốc
Các
tài liệu của Trung Quốc nói đến Việt Nam rất nhiều. Nói chung, những
tài liệu này có thể được chia thành hai loại, chính sử và dã sử.
Chính
sử là sử của các triều đại Trung Quốc, thường do các triều đại sau, dựa
vào những tư liệu để lại, viết ra. Có tất cả hai mươi bốn bộ sử như
vậy, đi từ bộ Sử Ký
của Tư Mã Thiên viết vào thời Hán Vũ Đế (khoảng thế kỷ thứ nhất trước
Công nguyên) đến bộ Thanh Sử viết vào đầu thế kỷ thứ 20. Những bộ sử
này, nhất là những bộ sử của các triều đại mà Việt Nam còn là một bộ
phận của đế quốc Trung Hoa là nguồn tư liệu quan trọng nhất để tìm hiểu
lịch sử nước ta trong thời gian này.
Theo khuôn mẫu đầu tiên được đưa ra bởi Tư Mã Thiên, một bộ chính sử của Trung Quốc bao gồm nhiều phần. Phần thứ nhất gọi là kỷ chép lại những việc xảy ra theo từng năm một của mỗi triều vua Trung Quốc. Sau đó là phần chí cho biết những dữ kiện về hành chánh, địa lý, văn học, thiên văn, luật lệ cho đến cả y phục các quan và dân chúng, vân vân… Chiếu, chế, biểu
là phần thứ ba ghi lại những bài có tính cách quan trọng của triều đại,
hoặc chiếu của vua hoặc bài biểu các quan trình lên. Và sau cùng là truyện ghi
lại tiểu sử của những nhân vật, hoặc trung, hoặc gian, có đóng một vai
trò quan trọng trong lịch sử của triều đại. Đặc biệt phần truyện của các
bộ sử này thường bao gồm những đoạn kể lại quan hệ giữa đế quốc Trung
Hoa và các nước lân bang. Đây là một nguồn tư liệu quan trọng cho việc
tìm hiểu lịch sử Việt Nam và quan hệ giữa nước ta và Trung Quốc. Ngoài
ra có thể liệt vào chính sử những bộ từ điển Bách Khoa như bộ Thông Điển của Đỗ Hựu đời Đường hoặc Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử đời Tống, hoặc một số bộ sử Trung Quốc như bộ Tự Trị Thông giám của Tư Mã Quang thời Tống. Đặc biệt trong những bộ sử loại này có bộ An Nam Chí Nguyên
của Cao Hùng Trưng viết vào thời Minh, nhắc lại lịch sử Việt Nam từ
thời Hùng Vương cho đến hết đời Trần đã tổng hợp khá nhiều những tư liệu
tản mạn trong các sách sử của Trung Quốc cho đến thời đó.
Dã
sử là những hồi ký, truyện ký, văn thơ hoặc là những bộ sử viết riêng
về một sự kiện xảy ra trong quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Những
bộ này có thể do các quan lại Trung Quốc được cử sang cai trị Việt Nam
hoặc là những người khác có quan hệ đến các sự kiện xảy ra viết lại.
Những bộ dã sử này cung cấp thêm rất nhiều tài liệu quý giá mà chính sử
vì nhu cầu giản lược không thể chép hết vào được.
Những
tư liệu thành văn cổ nhất còn lưu truyền lại đến nay là những bài viết
của những sử gia và những quan lại Trung Quốc viết sau khi nước ta trở
thành một bộ phận của đế quốc người Hán. Những bộ sách này tuy hầu hết
nói đến tình hình nước ta sau khi nội thuộc, nhưng một số cũng nhắc đến
những sự kiện vào thời gian mà họ gọi là "đất Giao Chỉ xưa khi chưa chia thành quận huyện".
Có lẽ bộ sách của người Hán đầu tiên có nhắc đến nước ta là bộ Sử Ký
của Tư Mã Thiên viết vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Trong Nam
Việt Úy Đà truyện, Tư Mã Thiên đã nhắc đến Âu Lạc và Tây Âu Lạc. Sang
đến thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên, Ban Cố viết Hán Thư
mới lần đầu tiên nhắc đến người Lạc Việt trong Giả Quyên truyện. Tuy
nhiên phải đến thế kỷ thứ 4 và thứ 5 sau Công nguyên, các thư tịch Trung
Hoa mới nói đến giai đoạn Hùng Vương. Hùng Vương đầu tiên được ghi chép
trong thư tịch Trung Quốc trong các cuốn Giao Châu Ngoại Vực Ký và Quảng Châu Ký. Rất tiếc các sách này sau đó đã thất truyền. Cũng cùng thời với hai cuốn trên là Hậu Hán Thư của Phạm Việp. Trong cuốn này Phạm Việp có nhắc đến Trưng Trắc là con gái Lạc tướng Mê Linh. Ngoại trừ Hậu Hán Thư, tất cả các sách trên đều đã thất truyền, chỉ còn lại một số đoạn trích dẫn trong các sách khác như Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên hoặc Cựu Đường Thư, một bộ chính sử đời Đường. Riêng về tên nước Văn Lang thì phải đợi đến đời Đường mới được nhắc đến khi chỉ định quận huyện ở Giao Châu như sách Thông Điển, một cuốn bách khoa toàn thư thời cổ, do Đỗ Hựu, ông nội của nhà thơ Đỗ Phủ, viết "Phong Châu là nước Văn Lang xưa".
Tuy
nhiên khi đọc các sử liệu của Trung Quốc, ta cần phải lưu ý đến hai
điều. Thứ nhất những bộ sử này được viết ra dưới nhãn quan của người
Trung Quốc. Chính vì vậy những sự kiện được kể lại hầu hết có liên quan
đến những hoạt động của các triều đại hoặc các quan lại Trung Quốc tại
Việt Nam mà thôi, rất ít khi có những sự kiện gì thuần túy của người
Việt được ghi lại trong đó. Thứ hai, những bộ sử Trung Quốc, nhất là
chính sử đều được viết ra để bảo vệ cho quan điểm chính thống của các
triều đại, trong đó triều vua nào cũng được coi như là có ‘mệnh trời" để
cai trị muôn dân cho đến khi ‘mệnh trời" đó bị mất đi vì các triều vua
sau đã không giữ được cái hòa khí với trời đất và nhân dân. Chính vì
vậy, rất nhiều những sự việc không phù hợp với quan điểm đó đã bị bỏ sót
hoặc chỉ được nhắc đến một cách sơ sài, trong khi những hiện tượng mà
chúng ta có thể không để ý đến như những điềm lành, điềm gở lại được ghi
lại rất cẩn thận. Ngoài ra, vì sử Trung Quốc chỉ ghi lại những điều
liên quan đến triều đình Trung Quốc, thành ra vào những thời kỳ loạn lạc
tại trung ương, mà cũng chính là những lúc có nhiều biến động nhất xảy
ra tại những vùng biên duyên của đế quốc Trung Hoa như Việt Nam, thì các
bộ sử này lại thường không ghi chép lại những sự việc xảy ra tại đó mà
chỉ tập trung chung quanh các vùng lân cận với kinh đô mà thôi.
Một cuốn sách có thể coi như là cả Việt cả Trung Quốc là cuốn An Nam Chí Lược
của Lê Tắc. Lê Tắc là gia thần của Trần Kiện. Trần Kiện đầu hàng nhà
Nguyên khi quân Nguyên sang đánh Đại Việt trong thế kỷ 13. Khi Trần Kiện
bị quân nhà Trần bắn chết Lê Tắc ôm xác Trần Kiện chạy về được đến
Trung Quốc và ở lại Trung Quốc cho đến khi chết. Lê Tắc viết cuốn An Nam Chí Lược
này khi ở Trung Quốc và ngoại trừ những sự kiện đương thời hầu hết
những sự kiện lịch sử về Việt Nam kể lại trong cuốn này đều dựa vào
những sử liệu Trung Quốc. Tuy nhiên vì Lê Tắc là người Việt, sinh ra và
lớn lên tại Đại Việt, thành ra mặc dầu đầu hàng Nguyên, nhưng quan điểm
viết sử của ông cũng không hoàn toàn là của Trung Quốc. Một số những dữ
kiện ghi lại trong An Nam Chí Lược,
đặc biệt là về những cuộc nổi dậy của dân Việt dưới thời Bắc thuộc tỷ
như cuộc nổi dậy của bà Triệu đã được ghi lại trong Lê Tắc mà không có
trong các sử liệu Trung Quốc
1.3. Những sử liệu Việt Nam
Các
tài liệu về lịch sử Việt Nam bao gồm rất nhiều thành phần phức tạp mà
độ tin cậy thay đổi rất nhiều. Trước hết phải kể đến hai bộ chính sử do
sử quan các triều đại viết ra, bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Bộ chính sử đầu tiên còn lưu truyền lại đến nay là bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sỹ Liên và sau đó được nhiều thế hệ sử quan chép thêm vào cho đến cuối đời Lê. Ngô Sỹ Liên đã căn cứ vào hai bộ Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu và Đại Việt Sử Ký Tục Biên của Phan Phù Tiên, thêm phần Ngoại Kỷ viết về thời đại tiền Bắc Thuộc, thành bộ này vào năm 1427. Bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục
là cuốn sử Việt Nam viết bằng chữ Hán công phu nhất do các sử quan
triều Nguyễn soạn ra. Các tác giả đã tham khảo tất cả những sách xưa
biên soạn về lịch sử Việt Nam từ thời Hùng Vương cho đến thời Lê Mẫn Đế
(1789) để viết ra bộ này. Hai bộ sử này là những tài liệu không thể
thiếu được trong việc tìm hiểu lịch sử Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến
cuối thế kỷ thứ 18. Ngoài hai bộ chính sử vừa kể trên, bộ Đại Việt Sử Lược
là bộ biên niên sử xưa nhất của Việt Nam còn lưu truyền lại đến nay. Bộ
này được viết vào thời Trần và đã bị thất truyền tại Việt Nam trong
thời thuộc Minh, nhưng may mắn là còn được lưu truyền tại Trung Quốc
trong Tứ Khố Toàn Thư. Một số học giả Việt Nam và Trung Quốc cho rằng cuốn Đại Việt Sử Lược này là cuốn Việt Chí của Trần Phổ đầu đời Trần soạn với giai đoạn thời Trần được thêm vào sau. Cuốn Việt Chí là cuốn mà Lê Văn Hưu sử dụng để viết lên cuốn Đại Việt Sử Ký. Tuy nhiên một số học giả tây phương và Nhật Bản lại cho rằng Đại Việt Sử Lược chính là cuốn Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu rút gọn lại.
Ngoài
những bộ sử nói trên còn có những bộ sử nói về một số những sự kiện mà
chính sử hoặc chép lại không đầy đủ hoặc bỏ sót không nói tức là những
bộ "thực lục" như Trung Hưng Thực Lục kể lại cuộc kháng chiến chống quân Nguyên của nhà Trần ; Lam Sơn Thực Lục kể lại cuộc chiến đấu chống quân Minh của Lê Lợi ; Đại Nam Thực Lục ghi lại công nghiệp các chúa Nguyễn tại miền Nam. Một trong những bộ sách có giá trị nữa là bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí
của Phan Huy Chú ghi lại cuộc đời các danh nhân Việt Nam cùng những chi
tiết về tài chánh, kinh tế, luật lệ, văn học của các triều đại trước
triều Nguyễn.
Trong các tài liệu về cổ sử Việt Nam có lẽ có giá trị nhất là hai quyển sách xưa, Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên viết vào năm 1329 và Lĩnh Nam Chích Quái của
Trần Thế Pháp viết vào đầu thế kỷ thứ 14 và được Vũ Qùynh và Kiều Phú
biên soạn lại vào năm 1498. Tác giả Việt Điện U Linh Tập đã dựa vào
những sách mà ngày nay không còn nữa như Giao Chỉ Ký (khuyết danh), Báo Cực Truyện (khuyết danh), Giao Châu Ký của Triệu Xương và của Tăng Cổn đời Đường, Sử Ký của Đỗ Thiện cùng với những chuyện linh thiêng trong dân gian để viết thành sách này. Lĩnh Nam Chích Quái
bao gồm những truyện truyền khẩu trong dân gian được sưu tầm và viết
lại. Nội dung các truyện trong hai quyển sách này còn có nhiều chỗ hoang
đường và ước lệ nhưng cũng phản ảnh được tình hình xã hội của tổ tiên
dân Việt thời xa xưa.
Cũng cùng một loại với các truyện trong Việt Điện U Linh Tập và Lĩnh Nam Chích Quái
là những thần tích và ngọc phả các đền thờ tại các làng miền Bắc và
miền Trung trong đó có cả ngọc phả đền Hùng và đền Tản Viên cùng với
những chuyện cổ tích dân gian về các vị anh hùng dân tộc. Những tài liệu
này đã được sưu tầm khá nhiều bởi các nhà sử học từ thời Pháp thuộc cho
đến về sau này. Chúng cho những người tìm hiểu về lịch sử Việt Nam
nhiều thông tin quý giá. Tuy nhiên những tài liệu đó còn chứa nhiều yếu
tố hoang đường thần thoại hơn nữa. Ngoài ra, nhất là những thần tích và
ngọc phả khi được viết lại bởi những nhà nho về sau thì đã bị thay đổi
và biến chế theo quan điểm lễ giáo đời sau ; tỷ như ngọc phả đền Hùng
ghi chép đủ 18 đời vua Hùng vương với đầy đủ duệ hiệu như các vua thời
Lê là một điều chắc chắn không thể xảy ra được khi mà tập quán này chỉ
mới xuất hiện tại nước ta dưới triều Lý. Hầu hết những thần tích, ngọc
phả này được viết lại vào khảng thế kỷ 18 dưới triều Lê Trung Hưng vì
vậy ta có thể thấy rõ yếu tố nho giáo đã ảnh hưởng vào những bản văn đó
rất nhiều.
1.4. Sử liệu của các nước khác
Từ
thế kỷ 16 trở đi, việc liên lạc với các nước phương tây được mở ra, ta
có thêm những tài liệu của các thương gia và các nhà truyền giáo phương
tây. Những tài liệu này lúc đầu còn ít nhưng càng về sau càng nhiều và ở
tản mạn tại các văn khố của nhiều nước cũng như tại Giáo Hội Thiên Chúa
Giáo La Mã. Sang đến thời thuộc Pháp thì những tài liệu này có thể nói
là đóng vai trò chính trong việc tìm hiểu lịch sử Việt Nam. Kể từ khi
thế chiến thứ hai chấm dứt thì những tài liệu về lịch sử Việt Nam lại
càng nhiều hơn nữa và trở nên phức tạp hơn vì Việt Nam là một trong
những điểm nóng quan trọng nhất của cuộc chiến tranh lạnh và những sự
kiện chính trị cũng như kinh tế của Việt Nam nay không còn có thể chỉ
tìm ở trong nội bộ Việt Nam hoặc qua những tương tác với vài nước lân
bang mà còn phải được tìm hiểu qua những quyết định từ những thủ đô của
các cường quốc trên thế giới.
Chương 2. Tổng quan về lịch sử Việt Nam
"Herodotus
của Halicarnassus đã viết lại dưới đây những tìm tòi của mình để giữ
lại những chuyện của quá khứ, để viết lên những thành quả đáng ngạc
nhiên của chính chúng ta và của những dân tộc khác, và đặc biệt để chỉ
cho thấy tại sao họ và chúng ta lại đi vào con đường chiến tranh".
Đó
là câu mở đầu cuốn lịch sử cuộc chiến giữa đế quốc Ba tư và thế giới Hy
Lạp của Herodotus, có thể nói là cuốn lịch sử đầu tiên của nhân loại.
Câu này tóm lại một đặc tính căn bản của lịch sử, tức là ghi lại những
chuyện xảy ra trong quá khứ. Nhưng cũng như Herodotus đã viết ở trên,
ghi lại quá khứ không, không đủ. Lịch sử còn có nhiệm vụ giải thích.
Giải thích tại sao mọi chuyện lại diễn ra như vậy, nhất là trong trường
hợp lịch sử một dân tộc. Không những chúng ta cần phải tìm hiểu những
chuyện gì đã xảy ra cho dân tộc ta, mà ta còn phải tìm hiểu những chuyện
xảy ra đó nó ảnh hưởng và đóng góp như thế nào vào sự hình thành của
dân tộc.
Người
sử gia tìm cách vẽ lại lịch sử vì vậy cần phải tính đến những thay đổi
khả dĩ có thể làm thay đổi chiều hướng lịch sử trong mỗi sự kiện lịch sử
ghi lại mà nếu không có, có thể khiến lịch sử đi về một hướng khác. Đó
là những "bước ngoặc lịch sử" mà không lịch sử dân tộc nào không có.
Lịch
sử Việt Nam cũng vậy. Dân tộc ta hiện nay khác hẳn với dân tộc ta cách
đây trên hai ngàn năm. Trong quá trình tiến hóa của dân tộc Việt chúng
ta đã trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn được đánh dấu bởi một bước
ngoặc quan trọng mà nếu không xảy ra thì sẽ đưa dân tộc Việt Nam vào
một con đường khác, biến diễn biến lịch sử của chúng ta khác hẳn đi.
Những bước ngoặc đó tuy không phải ngẫu nhiên, nhưng cũng không tất yếu
phải xảy ra. Chúng là một hậu quả vừa của những lực tác động lâu dài,
vừa là hậu quả của một số những tình cờ lịch sử, độc nhất có thể không
bao giờ xảy ra lần nữa. Mỗi bước ngoặc này mở đầu cho một giai đoạn lịch
sử mới mà những diễn tiến của nó lại là tiền đề cho một bước ngoặc tới,
đưa lịch sử nước Việt sang một trạng thái khác. Vậy thì những bước
ngoặc trong lịch sử Việt Nam là những bước ngoặc nào ?
Nhìn
lại lịch sử Việt Nam suốt từ thời lập quốc đến nay, ta có thể thấy nước
ta đã trải qua sáu bước ngoặc quan trọng. Bước ngoặc thứ nhất xảy ra
khi dân tộc Lạc bắt đầu tiếp xúc với sự bành trướng của Hán tộc từ
phương Bắc xuống. Các tiếp xúc này có thể bắt đầu từ thời An Dương Vương
nhưng chỉ trở nên chặt chẽ hơn từ khi nước Âu Lạc bị xáp nhập vào quốc
gia Nam Việt của Triệu Đà. Trong một thời gian dài kể từ khi An Dương
Vương mất nước cho đến cuối nhà Tây Hán, một cuộc đấu tranh âm ỷ diễn ra
để xem dân tộc Lạc có thể tồn tại như một dân tộc thuộc nền văn minh
Đông Nam Á hay không.
Bước
ngoặc lịch sử thứ hai xảy ra khi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất
bại, Mã Viện bắt đầu việc Hán hóa toàn diện xã hội Lạc cũ. Giai đoạn
này, kéo dài gần một nghìn năm từ đầu nhà Đông Hán cho đến cuối nhà
Đường khi Ngô Quyền cuối cùng đánh bại quân Nam Hán dựng nền độc lập cho
dân tộc Việt.
Trong
khoảng gần một ngàn năm Bắc Thuộc kể từ sau Mã Viện này, xã hội dân Lạc
đã qua nhiều giai đoạn chuyển đổi để trở thành một xã hội khác, xã hội
Việt, hầu như khác hẳn với xã hội cũ. Việc chuyển đổi này diễn ra qua
nhiều thời kỳ, với mỗi thời kỳ đánh dấu bởi một số những bước ngoặc nhỏ.
Thời kỳ đầu tiên có thể gọi là thời kỳ Hán Lạc diễn ra ngay sau cuộc
chinh phục của Mã Viện. Trong thời kỳ này, tầng lớp quý tộc cũ của dân
Lạc thời Hùng Vương hầu như bị tiêu diệt hoàn toàn. Một số bị giết. Một
số bị lưu đầy sang Trung Quốc - Mã Viện đầy 300 gia đình quý tộc dân Lạc
sang Trường Sa, Hồ Nam. Một tầng lớp quý tộc mới xuất hiện bao gồm
những quan lại và quân sỹ người Hán theo Mã Viện sang đất Lạc cùng với
những tầng lớp quý tộc người Lạc cũ đầu hàng Hán. Đầu tiên tầng lớp quý
tộc này đóng một vai trò quan trọng trong việc giữ cho đất Giao Chỉ tiếp
tục nằm trong đế quốc Hán, nhưng dần dà họ bị Lạc hóa và có một nhận
thức về sự khác biệt giữa xã hội mà họ sống với xã hội Hán mà họ để lại ở
phương Bắc. Giai đoạn này kết thúc với đỉnh cao quyền lực của nhóm này
qua vai trò của Sỹ Nhiếp và gia đình họ Sỹ vào thời Tam Quốc. Nhóm này
tìm cách tạo ra một sự tổng hợp giữa những giá trị Nam và Bắc, Đông Nam Á
và Trung Quốc.
Nhưng
việc tiêu diệt gia đình họ Sỹ dưới thời Ngô Tôn Quyền đã làm hỏng những
cố gắng đó và mở đầu cho một thời kỳ mới, tạm gọi là thời kỳ Lạc Việt.
Xã hội tại Giao Châu dưới thời Tôn Quyền không còn là xã hội cũ nữa mà
đã bị Hán hóa rất nhiều. Từ Lạc xã hội này đã trở thành Việt. Những cố
gắng cuối cùng của một số những quý tộc Lạc cũ tại những vùng xa ảnh
hưởng của Trung Quốc như cuộc khởi nghĩa của bà Triệu đã thất bại. Trong
giai đoạn này xã hội, đặc biệt là tầng lớp quý tộc Giao Châu bị dao
động dưới hai khuynh hướng, khuynh hướng trung thành với đế quốc Hán và
khuynh hướng muốn tách khỏi đế quốc Hán để tạo dựng lên một quốc gia
riêng của mình. Các cuộc tranh chấp này được tiêu biểu bởi hai giòng họ,
họ Lý và họ Đỗ, trong đó họ Đỗ đại biểu cho khuynh hướng trung thành
với đế chế và họ Lý chủ trương tách ra thành một quốc gia riêng.
Các
cuộc đấu tranh bên trong nội bộ giữa các giòng họ chung quanh việc
trung thành hay không đối với đế chế đã kết thúc với cuộc khởi nghĩa của
Lý Bí và việc thành lập đất nước Vạn Xuân. Khuynh hướng độc lập đã
chiến thắng và chỉ còn vấn đề thời gian trước khi vùng Giao Châu trở
thành một nước độc lập tách rời ra khỏi đế quốc Trung Hoa. Cũng trong
giai đoạn này, một biến đổi lớn xuất hiện tại vùng đồng bằng sông Hồng.
Sau mấy trăm năm dưới sự kiểm soát của đế quốc Trung Hoa, những làng mạc
tại vùng này đã bắt đầu bị ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa thống trị,
mở đầu cho sự phân tách dân Lạc cổ thành ra hai tộc người khác nhau,
Việt và Mường. Sự phân chia này cuối cùng đã hoàn tất trong giai đoạn
thuộc nhà Đường. Sự tham gia của Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục
vào cuộc khởi nghĩa của Lý Bí đánh dấu sự đồng hóa hoàn toàn của những
người Hán ngụ cư vào xã hội Lạc Việt.
Thời
gian độc lập của Lý Bí và những người thừa kế ông như Triệu Quang Phục,
Lý Phật Tử kéo dài được 60 năm, một giai đoạn kéo dài hai thế hệ và đã
để lại một dấu ấn sâu rộng vào trong lòng xã hội Việt. Chính vì vậy mà
ba trăm năm thuộc Đường, một đế quốc có một nền văn minh vào hàng rực rỡ
nhất của nhân loại cũng không thể nào khiến cho dân Việt chấp nhận ở
lại trong lòng đế chế nữa. Trong giai đoạn này, giai đoạn Đường Việt,
dân Việt hấp thụ rất nhiều từ nền văn minh Đường, ngay cả trong ngôn ngữ
- việc tách rời tiếng Việt khỏi tiếng Mường bắt đầu từ giai đoạn này.
Chế độ cai trị thời Đường cởi mở hơn cho những người sống tại Giao Châu,
có những người Việt đã thành đạt lớn tại triều đình Đường, như Khương
Công Phụ trở thành tể tướng thời Đường Đức Tông. Nhưng những điều đó
không đủ ngăn chặn những khát vọng độc lập của người Việt. Và khi nhà
Đường suy yếu và sụp đổ, cơ hội độc lập đã đến. Sau một thời gian dài tự
trị dưới thời họ Khúc, đất Việt đã hoàn toàn được giải phóng và trở
thành một quốc gia độc lập dưới Ngô Quyền.
Chiến
thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền đánh dấu một bước ngoặt mới quan trọng
trong lịch sử Việt Nam. Mặc dầu còn những liên hệ mật thiết với đế quốc
Trung Hoa, nhưng vận mệnh đất Việt không còn gắn liền với vận mệnh đế
quốc này nữa. Người Việt đã có thể tự do vạch một con đường cho đất nước
và dân tộc mình. Xã hội mà Ngô Quyền thành lập vương triều mới là một
xã hội phong kiến cát cứ, có nhiều điểm tương tự với xã hội phương Tây
thời Trung cổ. Sau nhiều thập niên loạn lạc vào cuối triều Đường, những
hào tộc ở các địa phương đã tự thành lập những tiểu vùng dưới sự cai
quản của mình và trở thành những lãnh chúa. Giống như những lãnh chúa
tại phương Tây, họ chịu sự quản chế phần nào của chính quyền trung ương
nhưng hầu như độc lập trong vùng lãnh thổ của họ. Tuy nhiên trái với
tình trạng của phương Tây thời Trung cổ, xã hội phong kiến Đại Việt lúc
đó không có những đô thị với tầng lớp thị dân làm một đối trọng đối với
các lãnh chúa và triều đình trung ương. Chính vì vậy mà chế độ phong
kiến Đại Việt đã không tạo ra được những sự thay đổi dẫn đến một thể chế
dân chủ như tại Tây phương.
Chế
độ phong kiến Đại Việt trong những năm đầu sau khi nhà nước Đại Việt
mới được thành lập chịu những áp lực phân hóa địa phương rất mạnh. Tàn
dư của những tinh thần địa phương đó còn tồn tại cho đến ngày nay. Sau
khi Ngô Vương mất, lực ly tâm của cái tinh thần địa phương này đã tạo ra
tình trạng Thập Nhị Sứ Quân. Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn Thập Nhị Sứ Quân,
kiến lập ra triều Đinh, nhưng vẫn không có thay đổi gì trong xã hội. Xã
hội Đại Việt dưới các triều Đinh, Tiền Lê, Lý và Trần vẫn là một xã hội
phong kiến, phân chia rõ rệt thành các giai cấp trong đó giai cấp quý
tộc là giai cấp thống trị.
Mặc
dầu dưới chế độ phong kiến này, công và thương không bị coi rẻ như ở
những triều đại sau, công nghệ và thương mại đạt được nhiều bước phát
triển tốt đẹp, nhưng thiếu những thành thị lớn với một tầng lớp thị dân
độc lập cho nên không thể tạo ra được một giai tầng thứ ba (third
estate). Cơ sở tài chánh nhà nước vẫn nằm ở trong tay nông dân tại các
làng xã mà một phần đã bị chia sẻ cho các tầng lớp quý tộc qua các điền
trang. Chính vì vậy khi chế độ phong kiến bắt đầu suy thoái, khi kinh tế
điền trang chiếm quá nhiều các tài nguyên của nhà nước, thì một cuộc
khủng hoảng xảy ra mà hầu như không có biện pháp giải quyết. Cuộc khủng
hoảng vào cuối triều Lý đã không được giải quyết tận gốc mà chỉ thay thế
một tầng lớp quý tộc cũ của triều Lý bằng một tầng lớp quý tộc mới của
triều Trần. Những chính sách mà triều đình nhà Trần đưa ra trong những
năm đầu, hạn chế bớt điền trang của các quý tộc, khuyến khích nông
nghiệp đã tạo được một số những ổn định trong đời sống xã hội, nhưng ba
cuộc chiến tranh chống nhà Nguyên liên tiếp trong ba mươi năm đã làm đất
nước kiệt quệ. Việc phát triển thái ấp điền trang vào cuối triều Trần
cũng có tác động như vào cuối triều Lý. Nó làm cho chính quyền trung
ương càng ngày càng không có đủ nhân lực cũng như tài lực để đối phó với
những khó khăn thời thế tạo ra. Các cải tổ của cha con Hồ Quý Ly nhằm
củng cố chính quyền trung ương, hạn chế điền trang, hạn chế nô tỳ chỉ là
những biện pháp nửa vời không có tác dụng bao nhiêu. Và đất nước lại
một lần nữa rơi vào tay đế quốc Trung Hoa khi nhà Minh dưới triều Vĩnh
Lạc trở nên cường thịnh muốn phát triển sức mạnh của họ ra ngoài biên
giới truyền thống của đế chế.
Hai
mươi năm cai trị của nhà Minh đã đẩy xã hội Đại Việt đi vào một bước
ngoặt mới. Trong cố gắng đồng hóa dân Đại Việt, nhà Minh đã mang toàn bộ
thể chế xã hội tại Trung Quốc áp dụng vào Đại Việt. Xã hội phong kiến
cũ dưới thời Lý Trần có thể coi như toàn bộ bị xóa bỏ. Một xã hội mới
được tạo dựng lên, trong đó giai cấp quý tộc cũ không còn quyền hành
nữa. Những cố gắng "Nho hóa" của triều Minh đã được triều Lê sau đó tiếp
tục, nhất là dưới triều Lê Thánh Tông. Các tầng lớp quý tộc thời Lê,
những vương công đại thần nay không còn có điền trang thái ấp nữa. Họ
cũng không có quyền có nô tỳ, có quân đội riêng. Quyền lực tập trung vào
trong tay chính quyền trung ương. Xã hội dưới triều Hậu Lê được tổ chức
rập khuôn như xã hội Trung Quốc ; thành phần sĩ phu được coi trọng
trong khi công và thương nghiệp bị coi rẻ.
Tuy
rằng triều Lê đã cố gắng để loại bỏ những thế lực địa phương, tập trung
chính quyền vào trung ương nhưng cố gắng này không hoàn toàn thành
công. Sự suy thoái của nhà hậu Lê, bắt đầu từ sau khi Hiến Tông băng, đã
mở đường cho cuộc tranh chấp giữa những tập đoàn miền đồng bằng sông
Hồng và những tập đoàn miền Thanh Nghệ với hậu quả là đất nước Đại Việt
bị chia cắt thành hai, một bên là tập đoàn đồng bằng sông Hồng đại biểu
là nhà Mạc và bên kia là tập đoàn miền Thanh Hóa đại biểu là họ Trịnh,
mang tiếng phù Lê nhưng thực tế là nắm toàn bộ chính quyền trong tay
mình. Cuộc nội chiến giữa họ Trịnh và nhà Mạc chưa chấm dứt thì trong
nội bộ hai phe Thanh Nghệ lại có sự chia rẽ. Họ Nguyễn, một trong những
tập đoàn lớn ở miền Thanh Nghệ và liên minh với họ Trịnh chống lại nhà
Mạc tách ra lập một triều đại mới ở vùng Thuận Quảng. Cuộc nội chiến
Trịnh Nguyễn kéo dài trên 200 năm với những giai đoạn dài đình chiến cho
đến khi một hậu duệ của họ Nguyễn, Nguyễn Ánh thống nhất đất nước vào
năm 1800.
- Một bước ngoặt mới trong lịch sử Đại Việt đã xuất hiện vào thế kỷ thứ 17. Với sự hiện diện của người Âu, một tôn giáo khác cũng xuất hiện và càng ngày càng đóng một địa vị quan trọng trong lịch sử nước ta : Thiên Chúa giáo.
Những
người Âu đầu tiên đến Việt Nam là người Bồ Đào Nha. Ngay từ năm 1516 đã
có những tầu buôn Bồ Đào Nha cập bến các hải cảng Việt Nam và Chiêm
Thành để buôn bán. Cho đến khoảng giữa thế kỷ 16, một số những giáo sỹ
Bồ Đào Nha cũng đã có mặt để truyền giáo. Tại Việt Nam những người này
hầu hết cập bến trong vùng kiểm soát của chúa Nguyễn vốn nằm trên hải lộ
đi từ Ấn Độ Dương sang Trung Quốc. Tiếp theo người Bồ Đào Nha lần lượt
xuất hiện những tầu buôn của các nước Hòa Lan, Anh và Pháp với công ty
hàng hải Đông Ấn Hòa Lan (VOC), Anh (EIC) và Pháp (CIO)
Sự
hiện diện của các tập đoàn người Âu đó đã làm thay đổi cục diện chiến
tranh giữa các nước tại Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Súng và nhất là
đại bác đã xuất hiện từ trước khi người Âu sang đến vùng này. Ngay từ
đầu thế kỷ 15, con trưởng của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng đã biết đúc
súng thần công để chống quân Minh (Hồ Nguyên Trừng sau này được quân
Minh đem về Bắc và giúp nhà Minh lập ra đội Thần Cơ Doanh (pháo binh) để
chống lại quân Mông Cổ). Nhưng kỹ thuật vũ khí của người Âu nhất là
trên phương diện hải quân đã vượt xa khả năng kỹ thuật của các chúa
Trịnh, Nguyễn của Việt Nam cũng như là các vua chúa khác trong vùng Đông
Nam Á.
- Vào lúc đó, vũ khí do người Âu làm ra được coi như là những vũ khí tốt nhất trên thế giới và cả hai bên đều muốn lợi dụng những khả năng chuyên môn của người Âu để đạt được ưu thế đối với bên kia. Trong cuộc chạy đua kiếm ngoại viện này, vùng Đàng Trong của các chúa Nguyễn có ưu thế hơn Đàng Ngoài của chúa Trịnh vì vùng biển miền Trung của chúa Nguyễn nằm ngay trên đường hàng hải quốc tế từ Âu châu sang Trung Quốc vốn là mục tiêu chính của các cuộc buôn bán của người Tây Dương. Tại Huế, các chúa Nguyễn đã thuê một người Bồ Đào Nha, Joao da Cruz lập một xưởng đúc súng để cung cấp pháo binh cho đàng trong vào cuối thế kỷ thứ 16, trước cả khi các nhà truyền giáo đến Việt Nam. Các chúa cũng thuê các pháo thủ Bồ Đào Nha để huấn luyện cho binh sỹ của mình về pháo binh. Đó là một yếu tố quan trọng giúp họ Nguyễn chiến đấu được cân bằng với họ Trịnh (G. Maybon, Histoire moderne du pays d'Annam 1592-1820). Ngoài nguồn súng tự cấp và mua của người Bồ Đào Nha, các chúa Nguyễn còn một nguồn khác về súng là do các tầu buôn nước ngoài bị đắm ở ngoài khơi bờ biển miền Trung. Các vụ đắm tầu này xảy ra rất nhiều trong nửa đầu của thế kỷ thứ 17 vì các nhà hàng hải lúc đó còn chưa am tường vị trí những hòn đảo và bãi đá ngầm chung quanh các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các tầu đắm này đều bị các chúa Nguyễn tịch thu, xung công các hàng hóa và vũ khí. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến những cuộc đụng độ giữa chúa Nguyễn và các công ty Đông Ấn của Anh và Hòa Lan khiến các công ty này đi ra miền Bắc thông thương với chúa Trịnh. Công ty Đông Ấn của Hòa Lan còn đã có lần liên minh với chúa Trịnh để tấn công chúa Nguyễn, nhưng đã không thành công. Quân đội chúa Nguyễn trong thời đó được coi như là một quân đội mạnh nhất của Đông Nam Á, đặc biệt là về hải quân.
- Tình hình thay đổi vào cuối thế kỷ thứ 18 khi triều chính của cả hai nhà Trịnh Nguyễn đều suy thoái. Cuộc khởi nghĩa nông dân của anh em nhà Tây Sơn đã quét sạch cả hai triều đại vào trong bóng tối của lịch sử mang theo cả ngai vàng vua Lê vốn đã không còn ý nghĩa gì từ gần hai trăm năm. Sau khi đánh bại đội quân xâm lược của nhà Thanh sang can thiệp theo lời khẩn cầu của vị vua cuối cùng triều Lê, Lê Chiêu Thống, đối thủ cuối cùng của nhà Tây Sơn là một di duệ của giòng họ Nguyễn, Nguyễn Ánh.
- Quan hệ phức tạp giữa chính quyền của các chúa cũng như của Tây Sơn đối với các nước phương Tây cũng thể hiện qua chính sách của các chính quyền này với những người theo đạo Thiên Chúa. Đối với các chúa, đạo Thiên Chúa chỉ là một giáo phái dân gian, chỉ cần phải đàn áp khi tôn giáo này tỏ ra muốn thách đố quyền cai trị của họ. Nhưng vấn đề có phức tạp hơn vì những người truyền giáo là những người Âu và những người này, hay ít nhất là những đồng hương của họ, nắm trong tay bí quyết làm ra những vũ khí mà sự hiệu nghiệm cao hơn là vũ khí mà các vương triều Đại Việt có thể làm được. Chính vì vậy mà những giáo đồ Thiên Chúa giáo trở thành những con tin để cho các chúa, nhất là chúa Trịnh dùng để uy hiếp các giáo sỹ lấy vũ khí.
- Miền Bắc ở cách khá xa đường hàng hải chính đi từ châu Âu sang Trung Quốc và Nhật Bản. So với miền Nam, miền Bắc có ít sản phẩm có thể bán được sang các nước châu Âu hơn. Chính vì vậy mà các chúa Trịnh đã dùng những biện pháp khác nhằm thu hút sự giúp đỡ của các người Tây Dương. Một trong những biện pháp được sử dụng là tôn giáo. Trong suốt thế kỷ 17 và nửa đầu thế kỷ 18, các chúa làm áp lực với Macao qua các giáo sỹ giòng Tên (Jesuit). Việc đàn áp hoặc thả lỏng cho các tín đồ công giáo cũng như là việc truyền đạo của các giáo sỹ tùy thuộc vào các đơn đặt hàng - phần lớn là những khẩu trọng pháo - có đến hay không hoặc là đến sớm hay đến muộn.
- Cuộc chiến đấu giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn cuối cùng đã kết thúc với chiến thắng của Nguyễn Ánh được sự trợ giúp của những lính đánh thuê phương tây do một giáo sỹ Thiên chúa giáo La Mã, Bá Đa Lộc tuyển từ bên Pháp sang sau khi thỏa hiệp Versailles ký giữa đại diện của Nguyễn Ánh với vương triều Pháp của vua Louis 16 không được thi hành vì những biến động cách mạng tại Pháp. Nhưng không phải chỉ Nguyễn Ánh cầu viện sự giúp đỡ của các nước Tây Phương. Phía Tây Sơn, Nguyễn Nhạc đã từng đề nghị một liên minh với Anh và Nguyễn Huệ cũng nhiều lần ngỏ ý với Bồ Đào Nha để mua vũ khí và tuyển huấn luyện viên cho quân đội của mình nhưng không thành công.
- Trên phương diện văn hóa văn hóa xã hội, các thế kỷ mà đất Đại Việt bị chia cắt này lại là những thế kỷ mà tiếng Việt được hoàn chỉnh. Nền văn học chữ nôm, phát xuất từ những năm đầu đời Trần đã lên đến một đỉnh cao vào cuối thế kỷ thứ 18. Trong khi đó xã hội Đại Việt, mặc dầu những cố gắng "nho hóa" của thời Lê Sơ đã dần dần tách ra khỏi lý tưởng Nho Giáo đó. Tại miền Bắc tuy rằng các kỳ thi tuyển vẫn được mở ra thường xuyên, nhưng số người được đỗ càng ngày càng ít đi. Tại miền nam, các kỳ thi hầu như không được mở ra và các chúa Nguyễn đã trở lại như những triều đại độc lập đầu tiên, dựa vào Phật Giáo để tiện việc cai trị. Việc chúa Nguyễn đứng ra lập chùa Thiên Mụ tại Huế là một bằng chứng điển hình.
- Trên phương diện kinh tế, mặc dầu nông nghiệp vẫn là chính, và các nghề công thương bị coi rẻ, nhưng việc tiếp xúc buôn bán với phương tây cũng đã thúc đẩy việc xuất hiện một tầng lớp phú thương. Nguyễn Hữu Chỉnh là một trong những người xuất thân từ tầng lớp thương nhân này. Mặc dầu vậy, sự phân chia Đại Việt thành ra hai vương triều khác biệt trong đó mọi liên lạc và quan hệ giữa nhân dân hai miền hầu như đều bị cấm đoán đã tạo thành ra hai xã hội có nhiều đặc tính khác nhau. Sự cách ly giữa hai miền tuyệt đối đến nỗi, năm 1714, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu muốn dò xét tình hình Đàng Ngoài đã phải nhờ hai thương nhân Trung Quốc người Phúc Kiến là Bình và Quý đi đường biển sang Quảng Đông rồi do cửa Nam Quan vào Lạng Sơn đến Thăng Long. Tuy nhiên hai người đó cũng chỉ vào được tới Nghệ An rồi phải trở ra rồi theo đường cũ trở về Phú Xuân vì trấn thủ Nghệ An là Lê Thì Liêu kiểm soát biên giới rất chặt chẽ
- Nhà Tây Sơn của ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ đã diệt được hai vương triều Trịnh Nguyễn và đánh đuổi được sự can thiệp của quân Thanh, nhưng Nguyễn Huệ và con là Quang Toản cũng chưa thống nhất được toàn cõi đất nước vì dưới thời Quang Toản, miền Nam, từ Trấn Biên trở vào đến Hà Tiên lại bị Nguyễn Ánh chiếm được. Nguyễn Ánh thống nhất hai miền Nam, Bắc lập ra một triều đại mới, triều Nguyễn nhưng thực sự không mang lại một thay đổi nào cho xã hội Việt Nam. Tổ chức xã hội cũng như triều chính vẫn theo như những thế kỷ trước, mặc dầu lúc này một nguy cơ mới đã xuất hiện đe dọa nền độc lập của Việt Nam : việc bành trướng của các nước thực dân phương Tây.
- Không phải là các vua triều Nguyễn không biết đến nguy cơ này, nhưng phản ứng của mỗi vị vua một khác. Nguyễn Ánh, ông vua đầu tiên của triều đại Nguyễn (niên hiệu Gia Long) áp dụng một chính sách mềm dẻo, tiếp tục cho các thuyền buôn phương Tây vào buôn bán cũng như sử dụng những người Pháp đánh thuê mà Bá Đa Lộc đã tuyển dụng cho ông, nhưng cũng cương quyết từ chối những đòi hỏi của Pháp khi nước này đòi thi hành hiệp ước Versailles, lấy cớ rằng thỏa hiệp này đã không được Pháp thực thi vì vậy không có lý gì đòi Gia Long phải thực hiện những cam kết của mình. Sang đời con ông, Minh Mạng đã áp dụng một chính sách khác, một mặt bế quan tỏa cảng không chấp nhận quan hệ với các nước phương Tây, sa thải cho về nước những người Pháp đi theo Gia Long lúc trước, nhưng mặt khác theo dõi chặt chẽ những diễn biến bên ngoài, tìm cách thu nhập những kỹ thuật của phương Tây để tự bảo vệ. Chính sách này của Minh Mạng đã bị các triều sau từ bỏ, dẫn đến việc chỉ bế quan tỏa cảng mà không biết đến những diễn biến bên ngoài, khiến cho khả năng tự bảo vệ của Việt Nam càng ngày càng yếu đi. Trong khi đó, các nước phương Tây với cuộc cách mạng kỹ nghệ vào giữa thế kỷ thứ 19 đã càng ngày càng cường thịnh hơn. Cuộc cạnh tranh dành thị trường và thuộc địa giữa các nước Âu châu trong thế kỷ thứ 19 đã dẫn đến việc biến hầu hết Á Châu thành thuộc địa của các nước phương Tây. Và Việt Nam đã không tránh khỏi số phận như vậy. Năm 1856, viện cớ các vua Việt Nam cấm giảng đạo và giết các giáo sỹ Thiên Chúa Giáo La Mã đến truyền đạo, một hạm đội Pháp và Tây Ban Nha do Rigault de Genouilly chỉ huy đã tấn công vào cảng Đà Nẵng. Một bước ngoặt mới đã tới trong lịch sử Việt Nam.
- Trong cuộc xâm lược này, Pháp không phải là không gặp những cuộc chống cự từ phía triều đình Huế và dân chúng. Nhưng lần lượt, trong vòng ba mươi năm từ 1862, khi quân Pháp chiếm ba tỉnh miền đông Nam Kỳ cho đến 1885 khi triều đình Huế chấp nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn cõi ba kỳ và 1895, khi Pháp và nhà Mãn Thanh ký thỏa hiệp Thiên Tân trong đó nhà Thanh công nhận sự bảo hộ của Pháp tại Việt Nam, Việt Nam đã dần dà rơi vào trong tay đế quốc Pháp.
- Trong suốt giai đoạn là thuộc địa Pháp, dân Việt Nam không ngớt có những cuộc đấu tranh dành độc lập. Phong trào này có thể chia ra làm bốn giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, gọi là giai đoạn Cần Vương, khi triều đình Huế còn đôi chút chủ quyền và còn có thể cưỡng chống lại Pháp, các sỹ phu tìm cách kêu gọi dân chúng các nơi tổ chức các cuộc chiến đấu chống lại Pháp. Giai đoạn này kéo dài cho đến khoảng những năm cuối của thế kỷ 19 với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng. Khi triều đình Huế hoàn toàn nằm trong vòng kiềm tỏa của Pháp và các cuộc khởi nghĩa cần vương thất bại, phong trào chống đối Pháp đi vào một đường hướng khác.
- Trong giai đoạn kéo dài từ khoảng đầu thế kỷ cho đến những năm cuối của thập niên 1920, những nhà cách mạng Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của phong trào canh tân tại Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cũng như cuộc cách mạng Minh Trị tại Nhật. Các nhà cách mạng Việt Nam hồi đó nhận thức được rằng muốn lấy lại độc lập cần phải hấp thụ những thành tựu của văn minh phương Tây. Sự kiện tiêu biểu của giai đoạn này là phong trào Đông Du, việc thành lập các học hiệu Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội. Nhân vật tiêu biểu trong giai đoạn này là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Cả hai đều chủ xướng hủy bỏ lối học từ chương cũ mà thay bằng lối học thực tế của phương Tây nhưng một bên, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật và Trung Quốc cùng dùng đường lối bạo động để dành lại chính quyền, trong khi bên kia, Phan Chu Trinh chủ trương ôn hòa hơn và học thẳng lấy nền văn hóa phương Tây từ Pháp và các nước Âu châu.
- Cuộc cách mạng Tân Hợi tại Trung Quốc năm 1911 và cách mạng Bolshevic tại Nga năm 1917 đã ảnh hưởng mạnh đến những hoạt động cách mạng tại Việt Nam kể từ những năm 1930 trở đi. Trong giai đoạn này, cách mạng Việt Nam bắt đầu phân hóa thành hai phe quốc cộng với sự thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đông Dương Cộng Sản Đảng hầu như cùng một lúc vào năm 1930. Sau đó là sự xuất hiện của các đảng Đại Việt vào năm 1938.
- Đại chiến thế giới lần thứ hai đã tạo ra một cơ hội ngàn năm một thuở cho Việt Nam dành lại độc lập khi vào năm 1940 Pháp đầu hàng Đức và Nhật Bản tiến chiếm Đông Dương vào năm 1941. Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9/3/1945, một khoảng trống quyền lực đả xảy ra mà chính phủ Trần Trọng Kim không đủ sức và cũng không đủ ý chí để trám vào. Khi Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8/1945, một cuộc chạy đua tranh quyền đã diễn ra với kết quả là đảng Cộng Sản Đông Dương qua Mặt Trận Việt Minh đã dành được quyền lực trước những đảng phái quốc gia.
- Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt mang lại kết quả là thế giới chẳng bao lâu lại phân chia thành hai khối : tư bản và cộng sản. Một cuộc chiến tranh lạnh diễn ra trên toàn cầu giữa Mỹ và Liên Xô. Tình trạng này đã ảnh hưởng sâu đậm đến Việt Nam. Âm mưu của Pháp trở lại Việt Nam sau chiến tranh mở ra một cuộc chiến mới. Nhưng cuộc chiến thuộc địa của Pháp chẳng bao lâu đã chuyển dần sang hình thức một cuộc nội chiến, với sự thành lập Quốc Gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại cầm đầu với sự hợp tác của nhiều người thuộc các đảng phái cách mạng quốc gia được sự ủng hộ của Mỹ và bên kia là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo được sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và những nước thuộc khối Xã Hội Chủ Nghĩa.
- Cuộc chiến Pháp Việt chấm dứt vào năm 1954 với Hội Nghị Genève. Cũng như thời Trịnh Nguyễn, nước Việt lại phân chia thành hai miền Nam Bắc. Nhưng hòa bình lập lại chẳng được bao lâu. Năm 1959, miền Bắc bắt đầu phong trào khởi nghĩa ở miền Nam để thống nhất đất nước. Một cuộc chiến mới bắt đầu, dần dà kéo theo sự can thiệp của ngoại bang, với Mỹ can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến vào năm 1965. Cuộc chiến cuối cùng kết thúc vào năm 1975, với thắng lợi của miền Bắc. Việt Nam thống nhất trở lại sau gần 30 năm huynh đệ tương tàn dưới ngọn cờ của đảng Cộng sản. Một bước ngoặc mới trong lịch sử Việt Nam bắt đầu.
Chương 3. Nguồn gốc dân tộc Việt Nam : thời kỳ thần thoại
Lịch
sử hình thành một dân tộc và cương vực của họ bao giờ cũng phức tạp và
thường bị che phủ bởi một lớp màn làm bằng truyền thuyết và huyền thoại.
Những truyền thuyết và huyền thoại này có thể chứa đựng rất nhiều sự
thật, nhưng cái cốt lõi sự thật đó thường vẫn bị phủ lên nhiều lớp, ta
có thể tạm gọi là, những trình tự lãng mạn mà những thế hệ sau đưa vào.
Thành ra cuộc chiến đấu để dành những nguồn lợi của Hắc Hải trở thành
câu chuyện về nàng Helen xinh đẹp và cuộc đấu tranh của những người
Aryan cổ đại để chiếm lãnh tiểu lục địa Ấn Độ đã trở thành cuộc chiến
đấu để đòi lại nàng Sita kiều diễm cho hoàng tử Rama.
Lịch
sử của dân tộc Việt Nam cũng vậy. Giai đoạn cho đến sự sụp đổ của triều
đại An Dương Vương và nước Âu Lạc có thể nói là giai đoạn thần thoại
của lịch sử dân tộc Việt Nam. Tuy rằng không có những tư liệu thành văn
hoặc những văn bia chép lại, nhưng những truyền thuyết để lại về Lạc
Long Quân với Ngư tinh, Hồ tinh ; các chuyện Sơn tinh Thủy tinh, Trầu
Cau, Phù Đổng Thiên Vương hoặc Chử Đồng Tử đã một phần nào diễn tả lại
những thuở ban đầu dựng nước của dân tộc ta. Ngoài ra những chứng tích
khảo cổ học tìm thấy ngay trên đất nước Việt Nam hiện nay cũng như một
vài những ghi chép còn lại về thời đó của những quan lại Trung Hoa trong
những ngày đầu Bắc Thuộc cũng là những bằng chứng hiển nhiên cho thấy
một nền văn minh và một xã hội có tổ chức vững chắc làm cơ sở cho dân
tộc Việt Nam về sau này. Và sau đây chúng ta hãy thử giở lại những trang
sử cũ.
3.1. Kinh Dương vương và Lạc Long quân
Dân
Việt chúng ta vẫn tự hào là "con Rồng, cháu Tiên" và có lẽ hầu như ai
cũng biết đến truyền thuyết về nguồn gốc của dân tộc ta qua các câu
chuyện về Lạc Long Quân và Âu cơ. Những truyền thuyết này được ghi vào
sử liệu của ta từ cuối đời Trần.
Theo
tục truyền thì nước Việt Nam được dựng lên cách đây gần 5.000 năm. Sử
thần Ngô Sỹ Liên đời nhà Lê, sau khi tham khảo các truyền thuyết và dã
sử đã kể lại việc lập quốc của ta mà Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược tóm tắt lại như sau :
"Cứ
theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi
tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một
nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra một người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh
truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc và phong
cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là
Xích Quỷ.
Bờ
cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp hồ Động Đình, phía nam giáp
nước Hồ Tôn, phía Tây giáp Ba Thục, phía đông giáp bể Nam Hải.
Kinh
Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 trước
Công nguyên) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra con là Sùng
Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái
Đế Lai là Âu cơ đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long Quân
bảo Âu cơ rằng :
Ta
là dòng dõi Long quân, ngươi là giòng dỏi thần tiên, ăn ở với nhau lâu
thì không được nay được 100 người con thì ngươi đem 50 đứa lên núi còn
50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải".
Tuy
nhiên, theo Lĩnh Nam Chích Quái, một tuyển tập ghi chép lại những
truyền thuyết và thần thoại dân gian được thu thập từ thế kỷ 13 và hoàn
tất vào thế kỷ 15, thì truyền thuyết này đuợc kể lại hơi khác :
"Lạc
Long Quân dậy cho dân cầy cấy ăn mặc ; trong nước từ ấy mới có thứ tự
quân thần, tôn ti, mới có luân thường giữa cha con, chồng vợ. Có lúc
Long Quân trở về thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui. Hễ dân có việc cứ gọi
Lạc Long Quân rằng :" Bố ơi sao không về để cứu chúng con (người Việt
gọi "phụ" là cha hoặc "bố", gọi quân là vua chính là như vậy), Long Quân
liền về ngay. Sự oai linh cảm ứng của Long Quân người ta không thể nào
lường được.
Đế
Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai. Nhân khi phương Bắc vô sự, nhớ tới
chuyện ông mình là Đế Minh tuần thú phương Nam gặp được tiên nữ, Đế Lai
bèn bảo bề tôi thân cận là Xuy Vưu thay mình giữ nước rồi đi tuần du
nước Xích Quỷ ở phương Nam. Đến nơi thấy Lạc Long Quân đã về thủy phủ,
trong nước vô chủ, bèn để ái nữ là Âu Cơ và những kẻ theo hầu hạ ở lại
nơi hành tại, còn mình thì đi dạo chơi trong thiên hạ, xem khắp các nơi
danh thắng. Thấy những hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm, dị thú, tê tượng đồi mồi
bạc vàng châu ngọc, tiêu, quế, nhũ hương, trầm đàn, các vị cùng sơn hào
hải vị không thiếu một thứ nào. Bốn mùa khí hậu lại không lạnh không
nóng, Đế Lai lòng yêu thích quên cả chuyện về. Nhân dân nước Nam khổ vì
bị phiền nhiễu, không được yên lành như xưa, ngày đêm mong Long Quân trở
về bèn cùng nhau cất tiếng gọi :"Bố ở nơi nào, hãy mau về cứu chúng
con" Long Quân thoắt nhiên trở về, thấy Âu Cơ đang một mình, dung mạo
tuyệt mỹ. Long Quân bèn hóa ra một chàng trai sinh đẹp tả hữu trước sau
có đông đảo kẻ hầu người hạ, tiếng ca tiếng nhạc vang lừng đến tận nơi
hành tại. Âu Cơ thấy Long Quân, lòng cũng siêu siêu. Long Quân bèn đón
Âu Cơ về ở động Long Trang. Đến khi Đế Lai trở về không thấy Âu Cơ bèn
sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần, biến hóa ra
trăm hình nghìn vẻ, nào yêu tinh quỷ núi, nào rồng rắn hổ voi khiến cho
kẻ đi tìm sợ hãi không dám sục sạo. Đế Lai đành trở về phương Bắc...
Long
Quân và Âu Cơ sống với nhau chừng một năm thì sinh ra một cái bọc. Cho
là điềm không lành bèn vứt ra ngoài đồng. Qua bảy ngày, cái bọc nở ra
một trăm trứng, mỗi trứng sinh một người con trai. Long Quân bèn đón về
nuôi. Không cần bú mớm, các con tự lớn, người nào cũng trí dũng kiêm
toàn, ai ai trông thấy cũng đều kính phục. Long Quân ở mãi nơi thủy phủ,
làm cho mẹ con Âu Cơ sống lẻ loi, muốn về đất Bắc. Khi đi tới biên
giới, Hoàng Đế nghe tin lấy làm lo sợ, bèn chia quân ra ngăn giữ ngoài
biên ải. Mẹ con không về Bắc được bèn đêm ngày gọi Long Quân rằng "Bố ở
nơi nao, làm cho mẹ con phải buồn đau" Long Quân bỗng nhiên tới, cùng
gặp nhau ở Tương Dã. Âu Cơ vừa khóc vừa nói rằng :"Thiếp nguyên người
đất Bắc, cùng chàng ăn ở với nhau, sinh được một trăm đứa con trai,
không biết dựa vào đâu nuôi nấng, vậy xin theo chàng ; mong chàng đừng
ruồng bỏ, làm cho mẹ con thiếp hóa ra những kẻ không chồng không cha chỉ
riêng mình đau khổ thôi". Long Quân nói :"Ta là giống rồng, đứng đầu
thủy tộc, nàng là giống tiên, người ở trên đất, vốn không đoàn tụ được,
tuy khí âm dương hợp lại mà sinh con, nhưng giòng giống tương khắc như
nước với lửa, khó bề ở với nhau lâu được. Nay phải chia ly. Ta sẽ đem
năm mươi người con về thủy phủ để cai trị các nơi còn năm mươi đứa sẽ
theo nàng ở trên đất, chia nước ra mà cai trị. Những lúc lên non, xuống
nước có việc cùng gắn bó đừng bỏ rơi nhau". Trăm người con trai nghe
theo, rồi cùng nhau từ biệt.
Căn
cứ vào những quy luật về tiến hóa của thần thoại và truyền thuyết,
chúng ta có thể thấy ở đây một số điểm đáng chú ý. Gạt bỏ vai trò của
Kinh Dương Vương mà trong thần thoại chỉ xuất hiện để cho tổ tiên chúng
ta một quá khứ cũng vinh quang và lâu dài như người Hán, huyền thoại về
Lạc Long Quân cho thấy nguyên thủy dân ta có nguồn gốc từ biển lên. Bộ
tộc này, ta cứ tạm đặt tên là Lạc, đã từ đại dương đi đến và trong công
trình khai phá vùng đất nay là Việt Nam đã gặp những bộ tộc khác từ trên
núi đi xuống. Hai bên đã kết hợp vói nhau trong một cuộc hội hợp có lẽ
nhiều tính cách hòa bình hơn là chiến tranh. Thần thoại Lạc Long Quân và
Âu Cơ đã diễn tả lại một phần nào sự hội hợp giữa hai tộc dân từ núi và
từ biển tới đó. Nhưng những người dân Lạc đó từ đâu đến ? Và đến từ lúc
nào ? Aurousseau, một nhà nghiên cứu người Pháp của trường Viễn Ðông
Bác Cổ, là người đầu tiên đưa ra giả thuyết dân tộc ta có nguồn gốc từ
những dân tộc mà người Trung Quốc gọi là Bách Việt có quan hệ với nước
Việt của Câu Tiễn thời Chiến Quốc. Theo ông, dân Việt chính là con cháu
của những người Việt này, di cư xuống phía Nam sau khi nước Việt bị nước
Sở diệt vào thế kỷ thứ tư trước Công nguyên. Đào Duy Anh là một trong
những người đồng ý với giả thuyết của Aurousseau. Ông đã mô tả cuộc di
cư của những người Việt này một cách lãng mạn như sau :
"Ngày
xưa có một bộ lạc ở vùng biển Phúc Kiến, Trung Quốc. Hàng năm cứ theo
gió mùa họ lại nhân gió bấc mà vượt biển đến các miền duyên hải ở phương
Nam, đại khái là vùng Hải Nam và vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã
của Việt Nam. Đến mùa gió nồm họ lại vượt trở về nơi căn cứ.
Trong
những cuộc vượt biển hàng năm đó, họ tự ví mình như con chim lạc, một
loài chim nước ở vùng Giang Nam mà đến mùa đông họ thấy cũng rời vùng
Giang Nam mà bay về nam đồng thời với việc xuất dương của họ. Đến mùa
gió nồm họ lại cũng thấy những con chim lạc này cất cánh quay trở về
vùng Giang Nam đồng thời với họ. Vì thế mà dần dần trong tâm lý họ phát
sinh một ý niệm về mối quan hệ mật thiết giữa họ và loài chim đó. Rồi ý
niệm đó chuyển thành quan niệm tô-tem khiến họ nhận con chim lạc kia làm
vật tổ. Cái tên vật tổ đó trở thành tên của bộ lạc và bộ tộc đó trở
thành bộ tộc Lạc.
Sau
nhiều lần vượt biển như vậy, một số người Lạc đã ở lại vùng đồng bằng
sông Hồng và sông Mã làm nghề chài lưới ở bờ sông bờ biển và nghề trồng
trọt ở những vùng đất cao. Dần dà những nhóm dân Lạc đó một ngày một
đông hơn và họ chia thành những bộ lạc. Sau này khi nước Việt đời Xuân
Thu bị nước Sở diệt, những tù trưởng dân Lạc ở xứ Mân (Phúc Kiến) kéo cả
bộ lạc di cư về vùng đồng bằng miền Bắc Việt Nam mà trước đó họ đã biết
rằng rất phì nhiêu. Đến đây họ còn giữ tên thị tộc cũ là Lạc. Và chính
bằng tên ấy, Lạc, mà các nhà sử gia Trung Hoa gọi họ".
Nhưng
liệu điều đó có đúng không ? Một số những nhà nghiên cứu khác đã không
đồng ý và chỉ ra một số nhược điểm lớn của giả thuyết này. Ðặc biệt
thuyết này đã không để ý đến những khó khăn của một cuộc hành trình dài
đến mấy ngàn cây số xuyên qua phần đất của nhiều dân tộc khác nhau cũng
như là phản ứng của những dân bản xứ trước một cuộc di cư lớn như vậy.
Để xác định, chúng ta còn phải nhìn lại các bằng chứng khác, qua thư
tịch lịch sử, khảo cổ và ngôn ngữ.
Những bằng chứng sử liệu
Những
tư liệu thành văn cổ nhất còn lưu truyền lại đến nay là những tác phẩm
của những sử gia và quan lại Trung Quốc viết sau khi nước ta trở thành
một bộ phận của đế quốc người Hán. Những bộ sách này tuy hầu hết nói đến
tình hình nước ta sau khi nội thuộc, nhưng một số cũng nhắc đến những
sự kiện vào thời gian mà họ gọi là "đất Giao Chỉ xưa khi chưa chia thành
quận huyện".
Có lẽ bộ sách của người Hán đầu tiên có nhắc đến nước ta là bộ Sử Ký
của Tư Mã Thiên viết vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Trong Nam
Việt Úy Đà truyện, Tư Mã Thiên đã nhắc đến Âu Lạc và Tây Âu Lạc. Sang
đến thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên, Ban Cố viết Hán Thư mới lần đầu tiên nhắc đến người Lạc Việt trong Giả Quyên truyện. Sau đó là bộ Hậu Hán Thư
của Phạm Việp viết vào thời Lưu Tống. Trong cuốn này Phạm Việp có nhắc
đến Trưng Trắc là con gái Lạc tướng Mê Linh. Tuy nhiên phải đến thế kỷ
thứ 4 và thứ 5 sau Công nguyên, các thư tịch Trung Hoa mới nói đến giai
đoạn Hùng Vương. Hùng Vương đầu tiên được ghi chép trong thư tịch Trung
Quốc trong các cuốn Giao Châu Ngoại Vực Ký và Quảng Châu Ký nay đã thất truyền. Chỉ còn lại một số đoạn trích dẫn trong các sách khác như Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên hoặc Cựu Đường Thư,
một bộ chính sử đời Đường. Riêng về tên nước Văn Lang thì phải đợi đến
đời Đường ở thế kỷ thứ 8 mới được nhắc đến, khi chỉ định quận huyện ở
Giao Châu như sách Thông Điển, một cuốn bách khoa toàn thư thời cổ, do Đỗ Hựu, ông nội của nhà thơ Đỗ Phủ, viết "Phong Châu là nước Văn Lang xưa".
Nhửng đoạn chép trong những sách này thường rất ngắn ngủi. Thủy Kinh Chú dẫn Giao Châu Ngoại Vực ký, chép :
"Đời
xưa đất Giao Chỉ khi chưa chia thành quận huyện, ruộng đất được gọi là
Lạc điền, nước lên xuống theo thủy triều. Dân cư cầy bừa trên ruộng đó
để sinh sống. Lạc vương và Lạc hầu cai trị những quận huyện. Ở mỗi huyện
có Lạc Tướng".
Còn Thái Bình Quảng Ký và Thái Bình Hoàn Vũ Ký,
hai cuốn sách thu góp những tác phẩm viết từ thời Ðường trở về trước,
được thu thập vào thời Tống (khoảng thế kỷ thứ 10) thì chép lại Nam Việt Chí như sau :
"Đất
Giao Chỉ rất phì nhiêu, nhiều dân di cư đến. Họ là những người đầu tiên
khai khẩn đất. Đất đen và bốc hơi mạnh. Những cách đồng đó được gọi là
Hùng điền và dân là Hùng dân. Có một ông chúa gọi là Hùng vương. Hùng
vương có những viên chức giúp việc gọi là Hùng hầu. Lãnh thổ đất Hùng
thì chia ra cho các Hùng tướng".
Tất
cả những tài liệu thư tịch trên như vậy đều chỉ nói đến giai đoạn sau,
khi nước ta đã thành hình và những người dân Lạc nguyên thủy từ đại
dương đến đã hội nhập hoặc đã khai phá đất nước để dựng nên một nền văn
minh mới tại châu thổ sông Hồng.
Thư
tịch lịch sử nước ta phải đến đời nhà Trần, với lòng tự hào dân tộc
bùng nổ mạnh mẽ sau những chiến thắng đánh bại quân Mông Cổ, các nhà nho
và sử gia nước ta mới thu thập lại những truyện cổ và những truyền
thuyết nơi dân gian nói lên "cương vực lâu đời của đất nước" để chứng tỏ
quốc thống bắt đầu từ đấy.
Như đã nhắc đến ở trên, hai bộ sách đầu tiên của ta nhắc đến thời lập quốc là các bộ Việt Điện U Linh Tập và Lĩnh Nam Chích Quái. Việt Ðiện U Linh Tập
được Lý Tế Xuyên viết vào khoảng năm 1329. Tác giả trong bài tựa giới
thiệu mình giữ chức "thư hỏa chính chưởng" tức là một chức quan giữ việc
tế tự và mục tiêu của cuốn sách này cốt để làm chính danh những vị thần
nào đáng được cúng tế. Cuốn sách bao gồm 27 truyện chia ra làm ba loại
"lịch đại đế vương", "nhân thần" và "hạo khí anh linh" trong đó, đặc
biệt là 17 truyện trong hai mục đầu nói tới những nhân vật lịch sử mà
các hành vi của họ tác động mạnh đủ đến quần chúng để người ta phải thờ
phụng như Hai Bà Trưng, Phùng Hưng, vân vân. Khi viết tập này, Lý Tế
Xuyên đã dùng nhiều tư liệu như Báo Cực truyện hoặc Giao Châu Ký
của Triệu Xương, một viên quan đô hộ đời Ðường, mà nay đã thất truyền
thành ra đây là một nguồn tư liệu quý giá cho lãnh vực nghiên cứu cổ sử
của nước ta. Tuy nhiên, riêng về thời Hùng vương, Việt Ðiện U Linh tập không nhắc nhở gì đến nhiều. Phải đến Lĩnh Nam Chích Quái mới là bộ sách viết nhiều nhất đến thời đại này. Lĩnh Nam Chích Quái
là một bộ sưu tập các truyện dân gian do Trần Thế Pháp thu thập và Vũ
Qùynh xuất bản vào khoảng năm 1492. Sau đó bộ sách này đã được nhiều
người khác bổ sung và thêm thắt trong đó có Kiều Phú. Tuy nhiên có thể
bộ sách này đã có từ trước khi Vũ Qùynh xuất bản vì khi Ngô Sỹ Liên viết
bộ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư vào năm 1479 thì cũng đã biết và sử dụng một
số sự tích trong sách này. Trong Lĩnh Nam Chích quái các tác giả
đã sưu tầm những truyền thuyết và thần tích từ trong dân gian để tìm
cách chứng tỏ rằng nước Việt ta cũng có một quá trình văn minh lâu dài
và đáng tự hào không kém gì đế quốc phương Bắc.
Vũ Qùynh trong bài tựa khi san định lại bộ Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp đã viết :
"Núi
non kỳ lạ, đất đai linh thiêng, nhân dân anh hào, chuyện tích thần kỳ,
thường thường vẫn có.. Xem chuyện họ Hồng Bàng thì hiểu rõ được lai
nguyên khai sáng ra nước Hoàng Việt".
Mặc
dầu vậy, các thư tịch của ta cũng như của Trung Quốc đã không giúp gì
được bao nhiêu trong việc tìm hiểu nguồn gốc và xuất xứ của dân tộc Việt
Nam. Muốn xác định điều này, chúng ta phải dựa vào những bằng chứng của
các ngành khảo cổ và cổ ngôn ngữ học.
Những bằng chứng khảo cổ
Vào
khoảng những năm 1930, trong khi khai quật một số mộ cổ từ thời Đông
Hán để lại tại khu vực Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa, các nhà khảo cổ, trong
đó có Olov Janse
bỗng nhiên tìm thấy những hiện vật bằng đồng không thuộc đời Hán chôn
theo tại một số những mộ này. Những hiện vật bằng đồng này không mang
dấu tích của văn hóa Hán tộc. Các cuộc khai quật khác tại vùng này và
một số vùng khác đã phát hiện ra một nền văn hóa hoàn toàn mới mà niên
đại được ước tính là kéo dài từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên cho đến
khoảng thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên. Dựa vào tên của nơi đầu tiên tìm ra
những di vật này, người ta đặt tên cho nền văn hóa đó là văn hóa Đông
Sơn.
Trong
khoảng trên 8 thế kỷ đó, những người chủ của nền văn hóa Đông Sơn này
đã tạo dựng được một nền văn minh chói sáng dựa trên kỹ thuật đúc đồng.
Những di vật còn lại của thời đó, nhất là những trống đồng đã cho thấy
họ có một nền kinh tế văn hóa phát triển, có một tôn giáo riêng thờ thần
mặt trời, và có những ngày hội tết đặc biệt là hội nước tương tự như
những ngày hội nước tại các nước khác ở Đông Nam Á hiện nay như Lào hoặc
Thái Lan. Sự khác biệt giữa những đồ minh khí chôn theo trong mộ cũng
cho thấy xã hội thời Đông Sơn cũng đã phân hóa thành giai cấp với những
ngôi mộ có rất nhiều đồ minh khí chôn theo trong khi những ngôi mộ khác
hầu như không có gì. Điều này có thể cho thấy rằng một nhà nước sơ khai
đã hình thành với vua quan và dân chúng. Một điểm đặc trưng khác là
những mô-típ trên các trống đồng còn lại này cho thấy chủ nhân của những
trống đồng này là một nền văn hóa xuất phát từ biển và sống trên sông
nước, một điều trùng hợp với những gì ta vừa suy diễn về bộ tộc Lạc của
Lạc Long Quân.
Các
di vật của nền văn hóa này được tìm thấy tại nhiều nơi ở Đông Nam Á và
tại vùng Vân Nam thuộc Trung Quốc. Tuy nhiên, những di tích chính của
nền văn hóa này tập trung tại miền Bắc nước ta, vùng đồng bằng sông Hồng
và sông Mã, đặc biệt là tại vùng Vĩnh Phúc Yên, Phú Thọ vốn được coi là
cái nôi của vương quốc các vua Hùng. Sự trùng lặp giữa việc phân bố các
di chỉ của văn hóa Đông Sơn với vùng mà hầu hết hiện nay người ta công
nhận là cương vực của nước Văn Lang thời xưa đã khiến cho các học giả
đồng nhất giai đoạn văn hóa Đông Sơn với thời đại Hùng vương trong lịch
sử nước ta. Và giai đoạn phát triển của nền văn hóa Đông Sơn cũng là
giai đoạn then chốt hình thành dân tộc Việt Nam.
Có
hai vấn đề đặt ra trong việc nghiên cứu nền văn hóa Đông Sơn để có thể
xác định rõ nguồn gốc của dân tộc Việt. Thứ nhất, văn hóa Đông Sơn được
du nhập từ bên ngoài vào hay là kế thừa các tiến hóa có sẵn từ thời đồ
đá ? Và thứ hai, chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn này thuộc tộc người
nào.
Những
nhà khảo cổ đầu tiên nghiên cứu về nền văn hóa Đông Sơn như Janse, vì
không thể nào nghĩ rằng một nền văn hóa cao như vậy có thể có xuất sứ
nội địa nên họ cố gắng tìm một nguồn gốc từ bên ngoài vào. Dựa trên hình
dạng của một số những rìu đồng còn lại họ cho rằng văn hóa Đông Sơn
thoát thai từ một nền văn minh cổ đại tại Đông Âu và được truyền từ vùng
Trung Cận Đông sang Việt Nam. Nhưng những luận chứng này sau đó hầu như
đã bị mọi người bỏ qua vì không thể tìm ra được một giây liên lạc nào
nối liền Việt Nam với Đông Âu cả.
Một
số quan niệm sau đó cho rằng văn hóa Đông Sơn được thoát thai từ nền
văn minh sông Hoài của người Hán. Những học giả chủ trương quan điểm này
cho rằng nghệ thuật đúc đồng tại Á châu phát sinh từ bên Trung Quốc và
sau đó được truyền xuống miền Nam.
Đó
là một lý do khiến Đào Duy Anh và Aurousseau cho rằng tổ tiên người
Việt ta là gốc từ các vùng Chiết Giang, Phúc Kiến địa phận của nước Việt
thời Xuân Thu, Chiến Quốc. Vùng Ngô Việt này, theo sử Trung Quốc, từ
xưa đã nổi tiếng về nghề đúc đồng với những thanh bảo kiếm như Long
Tuyền, Thái A còn được truyền tụng trong lịch sử.
Tuy
nhiên, những khám phá về khảo cổ gần đây, đặc biệt là những khai quật
tại Thái Lan cho thấy một bức tranh khác hẳn. Clark Neher, trong bài
viết "The Bronze Drum Tradition" đăng trên tạp chí Asian Studies năm 1975 cho biết :
"Trái
với những điều mà các học giả Trung Quốc vẫn thường tự nhận, việc đúc
đồng đã được biết trước tại Đông Nam Á, và truyền lại sang Trung Quốc về
sau này".
Mặc
dầu kết luận của Neher vẫn còn đang bị tranh cãi, nhưng những bằng
chứng khác cho thấy, nền văn hóa đồ đồng tại Đông Sơn đã phát triển độc
lập với Trung Quốc và là một kế thừa của một nền văn hóa xưa hơn tại chỗ
thuộc về thời kỳ đồ đá mới mà các nhà khảo cổ gọi là văn hóa Phùng
Nguyên. Phùng Nguyên là một nền văn hóa thuộc vào thời kỳ đá mới
(neolithic) mà những di chỉ được tìm thấy trên hầu hết vùng trung du Bắc
Việt. Những thử nghiệm niên đại dùng Carbon 14 cho thấy nền văn hóa này
được xuất hiện từ khoảng thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên với đặc
trưng là những đồ gốm cứng có hoa văn thừng. Những phát hiện khảo cổ tại
miền Bắc Việt Nam cho thấy là vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ hai,
văn hóa Phùng Nguyên đã phát hiện ra cách làm đồ đồng và chuyển thành
một nền văn hóa mới được những nhà khảo cổ miền Bắc đặt tên là Ðồng Ðậu.
Ðồng Ðậu đạt mức cao điểm vào khoảng đầu thiên niên kỷ thứ nhất. Ðó
chính là thời điểm mà Janse gọi là văn hóa Ðông Sơn.
3.2. Lạc hay Lạc Việt
Nhưng
những người chủ của nền văn hóa Đông Sơn này là ai ? Họ có phải là bộ
tộc Lạc Việt của nước Việt thời Xuân Thu di dân theo gót con chim Lạc
hay không ? Hay người Lạc, tiền thân của người Việt chúng ta là một tộc
người khác hẳn ?
Muốn
tìm hiểu vấn đề này, ta phải trở lại lịch sử Trung Quốc vào thời xưa.
Văn minh Hán tộc vốn xuất phát từ vùng hiện nay là Hoa Bắc, tập trung
chung quanh các con sông Hà, Hoài. Tại vùng Hoa Trung, lưu vực sông
Dương Tử hiện nay, theo các sử liệu xưa thì là nơi mà văn hóa Hoa Hạ còn
chưa phổ biến, nhưng những dân tộc ở đây cũng nói một thứ tiếng cùng họ
với tiếng Hoa. Có ba nước mà trong thời từ sau khi nhà Chu thiên về
phía Đông đã nổi bật lên ở vùng này. Đó là các nước Sở, Việt và Thục.
Tuy nhiên biên giới của ba nước này đều cách biệt với vùng Hoa Nam qua
một loạt những ngọn núi cao ngăn cách. Những ngọn núi này, có tên là Ngũ
Lĩnh là biên giới giữa các tộc người thuộc dòng Hán tộc và những tộc
người khác không phải là Hán. Nhưng ngay vùng Lĩnh Nam này của Trung
Quốc cũng còn cách biệt với đồng bằng sông Hồng của Việt Nam bởi một
loạt những núi cao hiểm hóc.
Những bằng chứng sử liệu
Sử
liệu Trung Quốc không nhắc nhở gì đến miền Lĩnh Nam (vùng phía nam Ngũ
Lĩnh này) trước thế kỷ thứ ba trước Công nguyên. Nhưng đến thế kỷ này
một số biến động lớn đã xảy ra. Năm 333 trước Công nguyên, Sở diệt Việt.
Mười tám năm sau đó, Tần diệt Thục. Những quý tộc của hai nước Việt,
Thục chạy về phía nam. Ta không biết gì về những vương quốc mà các dòng
quý tộc nước Thục thành lập, nhưng các quý tộc của nước Việt đã đi xuống
vùng Lĩnh Nam và lập nên những vương quốc mới mà sau này được sử Trung
Quốc gộp lại chung dưới tên là Bách Việt. Bốn trong số những vương quốc
này đã để lại dấu ấn trong lịch sử. Nam Việt, vương quốc lớn nhất có
cương vực nằm tại cửa sông Tây giang tại khu vực thành phố Quảng Châu
ngày nay ; Mân Việt có trị sở nằm ở Phúc Kiến ; Đông Âu ở Chiết Giang và
Tây Âu nằm tại vùng Quế Lâm thuộc miền Bắc Quảng Tây ngày nay.
Những
sự kiện này xảy ra tương ứng với thời gian nền văn hóa Đông Sơn của ta
đang đi vào giai đoạn cực thịnh. Nếu có một cuộc di cư lớn của những
người Việt từ phương Bắc xuống thì chắc hẳn họ đã để lại những dấu ấn
trong những di vật của nền văn hóa Đông Sơn này. Nhưng cho đến nay những
dấu hiệu đó đã không thấy xuất hiện. Điều đáng chú ý là Đại Việt Sử Lược,
cuốn sử còn lại sớm nhất của Việt Nam, viết vào khoảng thế kỷ 13, có
chép đến chuyện Việt Vương Câu Tiễn (505 trước Công nguyên) sau khi diệt
Ngô, đã sai sứ sang dụ Hùng Vương thần phục nhưng đã bị Hùng Vương cự
tuyệt. Một điều chứng tỏ rằng dân Lạc của ta và những tộc mà người Hoa
gọi là Bách Việt không có một liên hệ trực tiếp.
Nhưng
nếu dân Việt không đến từ vùng Hoa Nam thì họ từ đâu đến ? Những khai
quật khảo cổ trong suốt những năm gần đây cho thấy những cư dân tại vùng
đồng bằng sông Hồng và sông Mã đã tồn tại liên tục trong suốt thời kỳ
từ hậu kỳ thời đá cũ cho đến thời kỳ đồng thau và sắt tức là từ khoảng
thiên niên kỷ thứ 3 trước công nguyên cho đến nay. Phân tích những di
hài hóa thạch tìm được trong các di chỉ từ thời đá cũ trở đi, các nhà cổ
nhân chủng học đã xác định những cư dân này bao gồm nhiều thành phần
chủng tộc khác nhau trong đó quan trọng nhất là những thành phần thuộc
tộc Nam Đảo (Austronesian) và Nam Á (Austroasiatics). Tuy rằng số lượng
di hài tìm được không đủ để đưa ra những kết luận có tính khẳng định,
nhưng một trong những kết quả thử nghiệm cho thấy càng về sau, nhất là
kể từ khi thời đại đồng thau bắt đầu tỷ lệ những di hài thuộc chủng tộc
Nam Á đã gia tăng so với những di hài thuộc chủng tộc Nam Đảo.
Những
dự kiện trên cho phép ta phác ra một cách rất đại cương tiến trình hình
thành của cư dân trên vùng lãnh thổ sông Hồng mà sau này trở thành tổ
tiên của chúng ta.
Những
cư dân đầu tiên tại miền Bắc nước ta là những người da đen thuộc sắc
dân Australoid và Melanesian có quan hệ mật thiết với những người thổ
dân Aborigin tại Úc châu. Những người này đến vùng Đông Nam Á vào khoảng
từ những năm 50.000 cho đến 25.000 trước Công nguyên. Tàn dư của những
giống người này nay vẫn còn tồn tại tại Malaysia và Philippines. Nhưng
bắt đầu từ khoảng cuối thiên niên kỷ thứ tư sang đến thiên niên kỷ thứ
ba, tại vùng trung du và đồng bằng Bắc Việt xuất hiện một tộc người mới,
những người này gốc Nam Đảo (Austronesian) và mang lại những thay đổi
đưa nền văn hóa tại đây từ thời đại đồ đá cũ sang thời đại đá giữa, với
các dụng cụ được gọt đẽo một cách khéo léo hơn. Có nhiều lý do cho thấy
rằng việc di dân này đã được thực hiện một cách tương đối hòa bình. Tại
nhiều di chỉ khai quật tỷ dụ như tại Hòa Bình và Bắc Sơn, người ta đã
tìm thấy những bộ xương của người da đen và của người Nam Đảo chôn cạnh
nhau. Theo các nhà nghiên cứu, những người mới tới này đi theo đường bộ
và từ miền Hoa Nam xuống và tới vùng đồng bằng Bắc Việt muộn nhất là vào
khoảng giữa thiên niên kỷ thứ 2 truớc Công nguyên. Ít lâu sau đó, trên
đất nước Việt Nam lại xuất hiện một chủng tộc người mới, người Nam Á
(Austroasiatics). Đây là một phần của một đợt di cư mới của người Nam Á
trên toàn thể vùng Đông Nam Á. Tại những nơi khác ở Đông Nam Á, cuộc di
cư của những người Nam Á này đã đẩy những tộc người Nam Đảo ra các đảo
ngoài khơi lục địa châu Á hình thành những tộc người Mã Lai - Nam Ðảo
tại các quần đảo Philippines, Indonesia đến tận đảo Madagascar ở Phi
châu. Tuy nhiên tại Việt Nam, có vẻ sự hợp nhất giữa hai tộc người này
đã diễn ra một cách hòa bình hơn và thần thoại về cuộc hôn nhân giữa Lạc
Long Quân và Âu Cơ đã hình tượng hóa sự hợp nhất của hai sắc tộc này
thành một sắc tộc độc nhất, sắc tộc Lạc, hay tiền Việt (proto-Viet).
Những bằng chứng về ngôn ngữ và phong tục
Tiếng
Việt Nam hiện tại được sắp vào tộc họ các ngôn ngữ Nam Á
(Austroasiatics) cùng chung với Môn Khmer và Mường, tuy rằng có pha trộn
thêm rất nhiều từ tố khác lấy từ các họ ngôn ngữ Nam Đảo và Thái chưa
kể những vay mượn từ Hoa Ngữ về sau này. Kết quả nghiên cứu về ngữ học
như vậy đã xác nhận những phát hiện của cổ nhân chủng học cho rằng dân
Lạc, tổ tiên của người Việt hiện nay, là những người Nam Á cổ xưa lai
tạp với những người thuộc tộc Nam Đảo ở đồng bằng sông Hồng trong những
thế kỷ cuối của thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên.
Nhưng
những người Nam Á tổ tiên của chúng ta từ đâu đến ? Những nghiên cứu về
ngữ học cho thấy, hiện nay tại Đông Nam Á lục địa có tất cả 5 họ ngôn
ngữ : Nam Đảo (Indonesian), Nam Á (Môn Khmer và Việt), Miến - Tạng, Thái
và Miêu Dao. Trong số các họ này, họ tiếng Thái đã được xác nhận là do
những lớp người di cư từ vùng Tây Nam Trung Quốc xuống trong khoảng các
thế kỷ thứ 12 và 13 sau Công nguyên còn họ Miêu - Dao thì bị giới hạn ở
một vùng biên thùy phía Bắc của khu vực Ðông Nam Á mà thôi. Cả hai thứ
tiếng này như vậy không nằm trong tầm quan tâm của chúng ta. Phân tích
việc phân bố các ngôn ngữ như vậy, ta thấy các thứ tiếng Indonesian bị
giới hạn trong một khu vực từ Phan Rang lên đến vùng Tây Nguyên và tràn
sang một số tỉnh miền Bắc của Cao Miên mà thôi. Nếu loại bỏ sự hiện diện
của tiếng Thái mà hiện nay phân đôi vùng nói các ngôn ngữ Nam Á, ta
thấy rằng ít nhất là từ giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên
những dân tộc nói tiếng Nam Á đã ở suốt liền một giải từ vịnh Bengal cho
đến vịnh Bắc Việt qua sang cả vùng Assam của Ấn Độ. Những tài liệu
nghiên cứu cũng cho thấy, tiếng Việt đã tách rời ra khỏi gốc chung của
tiếng Nam Á khá sớm chứng tỏ rằng người cổ Việt đã ra khỏi quê hương
chung của tổ tiên những người Nam Á trước các tộc khác.
Những
công trình nghiên cứu để tìm một quê hương gốc cho chủng người Nam Á
đến nay vẫn còn thất bại. Một số thuyết cho rằng tổ tiên của người
Indonesian cũng như người Nam Á đều phát xuất từ vùng Nam Hoa. Những
người này đã từ từ rời bỏ vùng này và di cư xuống miền Nam trong những
thiên niên kỷ của đầu thời kỳ đá mới. Theo giả thuyết này, những người
Indonesian là tộc người đầu tiên rời bỏ vùng này và lan truyền sang đến
Đài Loan và các vùng hải đảo. Những người Nam Á rời vùng này sau, và
theo đường bộ lan truyền sang Đông Nam Á lục địa và vùng đông Ấn Độ. Một
thuyết khác khẳng định rằng quê hương của người Nam Á là chính tại Đông
Nam Á. Theo thuyết này thì những người Nam Á được hình thành qua sự
chuyển biến của những người thuộc chủng Indonesian mà ra. Diễn biến hình
thành chủng tộc Nam Á này được diễn ra tại một vùng rộng lớn, bao gồm
không những cả vùng Đông Nam Á mà cả đến miền Nam Trung Quốc nữa.
Nhưng
cũng có thể có một lý giải khác. Vào khoảng những năm cuối của thiên
niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên, tại tiểu lục địa Ấn Độ đã diễn ra một
biến đổi rất lớn, đó là cuộc di cư của những người Aryan từ vùng Trung Á
đi vào mà hiện còn được ghi lại trong những sử thi Mahabharata và Ramayana.
Cuộc tiến công của những người Aryan này đã đẩy những tộc người sống
tại Ấn trước đó phải hoặc lên những vùng núi cao, hoặc vượt biển đi sang
những vùng đất mới. Sự kiện ra đi của những người này diễn ra muộn nhất
là vào khoảng những năm 1500 trước Công nguyên và trùng hợp vào việc
xuất hiện tộc người Nam Á tại khu vực Đông Nam Á. Nếu giả thuyết này mà
đúng thì ta có một chuyện khá lý thú là chính vì những chiến thắng của
Rama mà ta có Lạc Long Quân.
Những
nghiên cứu về phong tục cho thấy người Việt xưa có một loạt những phong
tục tập quán và tín ngưỡng giống như những dân tộc khác ở Đông Nam Á
như về tín ngưỡng, tục thờ vật tổ (rồng tiên) (totemism), phiếm thần
(animism) ; về phong tục như nhuộm răng đen, ăn trầu, tục xâm mình. Ngay
cả những nghi thức về hôn nhân, tang tế cũng như những ngày lễ hội (hội
nước). Điều này cho thấy dân tộc Việt Nam hồi đó nằm chung trong một
quần thể dân tộc Đông Nam Á. Ngay cả huyền thoại Lạc Long Quân và Âu cơ
trong truyền thuyết dựng nước của Việt Nam cũng có những nét tương tự
như truyền thuyết dựng nước của Phù Nam với chàng Kaundinya từ biển đến
và lấy nàng công chúa Liễu Diệp để dựng lên đất nước Phù Nam.
3.3. Hùng Vương và nước Văn Lang
Theo truyền thuyết, sau Lạc Long Quân là thời đại Hùng Vương. Lĩnh Nam Chích Quái chép sau khi từ biệt Lạc Long Quân "Âu
Cơ và 50 người con lên đất Phong châu, suy phục lẫn nhau, cùng tôn
người con trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn
Lang, đông giáp Nam hải, tây tới Ba Thục, bắc tới hồ Động Đình, nam tới
nước Hồ Tôn. Hùng Vương chia nước làm 15 bộ".. Nhưng như vậy thì
Hùng Vương bắt đầu lên làm vua vào lúc nào ? Và cương vực của đất nước
mà Hùng Vương thành lập mở rộng đến đâu ? Điều chắc chắn là triều đại
của Hùng Vương kéo dài cho đến khi đất Việt Nam bắt đầu tiếp xúc với nền
văn minh của Trung Quốc và bị kéo vào quỹ đạo của Trung Quốc vì những
tài liệu cổ nhất của Trung Quốc đã nhắc tới "đất Giao Chỉ khi chưa
chia thành quận huyện, ruộng đất được gọi là Lạc điền, nước lên xuống
theo thủy triều. Dân cư cầy bừa trên ruộng đó để sinh sống. Lạc vương và
Lạc hầu cai trị những quận huyện. Ở mỗi huyện có Lạc tướng".
Nhưng thời đại Hùng Vương bắt đầu từ lúc nào ? Lĩnh Nam Chích Quái cũng như các sách sử khác không nói rõ Hùng Vương lên làm vua từ bao giờ, nhưng Đại Việt sử lược, một cuốn sử viết từ thời nhà Trần lại viết khá rõ : "Đời
Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên), ở bộ Gia Ninh có người
lạ, dùng ảo thuật quy phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng
đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần hậu, chính sự
dùng lối kết thằng". Lịch sử và khảo cổ học đã giúp cùng chứng
minh. Những khai quật khảo cổ tại đồng bằng sông Hồng cho thấy rằng vào
thời điểm khoảng từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên cho đến những năm đầu
của thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên, tại vùng đồng bằng sông Hồng và sông
Mã đã xuất hiện một nền văn minh khá rực rỡ. Xã hội tại đó đã phát triển
đến mức mà người ta có thể tin rằng một nhà nước có vương quyền đã được
thành lập. Những điều ghi chép trong Đại Việt Sử Lược có vẻ đã
phù hợp với những gì tìm được dưới lòng đất. Nhưng vương triều đó có
phải là thật sự có tên là Hùng Vương hay không ? Câu hỏi này này có lẽ
cũng khó giải quyết như câu hỏi liệu có một nàng Helen xinh đẹp khiến
tạo ra trận chiến thành Troy hay không.
Truyền
thuyết và tín ngưỡng của nhân dân Việt Nam thì khẳng định rằng có một
triều đại của các vua Hùng kéo dài trên 2000 năm từ thiên niên kỷ thứ ba
cho đến cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Ngọc phả đền
Hùng tại Phú Thọ còn có đủ phả hệ của các vua Hùng với tên tuổi cùng
thời gian trị vì. Tuy nhiên ngọc phả này khó có thể tin được vì chỉ được
viết ra vào thế kỷ thứ 18. Lại nữa hiệu của các vua Hùng trong ngọc phả
toàn bằng chữ Hán Việt, một điều không thể xảy ra được khi vào thời đó
chúng ta hoàn toàn chưa tiếp xúc gì với người Hán cả. Nhưng dù sao chăng
nữa, truyền thuyết này cũng khẳng định rằng vào thời xưa người Việt
chúng ta trước khi người Hán sang đã có một vị vua và đó là vua Hùng.
Vào
khoảng những năm 20 của thế kỷ trước, một cuộc tranh luận đã nổ ra giữa
các học giả chung quanh vấn đề Hùng Vương hay Lạc Vương. Henry Maspero,
một học giả người Pháp vốn đã bỏ ra rất nhiều công phu nghiên cứu về
lịch sử Việt Nam chủ trương rằng phải gọi là Lạc vương chứ không thể gọi
là Hùng vương được. Theo ông chữ Lạc và chữ Hùng trong Hán tự rất giống
nhau vì vậy người ta có thể sao chép lại nhầm một cách dễ dàng. Và việc
gọi Hùng Vương trong khi tất cả các từ khác, Lạc điền, Lạc dân, Lạc
hầu, Lạc tướng là vô lý. Lý luận mà Maspéro và những người ủng hộ ông
đưa ra trên đã bị đại đa số những người nghiên cứu về lịch sử Việt Nam
bác bỏ vì một lý do chính và quan trọng nhất, truyền thuyết và tất cả
những cổ tích và thần thoại Việt Nam chỉ nói đến Hùng Vương chứ không
bao giờ nói đến Lạc Vuơng cả.
Mặc
dầu vậy, nghi vấn mà Maspéro đưa ra vẫn là một vấn đề cần phải giải
thích cho thỏa đáng. Phải đến những năm cuối của thập niên 60, những
công trình nghiên cứu về ngữ học do những nhà nghiên cứu tại miền Bắc
Việt Nam mới đem lại một số ánh sáng mới về vấn đề này. Theo một nghiên
cứu của Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc thì từ "Lạc" trong thư tịch của
Trung Quốc viết về nước ta là một phiên âm từ "rạc" mà theo tiếng cổ
Việt và tiếng Mường có nghĩa là "nước". Vì tiếng Hoa không có âm "r" cho
nên họ đã viết thành "lạc". Còn về danh hiệu "Hùng" thì theo Trần Quốc
Vượng là phiên âm của từ "khun" một từ cổ của các ngôn ngữ Nam Á có
nghĩa là người cầm đầu, người tôn trưởng. Từ này hiện còn tồn tại tại
nhiều ngôn ngữ hiện đại như tiếng Khmer, tiếng Thái và ngay cả tiếng
Munda, một ngôn ngữ cùng thuộc họ Nam Á tại vùng Đông Bắc Ấn Độ.
Nếu
những lời suy luận này đúng thì tuy rằng vào thời kỳ vua Hùng ta quả có
một vương triều thật, nhưng vương triều này có tên hiệu là gì thì đó là
một điều mà ta không bao giờ biết được. Vương triều đó có niên đại xấp
xỉ ngang với giai đoạn của nền văn hóa Ðông Sơn, bắt đầu từ khoảng đầu
thiên niên kỷ thứ nhất. Chúng ta tạm gọi thời kỳ đó là thời kỳ Hùng
Vương.
Xã hội dân Lạc dưới thời Hùng Vương
Lĩnh Nam Chích Quái mô tả lại cuộc sống của xã hội dưới thời các vua Hùng như sau :
"Tướng
văn là Lạc Hầu, tướng võ là Lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang,
con gái gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bố chính, thần bộc nữ lệ gọi
là xảo, xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền
con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương không bao
giờ thay đổi.
Lúc
ấy, dân sống ở rừng và vùng chân núi, xuống nước đánh cá thường bị
giống giao long làm hại. Bèn nói với vua. Ðáp :"Giống sơn man và giống
thuỷ tộc khác hẳn nhau. Giống thủy tộc yêu kẻ giống mình mà ghét kẻ khác
mình cho nên hại nhau đó". Bèn bảo người đời lấy mực xăm vào mình theo
hình Long Quân, theo dạng thủy quốc. Từ đó không bị tai họa giao long
làm hại nữa. Tục xâm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đó.
Hồi
quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm
chiếu, lấy nước cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung đồ làm
cơm, lấy cầm thú, cá, ba ba, làm mắm, lấy rễ gừng làm muối. Phạt mương
đốt rẫy, đất sản xuất nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm. Bắc cây làm
nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng núi. Ðẻ con
ra, lấy lá chuối lót lên cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh,
người lân cận nghe tiếng đến cứu giúp. Chưa có trầu cau, việc hôn thú
giữa nam nữ lấy gói muối (có thể là gói đất) làm đầu. Rồi giết trâu dê
để làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân".
Căn cứ vào đoạn văn trên của Lĩnh Nam Chích Quái
chúng ta có thể thấy xã hội Việt Nam thời Hùng Vương đã bắt đầu phân
hóa thành giai cấp với tầng lớp quý tộc, các Lạc hầu, Lạc tướng ở trên
và đa số dân chúng bình dân phục vụ cho tầng lớp này. Dưới tầng lớp bình
dân là một tầng lớp nô lệ mà theo Lĩnh Nam Chích Quái gọi là sảo
xứng. Cách tổ chức xã hội này cũng giống như tổ chức xã hội của nhiều
dân tộc ở tình trạng phát triển tương tự như dân Việt thời Hùng Vương.
Các khai quật khảo cổ cũng cho thấy rằng đã có một sự phân hóa trong xã
hội như vậy. Các ngôi mộ khai quật được thuộc về thời đại này cho thấy
hai loại khác biệt, một loại mộ có chôn theo rất nhiều đồ minh khí quý
giá và một loại mộ không có bao nhiêu đồ minh khí chôn theo. Ðiều này đã
xác minh rằng đã có một sự phân chia giai cấp trong xã hội thời đó. Tuy
nhiên sự cách biệt giữa các tầng lớp xã hội chưa thật là sâu sắc, các
hiện vật khảo cổ và phong tục mai táng cho thấy ngoại trừ số lượng đồ
minh khí ngoài ra chưa có khác nhiều giữa các tầng lớp. Những câu chuyện
cổ tích còn lại đến ngày nay như "công chúa Tiên Dung lấy Chử Ðồng Tử"
hoặc là "vua tôi cùng đi cầy" ; chuyện bánh dầy bánh chưng nói đến Lang
Liêu và các con khác của Hùng Vương thi làm bánh đều cho thấy một xã hội
mà phong tục tương đối còn thuần phác và bộ máy cai trị còn chưa phức
tạp.
Nhà
học giả người Pháp Henri Maspéro căn cứ trên những tập tục của các dân
tộc thiểu số miền thượng du Bắc Việt thời đầu thế kỷ 20 đã giả thiết
rằng xã hội của dân Lạc, dân Việt Nam dưới thời Hùng Vương, là một xã
hội có đẳng cấp dựa trên những quyền lợi thế tập, tinh thần tương ái và
lòng trung thành với cá nhân. Dân chúng sống thành những làng nhỏ mà hầu
hết là có những quan hệ gia tộc với nhau dưới quyền cai trị của những
Lạc tướng. Những giả thiết này phù hợp với những sử liệu còn sót lại và
với những phát hiện của khảo cổ học.
Những
Lạc tướng này có thể là những tù trưởng bộ lạc liên minh lại thành quốc
gia. Người cầm đầu liên minh bộ lạc này là Hùng Vương. Hùng Vương là
đại diện cho liên minh bộ lạc trong việc giao tế với các dân tộc miền
núi và những bộ tộc láng giềng khác, nhưng có lẽ không can thiệp vào
công việc nội bộ của các bộ lạc. Chính Hùng Vương cũng là chủ của một bộ
lạc có cơ sở tại Phong Châu.
Phụ
nữ đóng một vai trò quan trọng trong xã hội người Việt cổ. Truyện Tiên
Dung và Chử Ðồng Tử cho thấy quyền của người con gái tự chọn người hôn
phối vẫn còn được coi trọng. Và như sau này ta sẽ thấy khi dân Việt cổ
đầu tiên nổi lên chống lại sự thống trị của Hán tộc họ đã nổi lên dưới
ngọn cờ của những vị quần thoa.
Số
lượng vũ khí chôn theo trong các ngôi mộ thời Ðông Sơn cho thấy dân
Việt thời đó phải chịu những áp lực từ bên ngoài khá nhiều. Các câu
chuyện về Phù Ðổng Thiên Vương, truyền thuyết Sơn tinh - Thủy tinh cho
ta thấy rằng hiện tượng chiến tranh khá phổ biến dưới thời Hùng Vương.
Tuy nhiên những chứng tích tìm được cho thấy rằng thời Hùng Vương chưa
có một quân đội thường trực mà chắc hẳn phần lớn những cuộc chiến tranh
nếu xảy ra thì sẽ động viên nông dân để chiến đấu. Chuyện Phù Ðổng Thiên
Vương cũng cho ta thấy tính cách đó.
Về kinh tế, những mô tả trong Lĩnh Nam Chích Quái, "phải
lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy nước cốt gạo làm rượu,
lấy cây quang lang, cây tung đồ làm cơm, lấy cầm thú, cá, ba ba, làm
mắm, lấy rễ gừng làm muối. Phạt mương đốt rẫy, đất sản xuất nhiều gạo
nếp, lấy ống tre thổi cơm" có lẽ chỉ tương ứng với giai đoạn đầu khi
mà những bộ lạc tạo thành ra dân Việt cổ còn chưa tạo thành được một
dân tộc. Sang đến thời Hùng Vương, dân Việt cổ đã biết làm ruộng lúa
nước. Thủy Kinh Chú dẫn Giao Châu Ngoại Vực ký, chép :
"Đời
xưa đất Giao Chỉ khi chưa chia thành quận huyện, ruộng đất được gọi là
Lạc điền, nước lên xuống theo thủy triều. Dân cư cầy bừa trên ruộng đó
để sinh sống. Lạc vương và Lạc hầu cai trị những quận huyện. Ở mỗi huyện
có Lạc tướng".
Ðiều
đó chứng tỏ rằng trong giai đoạn sau của thời Hùng Vương, nghề trồng
lúa nước đã bắt đầu được phổ biến. Trong những di vật tìm được còn có
nhiều lưỡi cầy bằng đồng, một điều cho thấy rằng nông nghiệp đã phát
triển qua giai đoạn "phạt nương, làm rẫy" (đao canh, hỏa nậu) mô tả
trong Lĩnh Nam Chích Quái. Bên cạnh nghề trồng lúa, việc trồng các loại
cây khác cũng phát triển. Sách vở và thư tịch Trung Quốc đã nhắc đến
nhiều thứ cây của Việt Nam trong thời Bắc thuộc. Những thứ cây này chắc
hẳn không phải đợi đến lúc người Hán sang mới bắt đầu được thuần hóa và
đem gieo trồng. Nghề chăn nuôi cũng phát triển tuy rằng không tách khỏi
trồng trọt. Ðông Nam Á là nơi đầu tiên thuần giống gà nhà và trong những
di chỉ của thời Hùng Vương ta thấy có những tượng gà bằng đất nung và
bằng đồng. Các gia súc khác mà xương được tìm thấy tại các di chỉ bao
gồm chó, heo, trâu bò. Tuy rằng ngựa được nhắc đến trong chuyện Phù Ðổng
Thiên Vương, nhưng các di chỉ không cho thấy xương cốt của loại này.
Tuy
nông nghiệp đã phát triển, nhưng săn bắn và hái lượm vẫn đóng một vai
trò quan trọng trong cuộc sống của dân Việt cổ. Xương cốt của nhiều loại
thú rừng đã được tìm thấy tại các di chỉ trong các giai đoạn khác nhau
của thời đại Hùng Vương. Nghề đánh cá cũng phát triển. Người ta đã nhìn
thấy nhiều lưỡi câu bằng đồng.
Bên
cạnh nông nghiệp, các nghề thủ công cũng phát triển mạnh. Nghề mộc,
trong đó có nghề sơn đã đạt được một trình độ cao qua việc phát hiện
những đồ minh khí bằng gỗ sơn màu nâu đỏ chất sơn rất tốt và kỹ thuật
sơn cao. Nghề làm đồ gốm cũng đã phát triển khá cao. Người thời Hùng
Vương đã biết làm gốm bằng bàn xoay với những hoa văn và trang trí khá
đẹp tuy rằng không nhiều. Trong giai đoạn cuối đời Hùng Vương người ta
đã sản xuất được đồ gốm cứng chứng tỏ rằng việc thiết kế lò nung đã được
hoàn thiện.
Nhưng
quan trọng nhất trong các ngành thủ công nghiệp thời Hùng Vương phải
nói đến nghề luyện kim, đặc biệt là nghề làm đồng. Nghề luyện kim này đã
xuất hiện từ giai đoạn sớm nhất của thời Hùng Vương mà người ta đã tìm
thấy những cục đồng vụn, xỉ đồng hay rỉ đồng tuy rằng hiện chưa tìm thấy
những di vật bằng đồng nguyên vẹn. Vào những giai đoạn sau, người ta đã
tìm thấy khá nhiều công cụ bằng đồng thau và cả những khuôn đúc. Trống
đồng Ðông Sơn là những hiện vật nổi tiếng, đặc trưng cho cả nền văn hóa
thuộc vào thời kỳ này. Vào cuối giai đoạn Hùng Vương, khi nghệ thuật đúc
đồng lên đến cao độ, thì nghề làm đồ sắt cũng bắt đầu xuất hiện. Một số
hiện vật bằng sắt đã được đào lên ở những di chỉ vào cuối thời đại Hùng
Vương chứng tỏ rằng kỹ thuật làm sắt mà nhiều người cho rằng do người
Hoa đưa vào trong thời Bắc thuộc là không đúng.
Sự suy tàn của triều đại Hùng Vương
Theo truyền thuyết được ghi lại trong Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư
thì vào cuối thời Hùng Vương, vua có con gái là Ngọc Hoa Mỵ Nương nhan
sắc xinh đẹp. Thục Vương nghe tiếng đến cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng Lạc
hầu can rằng : "Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ đó
thôi". Vua bèn thôi. Thục Vương vì thế đem lòng oán giận. Sau vua gả con
cho Sơn tinh, Thục Vương dặn con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm lấy
nước. Ðến đời cháu là Thục Phán, có dũng lược, muốn thực hiện chí của
tiền nhân nên dấy quân đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang. Lúc đó là
vào cuối đời nhà Chu bên Trung Quốc. Triều đại Hùng Vương truyền được 18
đời đến đó là chấm dứt. Tuy nhiên nền văn minh của dân Việt cổ vẫn còn
tiếp tục cho đến vài trăm năm sau nữa mới hoàn toàn bị suy thoái.
An
Dương Vương là nhân vật được lịch sử ghi chép đầu tiên của nước ta. Tên
tuổi, danh hiệu ông và tên nước Âu Lạc của ông được ghi chép đầu tiên
trong bộ Quảng Châu Ký được viết ra vào đời Tấn. Sau đó các bộ Thủy Kinh Chú và Việt Kiệu Thư cũng đều nhắc đến An Dương Vương.
Nhưng những chi tiết về cuộc đời của ông ngay đến cả thời gian tồn tại
của nước Âu Lạc cũng đều bị chìm đắm trong màn đêm của huyền thoại. Cho
đến địa điểm mà ông xây thành làm kinh đô cũng không được hoàn toàn xác
định. Cái tên Cổ Loa mà người ta đặt cho thủ đô của ông cũng là cái tên
mà người đời sau đặt ra. Cổ Loa, nghĩa đen là cái thành cổ hình xoắn ốc
chỉ là cái tên tượng hình cho di tích của tòa thành còn lại được coi như
là của An Dương Vương xây, chứ còn tên thật của nó mà An Dương Vương
đặt ra thì không còn ai biết. Cái tên Cổ Loa chỉ xuất hiện từ khoảng thế
kỷ thứ 15 trong các tài liệu của Việt Nam như Lĩnh Nam Chích Quái, hoặc Dư Ðịa Chí và Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư. Trước đó, trong những tài liệu của Trung Quốc chỉ thấy nhắc đến những tên như Việt Vương Thành, hoặc Việt Vương Cổ Thành.
Từ
những huyền thoại và truyền thuyết đó, cộng với một chút sử liệu còn
sót lại chúng ta chỉ biết được một cách đại cương rằng có một ông vua,
có thể tên là Thục Phán, đã đánh chiếm nước Văn Lang của Hùng Vương,
xưng hiệu là An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc. Nước này sau đó bị
Triệu Đà từ phương bắc tới xâm lăng. An Dương Vương tổ chức kháng cự,
nhưng rốt cuộc đã bị thua và đất nước rơi vào sự thống trị của họ Triệu.
Nhân vật Triệu Đà và cuộc xâm lăng Âu Lạc đã được ghi chép trong sử
liệu của Trung Quốc, nhưng còn An Dương Vương và những gì xảy ra trước
đó thì hầu như là hoàn toàn chỉ được nói đến trong truyền thuyết Việt
Nam mà thôi.
Những
sử liệu của Trung Quốc chỉ nhắc đến giai đoạn sau của triều đại An
Dương Vương khi ông chống nhau với Triệu Ðà, thành ra, về việc khởi
nghiệp của An Dương Vương chúng ta phải quay trở lại các nguồn sử liệu
Việt Nam mà quan trọng nhất là các bộ Lĩnh Nam Chích Quái và Việt Điện U Linh Tập. Trong truyện "Thần Kim Quy" Lĩnh Nam Chích Quái viết :
"Vua
An Dương Vương nước Âu Lạc là người Ba Thục, họ Thục, tên Phán. Nhân vì
tổ phụ khi trước cầu hôn lấy Mỵ Nuơng là con gái Hùng Vương nhưng không
được nên mang oán. Phán muốn hoàn thành chí người trước, cử binh đánh
Hùng Vương diệt nước Âu Lạc, rồi lên làm vua, xây thành ở đất Việt
Thường".
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép lại gần giống hệt như Lĩnh Nam Chích Quái, chỉ nói khác rằng vua đóng đô và xây thành Cổ Loa tại Chu Diên. Sau đó các bộ sách khác như Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí
của Phan Huy Chú cũng ghi chép về An Dương Vương và nước Âu Lạc với nội
dung tương tự. Việt Thường, Chu Diên là tên của các huyện mà các triều
đại Trung Quốc lập ra về sau này. Việt Thường theo các bản địa lý cổ nằm
tại châu Hoan, tức là vùng Nghệ An bây giờ, trong khi Chu Diên thì nằm
tại khu vực tây và nam sông Thái Bình tương đương với vùng Hải Dương,
Thái Bình hiện nay. Cả hai chỗ đều không trùng với địa điểm Cổ Loa hiện
nay mà người ta vẫn công nhận là thành của An Dương Vương.
Phải
cho tới thế kỷ thứ 19 một số sử thần triều Nguyễn mới tỏ ý hoài nghi về
một số điểm ghi chép ở trên nhất là ở điểm An Dương Vương là người Ba
Thục. Có người như Nguyễn Văn Siêu đã thẳng thắn nghi ngờ cả sự tồn tại
của thành vua Thục trên đất nước Giao Chỉ. Lý do chính khiến người ta
hoài nghi là không những từ Việt Nam hiện nay đến vùng Tứ Xuyên là nơi
đất Ba Thục thời xưa cách nhau một khoảng rất xa và phải đi qua nhiều
vương quốc khác vào thời đó, mà còn bởi sự kiện rằng trước khi An Dương
Vương xuất hiện gần một thế kỷ thì nước Thục đã không còn tồn tại nữa,
vì đã bị nước Tần tiêu diệt vào năm 315 Trước Công nguyên. Ngay cả trong
trường hợp Thục Phán là hậu duệ của các vua Thục thì trong thời gian
gần một trăm năm đó, gia đình ông cũng phải kiếm một nơi nào để sinh
sống.
Một
số học giả đã tìm cách để giải thích khó khăn này trong đó giải thích
của Đào Duy Anh được khá nhiều người ủng hộ. Theo ông thì sau khi nước
Thục bị diệt vong, con cháu vua Thục chạy sang tá túc tại Sở. Đến khi Sở
mất nước thì họ chạy xuống phía nam đến vùng Vân Nam lập một nước Thục
khác có tên là Tây Thục. Trong sử Trung Quốc (Hậu Hán Thư - Nam Man Tây Nam Di Truyện) có chép đến nước này trong mục Ai Lao Di chính là nước Thục đó. Như một trong những người ủng hộ thuyết này đã viết :
"Cuối
đời vua Hùng, Thục Phán đã từ đây mà xuống xâm lược nước ta. Đó là một
cuộc chiến tranh dai dẳng và khốc liệt. Cuối cùng nước Văn Lang bị tiêu
diệt.... Nước Tây Thục (Ai Lao di) này nằm sát nước ta ở tây bắc, nó nằm
trên trục giao thông chủ yếu của nước ta với miền Tây Nam đi qua thung
lũng sông Hồng, sông Lô ; Tây Thục cũng là một trạm trung gian trên con
đường giao thông quốc tế thời cổ giữa những nước phía Tây như Ấn Độ cổ
đại...Đến đời Hán Minh Đế, Ai Lao thuộc hẳn về nhà Hán, Hán chia đất đó
thành hai huyện Ai Lao và Bắc Nam, sau đổi thành Vĩnh Xương nay tức là
châu tự trị Đức Hoằng thuộc tỉnh Vân Nam".
Tuy
nhiên những người chống lại cho rằng đây là một thuyết dựa vào quá
nhiều ức đoán. Đặc biệt người ta đã chỉ ra rằng trong thời cổ, việc giao
lưu giữa Giao Châu và Ích Châu chỉ hạn chế đến Điền (một vương quốc cổ
thuộc khu vực phía Nam tỉnh Vân Nam hiện nay) chứ không bao giờ lên đến
vùng Ai Lao Di cả. Ai Lao Di cũng chưa từng bao giờ trở thành một nước
hùng mạnh để phát triển và đe dọa Giao Châu cả. Đặc biệt, trong thời Tần
Hán, Điền là một bức tường chắn ngang đường giao lưu giữa Bắc và Nam và
giữa Trung Quốc với Miến Điện, Ấn Độ ngày nay.
Về niên đại thành lập và thời gian tồn tại của nước Âu Lạc ta cũng có nhiều nghi vấn.
Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược đã chép theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
và cho niên đại của nước Âu Lạc từ năm 257 trước Công nguyên cho đến
208 trước Công nguyên. Việc chọn niên đại này dựa trên một câu của Ðại Việt Sử Lược,
cuốn sách sử xưa nhất của Việt Nam còn tồn tại viết vào cuối đời Trần,
nói rằng Hùng Vương mất nước vào những năm chót của nhà Chu :
"Cuối đời Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay".
Theo
sử Trung Quốc, Chu bị Tần diệt vào khoảng năm 256 trước Công nguyên.
Nếu Hùng Vương bị mất nước vào tay Thục Phán trước khi nhà Chu bị diệt
thì sự kiện đó phải xảy ra muộn nhất là vào năm 256 trước Công nguyên.
Có lẽ chính vì vậy, nên mà các sử gia ta đã chọn năm 257 trước Công
nguyên là lúc mà nước Văn Lang bị diệt vong. Còn tại sao lại chọn năm
chót của triều đại An Dương Vương là năm 208 trước Công nguyên ? Hiện
chúng ta không biết các sử gia thời trước căn cứ vào đâu để chọn niên
điểm này là lúc kết thúc thời kỳ An Dương Vương. Căn cứ vào sử Trung
Quốc năm 208 trước Công nguyên là năm Tần Thủy Hoàng chết, Tần Nhị Thế
bãi binh xâm lược vùng Bách Việt.
Một
số sử gia miền Bắc tuy vậy lại cho rằng triều đại An Dương Vương trễ
hơn. Sự qua đời của Tần Thủy Hoàng chính là nguyên nhân mà một số sử gia
Hà Nội đã chọn lựa năm 208 trước Công nguyên như là niên điểm bắt đầu
việc An Dương Vương dựng nên nước Âu Lạc, với mốc cuối cùng cho sự diệt
vong của nước Âu Lạc được đặt vào năm 180 trước Công nguyên. Những lý do
mà các sử gia Hà Nội lựa chọn những niên điểm như vậy sẽ được trình bày
trong phần sau.
An
Dương Vương dựng lên nước Âu Lạc đúng vào lúc toàn bộ vùng Hoa Nam rơi
vào một cuộc khủng hoảng lớn. Chính vì vậy muốn hiểu rõ hơn về An Dương
Vương và đất nước Âu Lạc của ông chúng ta cần phải tìm hiểu thêm bối
cảnh lịch sử của vùng này vào những năm cuối của thế kỷ thứ ba trước
Công nguyên.
Năm
222 trước Công nguyên, Tần Vương Chính tức Tần Thủy Hoàng Ðế về sau
này, sai Vương Tiễn mang 60 vạn quân diệt nước Sở, lúc mang quân về vòng
qua Sơn Đông, diệt nước Tề thống nhất Trung Quốc. Năm 221 trước Công
nguyên Tần Vương tự xưng là Tần Thủy Hoàng Đế đồng thời cử 50 vạn quân
chia làm 5 đạo đánh vùng Lĩnh Nam. Năm đạo quân này do Đồ Thư chỉ huy
chia làm ba đường, hai đạo quân đi đường thủy đánh Nam Việt, một đạo
quân đánh Đông Âu và Mân Việt và hai đạo quân đánh Tây Âu. Chiếm đất đặt
ra ba quận Quế Lâm (miền đông tỉnh Quảng Tây) ; Nam Hải (tỉnh Quảng
Đông hiện nay) và Tượng (miền tây tỉnh Quảng Tây và miền nam Quý Châu
hiện nay)
Nam
Việt, Mân Việt và Đông Âu không tạo ra nhiều vấn đề, nhưng đạo quân Tần
tấn công vào Tây Âu đã gặp sức đề kháng mãnh liệt của dân chúng. Phải
mất ba năm, quân Tần mới dành được những thắng lợi đầu tiên khi vào năm
219 trước Công nguyên vua Tây Âu tử trận. Nhưng không vì vậy mà dân Bách
Việt chịu hàng phục nhà Tần. Hoài Nam Tử kể lại cuộc xâm lược của nhà Tần vào đất Bách Việt như sau :
"Người
Việt bỏ trốn vào trong rừng, sống chung với cầm thú, không ai chịu làm
nô lệ cho người Tần cả. Họ chọn những người kiệt hiệt lên làm tướng, ban
đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần, thây phơi huyết chảy hàng mấy
chục vạn người và giết được đô úy là Đồ Thư".
Cuộc
tiến quân về phía Nam của nhà Tần như vậy là bị sa lầy trên các vùng
rừng và núi của tỉnh Quảng Tây. Không có đủ quân trấn đóng, nhà Tần phải
gởi thêm lính đến trú đóng ở các vùng mới chiếm được này. Những thành
phần binh lính là những người đào vong, tù tội, người nghèo ở gởi rể
(chuế tế), lái buôn. Họ ở hỗn cư với dân Bách Việt. Tuy nhiên những đám
quân Tần này vẫn bị hoàn toàn cô lập với nhân dân địa phương đến nỗi năm
214 trước Công nguyên khi Triệu Đà được cử vào làm chức Úy quận Nam hải
đã phải dâng biểu về triều xin cấp cho ba vạn đàn bà góa hoặc con gái
chưa chồng để "may vá quần áo cho quân sỹ". Triều đình nhà Tần
chỉ gởi được có một vạn năm ngàn người. Tình hình cứ như vậy cho đến khi
Tần Thủy Hoàng chết. Tư Mã Thiên cũng đã tả tình cảnh quân Tần như sau :
"Đương
bấy giờ nhà Tần ở phía Bắc thì mắc họa với người Hồ, ở phía Nam thì mắc
họa với người Việt. Đóng binh ở đất vô dụng, tiến không được thoái cũng
không được. Trong hơn mười năm, đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên
chở, khổ không sống nổi. Người ta tự thắt cổ trên cây ở dọc đường,
người chết trông nhau. Kịp khi Thủy Hoàng Đế băng, cả thiên hạ nổi lên
chống".
Tần Thủy Hoàng Đế băng vào năm 209 trước Công nguyên. Năm sau Tần Nhị Thế ra lệnh bãi binh tại Bách Việt.
Cuộc
chiến tại vùng Hoa Nam tuy có tính cách khốc liệt như vậy, nhưng không
thấy có ảnh hưởng bao nhiêu tới vùng đất của người Lạc. Truyền thuyết
dân gian của Việt Nam hầu như không nhắc nhở gì đến cuộc kháng chiến
chống nhà Tần của các dân tộc Bách Việt. Câu chuyện độc nhất được ghi
lại trong Lĩnh Nam Chích Quái có liên quan đến sự kiện này là
truyện "Lý Ông Trọng" trong đó kể lại An Dương Vương dâng Lý Ông Trọng
cho Tần Thủy Hoàng để quân Tần không đánh nước ta. Tuy nhiên việc nhà
Tần tiến đánh vùng Lĩnh Nam đã là một khúc quanh lịch sử quan trọng đối
với Việt Nam vì đây là lần đầu tiên mà ta tiếp xúc với văn minh của
người Hán, và từ đó dẫn đến việc nước ta trở thành một quận huyện của đế
quốc Hán mở đầu cho sự chuyển hóa của dân ta từ Lạc trở thành Việt.
Nhưng đó là câu chuyện về sau.
Trong
những thập niên 1960 và đầu 1970, vì những lý do chính trị, các sử gia
Hà Nội đã tìm cách chứng minh rằng dân Lạc cũng tham gia vào cuộc kháng
chiến chống nhà Tần và Thục Phán chính là một lãnh tụ của cuộc kháng
chiến đó. Theo họ, Âu Lạc, Tây Âu và Tây Âu Lạc cũng là một, và trong
cuộc chiến chống Tần đó các bộ tộc Lạc và Âu đã liên minh cùng cử "người
kiệt hiệt" lên làm tướng đánh quân Tần. Người kiệt hiệt đó chính là
Thục Phán. Chỉ sau khi Tần Nhị Thế bãi binh thì liên minh Âu và Lạc mới
tan vỡ và Thục Phán đánh Hùng Vương diệt nước Văn Lang. Một số người còn
đi xa hơn nữa, nói rằng không có cuộc chiến Hùng Thục mà sau kháng
chiến chống Tần thành công, Hùng Vương cảm thấy già yếu đã tự động
nhường ngôi cho Thục Phán chính thức hóa cuộc liên minh giữa Âu và Lạc.
Những
lý thuyết đó phục vụ cho quan điểm chính trị đương thời nhiều hơn là
quan điểm sử học. Chúng bỏ quên một số những sự kiện về địa lý lịch sử
cũng như về nhân văn. Căn cứ vào các dữ kiện còn lại trong Sử Ký, Hán
Thư và Hoài Nam Tử ta có thể thấy rằng quân đội nhà Tần lúc đó tiến tối
đa là tới khu vực thượng lưu sông Tây Giang mà thôi, còn cách biên giới
nước ta cả mấy trăm cây số. Khó có thể tưởng tượng rằng lúc đó, với Hùng
Vương chỉ như thủ lãnh của một liên minh bộ tộc lại có thể gởi quân đi
hàng trăm dậm giúp đỡ một đất nước khác mà mình không có liên hệ.
Trên phương diện quân sự, những điều kể lại trong Hoài Nam Tử và Sử Ký
cho ta thấy cuộc chiến du kích đã xảy ra sau khi Tây Âu bị quân Tần
chiếm mà thôi. Vì vậy, mặc dầu dân Bách Việt sau này có giết được Đồ
Thư, nhưng họ vẫn không giải phóng được đất nước của họ. Sau này khi
Triệu Đà lập nước Nam Việt, áp dụng những chính sách chiêu dụ thì cuối
cùng đã tạo ra được sự lắng dịu và làm cho dân chúng Bách Việt chấp nhận
quyền cai trị của nhà Triệu.
3.4. Nguồn gốc An Dương Vương và cuộc chiến Hùng Thục
Nguồn gốc An Dương Vương
Trong
khi tìm hiểu nguồn gốc của An Dương Vương có hai yếu tố mà tất cả mọi
câu chuyện về ông đều nói tới : đó là tên nước Âu Lạc mà ông đặt ra và
việc ông đóng kinh đô trên đất của người Lạc, dù rằng tại Cổ Loa hiện
nay hay là tại một nơi khác như Nghệ An mà một số nhà khảo cứu đã đề ra.
Mặc
dầu việc sự cố ý nhầm lẫn nước Âu Lạc với Tây Âu là một điều không chấp
nhận được, nhưng các học giả Hà Nội đã có một phần nào đúng khi chú ý
đến từ "Âu" trong tên nước Âu Lạc.
Các bộ sử cổ của Trung Quốc như Sử Ký
của Tư Mã Thiên cho thấy khi nước Việt của Câu Tiễn bị Sở diệt vào năm
333 trước Công nguyên, con cháu vua Việt và các nhà quý tộc Việt chạy về
Lĩnh Nam và thành lập một số những quốc gia tại vùng này. Tên của những
vương quốc mà họ thành lập hầu hết đều có hoặc từ "Việt" như Nam Việt,
Mân Việt hoặc từ "Âu" như Đông Âu, Tây Âu. Ở miền Nam Triết Giang (địa
bàn của nước Việt cũ) hiện còn một con sông có tên là Âu giang. Nơi đây
vốn là trung tâm điểm của nền văn hóa của nước Việt cổ thời Chiến Quốc.
Với những điều chúng ta biết về lịch sử của những cuộc di dân trong thời
cổ đại, ta có thể khẳng định rằng đại đa số dân Việt đó không rời bỏ
quê hương của họ. Chỉ những thành phần thống trị, giới quý tộc cùng với
những cận thần của họ mới lìa bỏ quê hương mà đi. Những người này thông
thường tụ họp thành những băng đảng có vũ trang giống như những băng
đảng rợ Goth, rợ Frank hoặc Anglo Saxon tấn công vào biên thùy của thế
giới La Mã trong những ngày cuối của đế quốc này.
Những
nhóm vũ trang như vậy, phần lớn là những binh sỹ chuyên nghiệp nên
thông thường có thể đánh bại binh đội của các bộ tộc nông dân như của
nước Văn Lang vốn không có một đội quân thường trực mà thường chỉ khi có
giặc mới động viên nhân dân mà thôi.
Thục
Phán có lẽ là lãnh tụ của một trong những đám đó. Tên của ông cho thấy
có thể có một quan hệ nào đó với nước Thục. Nhưng nước Thục đó đã bị
tiêu diệt từ trên một trăm năm trước. Có thể rằng ông đã tỵ nạn tại Tây
Âu, nơi mà những quý tộc Việt dựng lên một đất nước mới sau khi bị Sở
diệt. Có thể rằng ông cùng những người Tây Âu khác đã chạy trốn trước
sức tấn công của quân Tần và tới nước Văn Lang của Hùng Vương rồi nhân
thế tấn công chiếm đoạt nước này. Điều chắc chắn là ông không phải là
người Lạc mà là một người Việt thuộc giòng giống Bách Việt. Chính vì vậy
những lý luận cho rằng cuộc chiến Hùng Thục chỉ là một cuộc chiến nội
bộ giữa hai bộ tộc của một dân tộc Lạc có lẽ là không đúng.
Điều đáng chú ý là những tài liệu xưa nhất của Trung Quốc đã không nhắc nhở gì về đất nước của Thục Phán cả. Quảng Châu Ký chép rằng :
"Binh tướng Thục Vương Tử đánh bại Lạc hầu, tự xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê".
Giao Châu Ngoại Vực Ký thì chép :
"Sau
ba vạn binh tướng Thục Vương Tử đánh bại Lạc vương, Lạc hầu, khuất phục
các Lạc tướng. Thục Vương Tử tự xưng là An Dương Vương".
Nam Việt Chí cũng chép :
"Sau ba vạn binh tướng của Thục Vương Tử đánh diệt Hùng Vương".
Các
sử gia cổ đại Trung Quốc luôn luôn cẩn thận ghi chép khi một nước này
bị diệt bởi một nước khác. Điều này cho thấy Thục Phán có thể coi như là
người cầm đầu một đạo quân chứ không hề là người đứng đầu một quốc gia
như ta tưởng. Nhưng như vậy nó cũng phù hợp với một sự kiện khác mà bình
thường có thể khiến ta ngạc nhiên. Tất cả các thư tịch của Trung Quốc
cũng như của Việt Nam đều nói An Dương Vương đóng đô tại Phong Khê (Cổ
Loa), tức là ngay chính giữa trọng tâm của nước Văn Lang. Nếu Thục Phán
đã là vua của một nước, dù rằng đó là một nước láng giềng với Văn Lang
chăng nữa (có thuyết nói rằng nước của Thục Phán nằm tại vùng Cao Bằng
hiện nay) thì ông không có lý do gì mà lại dời kinh đô của mình đến một
nước mà mình mới chiếm được. Nhất là khi kinh đô mới ấy nằm ngay giữa
nước địch, cách xa đất nước của mình.
Cuộc chiến Hùng Thục
Tuy
không một sử liệu nào nhắc đến một cách chi tiết cuộc chiến Hùng Thục,
nhưng chính những thiếu sót đó có thể cho ta đoán được rằng cuộc chiến
này không khốc liệt là bao nhiêu. Chắc chắn là không đến nỗi khốc liệt
như cuộc chiến giữa nhà Tần và các tộc Bách Việt.
Ta có thể tưởng lại diễn biến cuộc chiến Hùng Thục như sau :
"Vào
khoảng những năm cuối của thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, có một đoàn
người, phần lớn là binh sỹ nhưng cũng có thể có thêm đàn bà, trẻ con -
những người đi tháp tùng trong các đạo quân thời cổ - mệt mỏi tiến từ
Quảng Tây hướng về phía Việt Nam hiện nay. Những người này có lẽ là
người Tây Âu, thuộc chủng tộc Tày-Thái hiện nay. Họ đã phải bỏ chạy
trước sức đánh vũ bão của bạo Tần. Thủ lãnh của họ là Thục Vương Tử,
giòng dõi của một triều đại mà trước đó một trăm năm cũng đã bị Tần tiêu
diệt và đã ngụ cư ở đất Tây Âu sau khi nước Thục mất.
Tới
vùng đất mà hiện nay là tả ngạn sông Hồng, vùng trải từ Tuyên Quang,
Thái Nguyên xuống đến phía Bắc sông Đuống, họ dừng lại và định cư ở đó.
Để tưởng nhớ đất cũ, họ đặt tên cho vùng đất mới này là Tây Vu (Vu theo
các nghiên cứu về ngữ học là một biến thể của chữ Âu).
Nhưng
khi định cư tại vùng đất mới này thì họ đã đụng với những bộ lạc đã
sống sẵn ở đó, dân tộc Lạc thuộc chủng tộc Nam Á vốn đã tạo ra một liên
minh bộ lạc mà thủ lãnh là Hùng Vương. Có thể là những người mới này xin
gia nhập vào liên minh bộ lạc của Hùng Vương nhưng bị từ chối - Truyền
thuyết nói rằng Thục Vương xin cưới Mỵ Nương con gái Hùng Vương nhưng
không được. Các cuộc hôn nhân cổ đại thường thường vẫn mang một ý nghĩa
chính trị, chính thức hóa một liên minh hay là việc gia nhập của một
thành phần mới vào trong bộ tộc - và một cuộc chiến đã nổ ra.
Trong
cuộc chiến này, Hùng Vương không được sự ủng hộ của các bộ lạc khác
trong liên minh và vì vậy đã thất bại, phải nhường chức minh chủ cho
người mới, chỉ còn giữ quyền cai trị bộ lạc cũ của mình là bộ Văn Lang
mà thôi. Lãnh tụ mới của liên minh bộ lạc, Thục Phán, để kỷ niệm sự sáp
nhập giữa hai tộc người này mới ghép tên hai bộ tộc vào nhau và đặt tên
nước mới là Âu Lạc.
Những
tưởng tượng của chúng ta về chuyện này có đúng hay không thì không ai
có có thể biết. Tuy nhiên, một số những dữ kiện còn lại cho ta thấy rằng
một sự tưởng tượng như vậy, ít nhất cũng khả chấp.
Những
khảo sát về cổ nhân chủng học và cổ ngôn ngữ học cho thấy người Việt
chúng ta tuơng đối khá đồng nhất. Những yếu tố Tầy-Thái trong ngữ ngôn
tiếng Việt không nhiều khiến ta khó có thể cho rằng nước Âu Lạc được
thành lập bởi việc sáp nhập hai tộc người khác nhau. Điều này buộc chúng
ta phải chọn một trong hai giả thuyết. Một là An Dương Vương và bộ tộc
của ông cũng là một tộc người Lạc như là các học giả Hà Nội vẫn đưa ra.
Hai là, số lượng những người Tây Âu đi theo An Dương Vương rất nhỏ và họ
đã bị đồng hóa vào cộng đồng người Lạc không để lại bao nhiêu dấu vết.
Một cuộc điều tra về ngôn ngữ địa phương sử dụng tại vùng Đông Anh quanh
khu vực Cổ Loa cũ vào khoảng những năm 1960 cho thấy tiếng nói của cư
dân tại đây hoàn toàn là những tiếng Việt thông thường không có bao
nhiêu khác biệt với tiếng Việt tại các vùng khác. Tuy nhiên nó cũng đưa
ra được một số, tuy rằng rất ít, những từ đặc biệt địa phương mà người
ta cho là tiếng Tày-Thái cổ tỷ như chữ "viềng" được dùng thay cho chữ
"thành".
Nguyễn Linh trong bài nghiên cứu "Bàn về nước Thục của Thục Phán" đăng trong tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số
124 xuất bản vào tháng 7 năm 1969 tại Hà Nội đã nghiên cứu một số lớn
thần phả, ngọc phả (sự tích các thần thờ tại các đình làng) đã cho thấy
rằng những ký ức dân gian về cuộc chiến giữa Hùng Vương và giặc Thục chỉ
tập trung vào chung quanh khu vực Vĩnh Phúc Yên, tức là địa bàn của bộ
Văn Lang trong mười lăm bộ tạo nên nước Văn Lang của Hùng Vương mà thôi.
Một
yếu tố khác cho thấy An Dương Vương dựa vào một lực lượng quân đội
thường trực là sự hiện diện những dấu tích của một công trình quân sự -
thành Cổ Loa - Ngoài ra, kho tên đồng hàng vạn chiếc tìm thấy ở Cầu Vực
(Cổ Loa) năm 1959 là một phát hiện khảo cổ học hiếm thấy. Những đầu mũi
tên đồng ba cạnh tương đối lớn về kích thước và khá đặc biệt về kiểu
dáng này là cơ sở tốt để giải thích truyền thuyết về nỏ thần. (Việt Kiệu Thư
: "Âu lạc thời Tần rất mạnh, có phép dùng nỏ rất giỏi, một phát tên
đồng có thể xuyên qua hơn chục người. Triệu Đà sợ lắm") Việc xây dựng
một thành to lớn như vậy cùng tích trữ những vũ khí tốn tiền và tốn kém
công sức để thực hiện như những mũi tên đồng cho thấy An Dương Vương
không thể nào dựa vào một lực lượng dân binh để phòng vệ được.
Ngoài
ra, sau khi An Dương Vương đánh bại Hùng Vương rồi, các lạc hầu lạc
tướng vẫn còn tiếp tục giữ nguyên quyền hành của họ tại các vùng họ cai
trị. Ngay cả con cháu Hùng Vương vẫn còn tiếp tục trị vì tại Mê Linh ; Hậu Hán Thư khi thuật lại chuyện Hai Bà Trưng cũng đã viết bà Trưng là con gái lạc tướng Mê Linh vốn giòng họ Hùng.
Những
chuyện xảy ra như vậy cho thấy nước Văn Lang của Hùng Vương cũng như là
Âu Lạc của An Dương Vương chưa trở thành một quốc gia như ta hiểu sau
này mà chỉ là những liên minh bộ tộc trong đó nhà vua, dù rằng Hùng
Vương hay An Dương Vương đều không có quyền hành tuyệt đối với các chức
quan dưới quyền mình.
Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh và những dấu tích của một sử thi Việt Nam
Người
Việt chúng ta hiếm có ai mà không biết đến truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh
trong đó hai vị thần đều đến cầu hôn Mỵ Nương con vua Hùng vương thứ 18.
Sơn Tinh biện được đồ lễ trước và cưới được Mỵ Nương còn Thủy Tinh đến
sau tức giận bèn dâng nước lên đánh. Từ đó hàng năm cứ đến mùa lũ người
ta tương truyền rằng đó là Thủy Tinh dâng nước lên để đánh báo thù.
Ngoại
trừ sự kiện là cuộc tranh chấp Sơn Tinh Thủy Tinh xảy ra vào cùng thời
với việc Hùng Vương mất nước, ít ai chúng ta lại nghĩ rằng truyền thuyết
này có liên hệ tới cuộc chiến Hùng Thục. Nhưng những nghiên cứu về các
thần tích tại các đình và đền thờ tại vùng Vĩnh Phúc Yên, Phú Thọ trong
những năm 1960 tại miền Bắc đã tìm ra một loạt những câu chuyện nói về
Sơn Tinh và các bộ hạ của ông trong cuộc chiến giữa Hùng Vương và Thục
Vương.
Ngọc phả để tại đền Hùng tương truyền là do Nguyễn Cố soạn vào năm 1470 chép lại rằng :
"Đời
Hùng Vương thứ 17, giữa vua Hùng và vua Thục có quan hệ láng giềng tốt
với nhau. Sang đời Hùng Vương thứ 18, Sơn Tinh lấy được Mỵ Nương và vua
Hùng định nhường ngôi cho con rể. Trước đó Hùng Vương đã từ chối không
gả con gái cho vua Thục. Vua Thục đem quân đánh Hùng Vương. Nhờ Tản Viên
(tức Sơn Tinh) giúp sức, Hùng Vương đánh tan được quân Thục, nhưng sau
đó nghe lời khuyên của Sơn Tinh, Hùng Vương nhường ngôi cho vua Thục rồi
cả Hùng Vương lẫn Sơn Tinh cùng hóa".
Khảo
sát về các thần tích khác trong địa bàn Vĩnh Phúc Yên, Phú Thọ, Nguyễn
Khắc Xương đã đưa ra một loạt những câu chuyện dân gian về những vị thần
và những con người giúp Hùng Vương chống cự lại An Dương Vương. Những
truyện như Hùng Lộc Đại Vương bị kẻ địch chặt đứt đầu đã tự lấy vải buộc
cổ lại tiếp tục chiến đấu cho đến khi địch rút. Đến khi chạy tới một
cái cầu ở xã Xuân Vi, ông hỏi một bà hàng bán nước bên đường : "Người
đứt đầu thì còn sống được không ?". Bà hàng đáp : "Ông nói lạ, người đứt
đầu thì làm sao sống được ?". Ông bèn xuống ngựa, nằm trước quán, để
giáo ngang người mà chết. Chỗ ấy mối đùn lên thành mộ. Làng bèn thờ ông
làm thần. Hoặc chuyện Đinh Công Tuấn ở Lâm Thao đã chiến đấu quyết liệt
chống lại An Dương Vương. Khi bị An Dương Vương đuổi ông đã nhẩy xuống
sông Thao chứ không chịu đầu hàng.
Những
thần tích này phảng phất còn giữ được những cốt lõi của các câu chuyện
dân gian nhưng đã được chế biến lại qua ngoài bút của các nhà nho (hầu
hết các thần tích và ngọc phả này được viết lên vào đời Lê). Chúng có
thể là những dấu tích của những sử thi của người Lạc thời xưa tương tự
như Illiad hoặc Mahabharata, nhưng tiếc là không có một cây bút thiên
tài như Homer để hoàn thành một sử thi toàn hảo.
Xã hội Việt Nam dưới thời An Dương vương
Căn
cứ vào những gì ta biết về các xã hội cổ đại, cộng với những dữ kiện ta
biết về nước Việt Nam thời Âu Lạc, ta có thể có một số phỏng đoán về xã
hội Âu Lạc dưới thời An Dương Vương. Đây là một xã hội nông nghiệp được
tổ chức theo kiểu thị tộc. Mỗi thị tộc có một vùng đất riêng của mình
và được cai trị bởi một người mà theo truyền thống ta cứ gọi là Lạc
Tướng. Trái với Hùng Vương, An Dương Vương không có một thị tộc nào của
riêng mình cả. Ông chỉ là một lãnh tụ quân sự.
Sự
kiện này phảng phất giống như tình trạng tại nước Anh dưới thời của vua
Arthur, không phải vua Arthur trong thần thoại và cổ tích với các hiệp
sỹ ngồi quanh bàn tròn và những chuyến đi hành hiệp, mà là vua Arthur
lịch sử của thời kỳ chống lại sự xâm lăng của những người Anglo Saxon.
Vào thời đó nước Anh của những người Celt được chia ra thành rất nhiều
vương quốc nhỏ, mỗi vương quốc chỉ tương đương với một tỉnh của nước Anh
bây giờ tức là về độ lớn thì cũng sấp xỉ tương đương với một bộ của
nước ta dưới thời Hùng Vương và An Dương Vương. Nennius, trong cuốn lịch
sử nước Anh của ông viết vào thế kỷ thứ 9 viết :
"Arthur không phải là vua, nhưng ông chỉ huy các vua trong các trận đánh".
Và
cũng như Arthur có một đội quân chuyên nghiệp của mình và chỉ trông cậy
vào sự trợ giúp phần nào của các dân binh mà các vị vua dưới quyền ông
chiêu mộ, An Dương Vương cũng có một đội quân chuyên nghiệp của ông, có
lẽ bao gồm những người đi theo ông trong quá trình chạy xuống phương
Nam, nhưng sau đó chắc hẳn có tuyển mộ thêm từ các bộ tộc thời Hùng
Vương.
Cố
nhiên đây chỉ là những phỏng đoán, ta không có một bằng chứng nào có
thể xác nhận được chuyện này. Nhưng ngay cả cái tên xưng của ông cũng
cho ta thấy một ít lý do rằng những phỏng đoán này có một phần nào sự
thật. An Dương Vương là một cái tên rất Hán. Nó có nghĩa là yên biển.
Chắc chắn là vào thời An Dương Vương nước ta chưa Hán hóa đến mức mà nhà
vua phải xưng hiệu của mình bằng một cái tên rất tầu như vậy. Từ "An
Dương" làm ta liên tưởng đến từ "Phục Ba" một tước hiệu của Mã Viện.
Phải chăng An Dương Vương đã lấy hiệu là người đã chinh phục được những
bộ lạc vùng sông biển ? Và các sử gia người Hán sau này đã dịch ra tiếng
Hán để trở thành An Dương Vương ?
Thành Cổ Loa
Nếu An Dương Vương là lãnh tụ một đội quân đi chinh phục một liên minh
bộ lạc thì việc xây một tòa thành, một pháo đài cho mình và quân đội
mình trú đóng là một chuyện tất nhiên. Truyện thần Kim Quy trong Lĩnh Nam Chích Quái kể lại rằng khi xây thành thì cứ đắp đến đâu thành lở đến đấy. Truyện kể rằng :
"Vua
lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Ngày mùng bảy tháng ba, bỗng thấy
một cụ già từ phương đông tới trước cửa thành mà than rằng "Xây dựng
thành này biết bao giờ mà xong được ?" Vua mừng rỡ đón vào trong điện,
thi lễ hỏi rằng : "Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tốn nhiều công
sức mà không thành thế là cớ làm sao ?" Cụ già đáp : "Sẽ có sứ Thanh
Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công", nói rồi từ biệt
ra về.
Hôm
sau vừa ra cửa đông chờ đợi bỗng thấy một con rùa vàng từ phương Đông
lại, nổi lên mặt nưóc mà nói sõi tiếng người, tự xưng là sứ Thanh Giang,
thông tỏ việc trời đất âm dương, quỷ thần. Vua mừng rỡ nói "Điều đó
chính cụ già đã báo cho ta biết trước". Bèn dùng xe bằng vàng rước vào
trong thành, mời ngồi trên điện, hỏi vì sao xây thành không được. Rùa
vàng đáp "Cái tinh khí ở núi này là con vua đời trước, muốn báo thù cho
nước, Lại có con gà trắng sống ngàn năm hóa thành yêu tinh, ẩn ở núi
Phất Diệu Sơn…".
Những
nghiên cứu về phong tục thực hiện vào trước năm 1945 cho biết tại miền
Bắc có một số làng thờ gà làm thành hoàng, đồng thời tại một khu di chỉ
gần đền Hùng người ta đã khai quật được những tượng hình đầu gà. Điều
này gợi lên cho ta ý nghĩ rằng, gà có thể đã từng được thờ làm vật tổ
tại một số bộ của dân Lạc. Và ở đất Cổ Loa xưa kia, có thể có một số
những bộ mang tên gà hoặc thờ gà, bị An Dương Vương lấy đất xây thành,
đã nổi lên chống lại (chi tiết thành xây bị sụp đổ). Điều đó cũng được
hình tượng thêm qua việc nhắc lại chuyện "con vua đời trước, muốn báo
thù cho nước".
Còn
thần Kim Quy thì sao ? Rùa chắc chắn là vật tổ của những người Tầy-Thái
cổ, những dân tộc thuộc Bách Việt thời đó mà có triển vọng là dân tộc
gốc của An Dương Vương. Ở các vùng người Thái nay vẫn còn phổ biến tục
thờ rùa và nhiều truyền thuyết về rùa.
Được
sự giúp đỡ của Rùa Vàng, An Dương Vương đã xây xong được thành Cổ Loa.
Thật sự, Cổ Loa không phải là tên thành mà An Dương Vương đặt. Nếu hiểu
theo nghĩa chữ thì Cổ Loa chỉ có nghĩa là thành soắn ốc xưa mà thôi. Tất
cả các thư tịch cổ nhất như Việt Sử Lược, Lĩnh Nam Chích Quái của ta hay Việt Kiệu Thư của
Trung Quốc chỉ nói đến An Dương Vương xây thành ở đất Việt Thường mà
thôi. Tên Cổ Loa có lẽ chỉ xuất hiện từ cuối thời Lê, cùng lúc với việc
xây dựng đền thờ An Dương Vương và Mỵ Châu ở bên trong vòng thành còn
lại. Theo Ngọc Phả Hồng Đức, xã Cổ Loa thời trước có tên là trang Kim Lũ
và còn có tên nôm là Kẻ Chủ, tức là làng chúa - hiểu theo nghĩa chữ nôm
cổ "kẻ" có nghĩa là một làng hay một thị trấn, Hà Nội hồi xưa còn gọi
là "Kẻ Chợ".
Mặc
dầu những di tích còn lại của thành này cho thấy niên đại của chúng sớm
nhất chỉ là vào đầu đời Đông Hán, nhưng có khả năng rằng dưới những di
tích đó, dấu vết của tòa thành thời An Dương Vương vẫn còn tồn tại. Nếu
những di tích còn lại phản ảnh một phần nào tòa thành cổ của An Dương
Vương thì theo nhận xét của những nhà khảo cổ thành Cổ Loa này là một
công trình phòng thủ rất kiên cố và lợi hại, vừa là một căn cứ bộ binh,
lại vừa là một căn cứ thủy quân quan trọng. Điều này rất phù hợp với
những gì chúng ta đoán về An Dương Vương.
Năm
1959, các nhà khảo cổ miền Bắc đã tìm được bên trong khu vực vòng thành
Cổ Loa một kho tên đồng có chứa đến hàng vạn mũi tên đủ loại. Kho tên
này đã làm ta nhớ đến một huyền thoại nữa có liên quan đến An Dương
Vương và sự diệt vong của nước Âu Lạc, đó là huyền thoại về cây nỏ thần.
Chiếc Vuốt Rùa và Cây Nỏ Thần của An Dương Vương
Nỏ
không phải là vũ khí thông dụng của người Hán, trái lại nó lại là một
vũ khí rất thông dụng của các dân tộc Đông Nam Á. Ngay từ "nỗ" mà người
Hoa dùng để gọi cây nỏ cũng là mượn từ các thứ tiếng Đông Nam Á mà ra.
Nghề bắn nỏ của ta đã có từ lâu đời. Trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của
Phan Huy Chú có nhắc đến phép thi bắn nỏ của các triều đại Đại Việt về
sau này, cũng như là sự phân biệt giữa lối bắn cung của bộ binh với bắn
nỏ của thủy binh. Nhưng có lẽ đáng chú ý nhất là bài biểu của Mã Viện
tâu với vua Hán xin đi dẹp cuộc nổi loạn của nông dân ở Tứ Xuyên. Trong
bài biểu này, được chép lại trong Thủy Kinh Chú, Mã Viện viết :
"Tôi
xin đem theo hơn một vạn người Lạc Việt, có ba nghìn người tập quen
chiến đấu, cung có tên độc, bắn một lần mấy phát tên bắn như mưa, trúng
ai nấy chết".
Tam Quốc Chí
có nhắc đến chuyện Gia Cát Lượng phát minh ra "nỏ liên châu" có thể bắn
ra một lần mười phát tên. Phải chăng Khổng Minh đã học được cách chế
tạo nỏ này trong lúc đi đánh Mạnh Hoạch ở phương Nam ? Có thể việc phát
minh ra vũ khí này được khởi thủy từ thời An Dương Vương và vì vậy người
ta mới cho nó một gốc tích thần thoại như vậy. Lĩnh Nam Chích Quái viết rằng :
"Rùa
vàng ở lại ba năm rồi từ biệt ra về. Vua cảm tạ nói "Nhờ ơn của thần
thánh đã xây được thành. Nay nếu có giặc ngoài đến thời lấy gì mà chống
?" Rùa vàng đáp "Vận nuớc suy thịnh, xã tắc an nguy là do mệnh trời,
nhưng con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Nhà vua ước muốn ta
có tiếc chi" Rồi tháo vuốt đưa cho nhà vua mà nói "Đem vật này mà làm
lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa". Dứt lời trở về
biển đông".
Việc
xây thành Cổ Loa, cũng như việc tồn trữ những kho vũ khí trong thành
cho thấy việc xây dựng nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương dựa trên việc
vùng vũ lực hoặc là đe dọa dùng vũ lực đối với các thành phần khác của
dân Lạc. Và vì vậy, khi lực lượng quân sự của An Dương Vương không còn
đủ mạnh để chiến thắng một lực lượng khác, những Lạc tướng của Âu Lạc đã
sẵn sàng đi theo kẻ chiến thắng.
Các
khai quật khảo cổ cho thấy không có một sự đứt quãng nào trong văn minh
Ðông Sơn cho đến tận cuối thời Tây Hán. Ðiều đó chứng tỏ rằng cuộc
chiến giữa vua Hùng và An Dương Vương không liên quan gì đến đại số dân
chúng bao nhiêu. Nói chung xã hội dân Lạc hay Việt cổ vẫn tiếp tục cuộc
sống của họ như dưới thời Hùng Vương. Có khác chăng là ở trên tầng lớp
cao nhất có một sự thay đổi. An Dương Vương chắc hẳn sau khi lên ngôi
vẫn tiếp tục lối cai trị của Hùng Vương với các Lạc tướng tiếp tục cai
trị khu vực của họ. Nhưng vào cuối cuộc đời của ông, một thay đổi lớn đã
đến đó là cuộc xâm lược của Triệu Ðà.
Chương 4 : Thời Kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất : Từ Triệu Đà cho đến cuộc chinh phục của Mã Viện
4.1. Triệu Ðà khởi nghiệp
Theo Sử Ký và Hán thư,
Triệu Ðà vốn người Chân Ðịnh (vùng Hà Bắc Trung Quốc hiện nay). Năm 214
trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng phái 50 vạn quân chinh phục vùng Bách
Việt ở Lĩnh Nam, diệt các nước Nam Việt, Mân Việt, Ðông Âu và Tây Âu
(thuộc vùng Quảng Ðông, Quảng Tây và miền nam tỉnh Quý Châu hiện nay)
lập ra ba quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng, Triệu Ðà được cử giữ chức
huyện lệnh huyện Long Xuyên thuộc quận Nam Hải.
Khi
Tần Thủy Hoàng băng vào năm 209 trước Công nguyên, bọn Trần Thắng, Ngô
Quảng tụ tập nông dân nổi lên chống nhà Tần. Lúc đó dân chúng oán ghét
chính sự nhà Tần "trăm họ sinh lòng oán giận, trong mười nhà muốn nổi
loạn có đến bẩy nhà" (Sử Ký - Tần Thủy Hoàng bản kỷ) vì vậy mọi người hùa theo. Trung Quốc đại loạn.
Lúc
bấy giờ Nhâm Ngao làm chức đô úy quận Nam Hải. Thấy Trung Quốc đại loạn
cũng muốn tự lập một nơi, nhưng nhìn quanh không thấy ai có thể giúp
mình được. Ðến khi Nhâm Ngao đau nặng gần chết mới cho gọi Triệu Ðà đến
Phiên Ngung (Quảng Châu hiện nay) khuyên Ðà nên nhân lúc Trung Quốc rối
loạn hãy tổ chức cát cứ ở phương Nam. Ngao khuyên Ðà rằng :
"Phiên
Ngung dựa vào núi là nơi hiểm trở. Nam Hải từ đông sang tây rộng có đến
mấy nghìn dậm, lại có người đất Bắc (Trung Quốc) giúp đỡ, có thể lập
thành một nước được".
Rồi
Nhâm Ngao viết giấy ủy cho Triệu Ðà làm đô úy Nam Hải. Sau khi Ngao
chết, Ðà lên thay, truyền hịch cho bọn quan lại dưới quyền coi các cửa
quan vùng Ngũ Lĩnh dặn dò phòng bị. Ðà lại dùng cớ giết những quan lại
do nhà Tần lập mà không theo mình và bổ những người ủng hộ mình lên
thay. Năm 207 trước Công nguyên, nhà Tần bị diệt, Ðà đem quân đánh chiếm
cả hai quận Quế Lâm và Tượng lập ra nước gọi là Nam Việt và xưng là Nam
Việt Vũ Vương. Mặc dầu dựa vào những người phương Bắc di cư đến vùng
Lĩnh Nam để dựng nghiệp, nhưng Triệu Ðà đã khéo sử dụng và mua chuộc
tầng lớp quý tộc, tù trưởng bộ lạc Bách Việt để củng cố chính quyền của
mình.
Năm
206 trước Công nguyên, Lưu Bang đánh thắng Hạng Vũ, thống nhất Trung
Quốc lập ra nhà Hán. Năm 196 trước Công nguyên, Hán Cao Tổ sai Lục Giả
xuống phong cho Ðà làm Nam Việt Vương. Mặc dầu thần phục nhà Hán, nhưng
Ðà vẫn giữ được nguyên quyền lực của mình tại địa phương. Cao Tổ mất,
Cao Hậu nhiếp chính (187-180 trước Công nguyên) nghe lời tấu của các
quan ra lệnh cấm bán các đồ điền khí cho Nam Việt. Triệu Ðà cho rằng
Trường Sa Vương đã dèm pha điều ấy với Cao Hậu nên tự tôn làm Nam Việt
Vũ Đế rồi đem quân đánh Trường Sa. Hán cho quân sang đánh Nam Việt,
nhưng đạo quân viễn chinh này bị dịch lớn không ra khỏi được biên giới.
Khi Cao Hậu mất, Văn Đế tức vị, ra lệnh bãi binh. Ðược yên tại mặt bắc
rồi, nhân thế, Triệu Ðà đã tìm cách khuếch trương thế lực ra các nước
lân bang. Chính trong thời gian này, nước Âu Lạc đã bị Triệu Ðà xâm
lược.
Cuộc chiến giữa Âu Lạc và Triệu Ðà
Lúc
Triệu Ðà củng cố quyền lực của mình tại vùng Nam Hoa và thành lập nước
Nam Việt có lẽ cũng chính là lúc mà An Dương Vương dựng lên nước Âu Lạc
tại nước ta. Sử Ký của Tư Mã Thiên chỉ viết một cách ngắn ngủi rằng :
"Cao hậu mất, tức bãi binh. Nhân thế Ðà lấy binh lực uy hiếp, lấy của cải đút lót khiến Mân Việt và tây Âu Lạc thần phục".
Ðiều
này cho thấy nước Âu Lạc bị diệt vong vào khoảng năm 180 trước Công
nguyên khi Cao Hậu chết. Nhưng trước đó, giữa Triệu Ðà và An Dương Vương
có chiến tranh không và chiến tranh như thế nào thì Sử Ký không hề nhắc
đến. Truyền thuyết mà các sử gia Việt Nam sử dụng để kể lại về thời này
đều dựa theo truyện "Thần Kim Quy" đã được ghi ở trên. Sau khi An Dương
Vương nhận được móng rùa :
"Vua
sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy, gọi là nỏ "Linh Quang Kim Quy
thần cơ". Sau Việt Vương là Ðà cử binh xâm lược, Vua đem quân giao
chiến, lấy nỏ thần ra bắn. Quân Ðà thua to, chạy về Trâu Sơn đắp lũy đối
chiến không dám ra đánh bèn xin hòa. Vua vui lòng nghe theo, để phía
Bắc sông Tiểu Giang thuộc Ðà cai trị, phía nam thì vua cai trị.
Không
bao lâu Ðà cầu hôn, Vua gả con gái là Mỵ Châu cho con trai Ðà là Trọng
Thủy. Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm làm một cái
lẫy nỏ khác thay cho vuốt rùa. Sau đó nói dối xin trở về phương Bắc thăm
cha".
Theo
Lĩnh Nam Chích quái, sau khi được lẫy nỏ thần rồi, Ðà lại mang quân
đánh. An Dương Vương thua ra biển. Nước Âu Lạc từ đó bị diệt. Trọng Thủy
đuổi theo đến biển thấy Mỵ Châu bị giết ở đó bèn cũng tự vẫn chết theo.
Truyền thuyết về nỏ thần và Mỵ Châu - Trọng Thủy cũng được ghi lại trong thư tịch Trung Quốc. Thủy Kinh Chú dẫn Giao Châu Ngoại Vực ký viết rằng :
"Nam
Việt vương là Triệu Ðà đem quân đánh An Dương Vương. An Dương Vương có
người thần là Cao Thông xuống giúp, làm cho vương một cây nỏ thần, bắn
một phát chết ba trăm người. Nam Việt Vương biết là không thể đánh được
bèn lui quân về đóng ở huyện Vũ Ninh. Sau Việt Vương sai thái tử là Thủy
hàng phục An Dương Vương. An Dương Vương không biết Cao Thông là thần,
đối đãi vô đạo. Thông liền bỏ đi, nói với vua rằng "giữ được nỏ ấy thì
làm vua cả thiên hạ. Không giữ được nỏ ấy thì mất cả thiên hạ". An Dương
Vưong có con gái là Mỵ Châu. Thấy Thủy đẹp trai, Châu bèn cùng với Thủy
tư thông. Thủy bảo Châu lấy nỏ của cha cho xem rồi ngầm cưa trộm cho
gẫy. Xong trốn về nói với Việt Vương. Việt
Vương mang quân tiến đánh. An Dương Vương đem nỏ ra bắn thì nỏ gẫy. An
Dương Vương thua chạy xuống thuyền ra biển. Việt Vương hàng phục được
các Lạc tướng".
Tương tự như vậy, Việt Kiệu Thư cũng chép :
"Vua
man có con gái là Lan Châu, đẹp và giỏi nghề làm nỏ. Triệu Ðà sai con
sang làm rể, không đầy ba năm học được cách chế nỏ và phá nỏ. Bèn sai
quân đi đánh bắt được vua man đem về".
Sử Ký và Hán Thư
không chép đến tên thái tử Triệu Trọng Thủy, nhưng đều chép rằng khi
Triệu Ðà chết, cháu nội là Hồ lên thay. Ðiều đó khiến ta có thể nghĩ
rằng truyền thuyết nói Trọng Thủy chết ở Âu Lạc có lẽ cũng đúng.
Căn
cứ vào những thư tịch ta có thể thấy rằng Triệu Ðà đã đem quân xâm lược
Âu Lạc nhiều lần. Tuy nhiên vì quân của An Dương Vương rất giỏi nghề
bắn nỏ nên quân của Triệu Ðà bị thua. Việt Kiệu Thư chép "người
man ở Nam Việt thời Tần rất mạnh, về phép dùng nỏ lại càng hay lắm, mỗi
phát tên bằng đồng có thể xuyên qua hơn chục người. Triệu Ðà rất sợ".
Tài bắn nỏ này vì vậy có thể được thần thoại hóa ra thành nỏ thần. Ðể có
thể chinh phục được An Dương Vương vì vậy Triệu Ðà phải gởi Trọng Thủy
sang làm con tin để dò xét hư thực. Thần thoại "An Dương Vương" : An Dương Vương không biết Cao Thông là thần, đối đãi vô đạo. Thông liền bỏ đi", có thể là tượng trưng cho việc An Dương Vương mất sự ủng hộ của dân chúng. Ngoài ra Sử Ký viết "Ðà lấy binh lực uy hiếp, lấy của cải đút lót khiến Mân Việt và Tây Âu Lạc thần phục", cho thấy rằng Triệu Ðà đã dùng của cải mua chuộc các Lạc tướng để bỏ An Dương Vương theo Ðà.
Dù
sao chăng nữa, các tư liệu còn lại không nhắc nhở gì đến những kháng cự
của dân Âu Lạc với chính quyền mới của Triệu Ðà. Ðiều này cho thấy rằng
dân Lạc đã chấp nhận sự cai trị của nhà Triệu một cách khá nhanh chóng.
Chế độ cai trị của nhà Triệu và xã hội Âu Lạc
Mặc
dầu đã đánh bại được An Dương Vương và chiếm được nước Âu Lạc, nhưng
Triệu Ðà có lẽ đã không đưa ra những thay đổi gì nhiều trong cơ cấu cai
trị cũng như xã hội dân Việt cổ. Nhà Triệu chia Âu Lạc thành hai quận
Giao Chỉ và Cửu Chân và cử hai quan sứ coi. Công việc của hai viên sứ
này có lẽ chỉ tập trung vào việc bảo đảm cho con đường thương mại quốc
tế với các nước ở phía nam và tây cũng như là trung tâm thương mại nơi
họ ở. Các nghiên cứu lịch sử thương mại quốc tế đã chứng minh được rằng
trong những từ thế kỷ thứ hai và thứ ba trước Công nguyên đã hình thành
một con đường thương mại hàng hải quốc tế nối suốt từ thế giới La Mã bên
Âu châu tới đế quốc Hán tại phương đông. Con đường này đi từ Ðịa Trung
Hải qua Ai Cập, vòng qua bán đảo Arab đến Ấn Ðộ rồi lại từ Ấn Ðộ đi qua
quần đảo Indonesia tới Phù Nam (tức miền nam Việt Nam hiện nay) sang
Trung Quốc. Nước Văn Lang và Âu Lạc là một chặng đường quan trọng của
con đường hàng hải này.
Ngoài
việc cử hai viên sứ đó ra, cơ cấu cai trị của Âu Lạc dưới nhà Triệu hầu
như không đổi so với thời An Dương Vương và Hùng Vương. Các Lạc tướng
vẫn cai trị dân như cũ. Ngay cả con cháu của An Dương Vương chắc cũng
được Triệu Ðà để lại tiếp tục làm vua như cũ vì sau này Hán thư có nhắc
đến một Tây Vu Vương tính nổi lên chống lại quân Hán và bị bộ hạ của
mình mà Hán Thư gọi là "một tả tướng quân của cổ Âu Lạc" giết.
Nhà Triệu diệt vong
Trung
Quốc đến thời Hán Vũ Đế (140-87 trước Công nguyên) đã trở thành một đế
quốc rộng lớn và hùng mạnh. Hán Vũ Đế đã tích cực tìm cách mở rộng bờ
cõi. Phía Bắc, quân Hán đã tiến công Hung Nô chiếm được một vùng đất
rộng lớn gồm đất Lũng Tây, Bắc Ðịa, Hà Tây (tức là vùng tây bắc Thiểm
Tây và Cam Túc hiện nay) mở đường thông thương với các nước miền Tây
vực. Sứ thần nhà Hán đã đến tận An Tức (Iran hiện nay) và Thận Ðộc (Ấn
Ðộ hiện nay). Về phía đông, năm 108 trước Công nguyên quân Hán đã tiến
công diệt nước Triều Tiên của họ Vệ và mở quan hệ với Nhật Bản. Thành ra
việc Nam Việt nằm chặn con đường thương mại hàng hải quốc tế là một cản
trở mà Hán sớm muộn cũng phải tìm cách thanh toán.
Về
phần Nam Việt, sau khi Triệu Ðà chết vào năm 137 trước Công nguyên,
cháu là Triệu Hồ lên thay. Hồ hèn nhát yếu đuối bị Hán dụ cho con là Anh
Tề sang làm con tin ở triều Hán. Anh Tề ở Trường An lấy một người vợ
Hán là Cù thị. Hồ chết. Anh Tề về thay, lập Cù thị làm hoàng hậu và con
Cù thị là Hưng làm thái tử. Anh Tề tuy tỏ lòng thần phục Hán nhưng vẫn
muốn duy trì chính quyền độc lập của mình. Tuy nhiên khi Anh Tề chết,
Triệu Hưng lên thay ; Hán sai tình nhân cũ của Cù thị là An Quốc Thiếu
Quý sang dụ Cù thị và Triệu Hưng xin nội thuộc nhà Hán. Tể tướng nhà
Triệu là Lữ Gia hết sức chống đối. Hán Vũ đế bèn sai Hàn Thiên Thu mang
hai ngàn dũng sĩ sang Nam Việt nhằm giết Lữ Gia. Lữ Gia cùng em đem binh
giết Cù thị và Triệu Hưng cùng sứ giả Hán, lập con trưởng của Anh Tề là
Thuật Dương Hầu Kiến Ðức vốn là con người vợ Việt lên làm vua rồi đem
quân đánh tan quân Hàn Thiên Thu.
Nhân
cớ đó, Hán Đế phái 10 vạn quân gồm các tội nhân và quân lâu thuyền cùng
một số người Việt đầu hàng dưới quyền chỉ huy của Phục Ba Tướng Quân Lộ
Bác Ðức chia làm năm đạo sang đánh Nam Việt. Mùa đông năm 111 trước
Công nguyên, quân Hán vào Nam Việt, phá đạo quân tiền phương của Nam
Việt rồi tiến đánh Phiên Ngung. Lữ Gia và Kiến Ðức bỏ thành chạy ra biển
nhưng sau đó bị chính các quan lại của mình bắt đem nộp cho Lộ Bác Ðức.
Nước Nam Việt đến đó là diệt vong. Trong cuộc chiến giữa nước Nam Việt
và nhà Hán, đất Âu Lạc hoàn toàn không tham dự. Chiến trận chỉ xảy ra
trong vùng Quảng Đông và Quảng Tây Trung Quốc, và quân Lộ Bác Đức cũng
không có tiến cả vào vùng đất của Âu Lạc nữa. Sử Ký của Tư Mã Thiên chép rằng khi nghe tin quân Hán đến, quan giám Quế Lâm của Nam Việt đã dụ Âu Lạc đầu hàng. Còn Giao Châu Ngoại Vực ký chép :
"Lộ
tướng quân (tức Lộ Bác Đức) đến Hợp Phố, hai sứ giả của Việt Vương đem
một trăm con bò, một ngàn hũ rượu cùng sổ hộ khẩu của dân hai quận Giao
Chỉ và Cửu Chân đến nộp. Bèn cho hai sứ giả đó làm thái thú Giao Chỉ và
Cửu Chân, các lạc tướng cai quản dân như cũ".
Vài nhận xét về nhà Triệu và Triệu Đà
Các sử gia của ta ngày xưa không cho nhà Triệu là một nhà ngoại tộc. Cuốn sử đầu tiên của nước ta, Đại Việt Sử Ký
của Lê Văn Hưu đời Trần đã mở đầu với nhà Triệu. Khi Nguyễn Trãi viết
Bình Ngô Đại Cáo ông đã mở đầu "Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tọa
ngã quốc, dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương" (Từ Triệu,
Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập, cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên làm đế
một phương). Những điều đó đủ cho ta thấy rằng tổ tiên ta coi nhà Triệu
cũng là một triều đại của dân tộc Việt không khác gì các triều đại độc
lập như Đinh, Lê, Lý, Trần về sau này. Tại sao tổ tiên ta lại phân biệt
giữa nhà Triệu và những triều đại Hán cai trị nước ta về sau này ? Không
phải rằng các cụ ta không biết Triệu Đà là người Hán, chính sử của ta
đã viết rất rõ về lai lịch Triệu Đà cũng như là về nhà Triệu.
Có
lẽ các nhà viết sử cũ của ta đã không đặt nặng việc Triệu Đà là người
Hán, mà trái lại coi Triệu Đà là người đã đứng lên đại diện cho phương
Nam chống lại sự bành truớng của Hán tộc. Vả lại để có thể tự lập chống
lại với đế quốc Hán, Triệu Đà đã phải dựa vào sự ủng hộ của những người
Việt. Và trong các điều kiện đó, chính Triệu Đà cũng đã bị Việt hóa.
Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên, khi Triệu Đà tiếp sứ Hán là Lục Giả,
ông đã ngồi xổm theo kiểu của những người Việt. Vì vậy nhà Triệu, tuy
rằng là một triều đại lập ra bởi một người phương Bắc, nhưng vẫn được
người Nam coi như là một triều đại của mình.
Điều
đáng chú ý là Triệu Đà cũng được người Trung Quốc tôn sùng. Đối với họ
ngược lại Triệu Đà là người Hán đầu tiên mở đường cho Hán tộc tiến xuống
vùng Lĩnh Nam. Tuy nhiên cần phải nói rằng việc tôn sùng Triệu Đà tại
Trung Quốc chỉ bắt đầu vào đời Đường khi các vùng Quảng Đông, Quảng Tây
và Quý châu đã bị ràng buộc chặt chẽ vào quỹ đạo của người Hán.
4.2. Chính sách cai trị dưới thời Lưỡng Hán
Sau
khi diệt nhà Triệu, Hán đổi đất Nam Việt thành Giao Châu, đặt một viên
quan thứ sử cai trị. Trị sở của châu được đặt tại Mê Linh. Mê Linh cũng
là trị sở của quận Giao chỉ và của toán binh Hán đóng đồn tại đây dưới
quyền của một viên đô úy. Dưới châu là quận có một viên thái thú cai
trị. Theo pháp chế của nhà Hán, thứ sử không can thiệp trực tiếp vào
việc cai trị của các quận. Đó là công việc của các thái thú. Hàng năm
thứ sử đi tuần các quận để thanh tra việc trị dân của các thái thú ra
sao. Giao Châu được chia làm 9 quận. Ba quận trong đó, Giao Chỉ và Cửu
Chân và Nhật Nam nằm trong cương vực nước ta hiện nay. Dưới các quận là
huyện. Tại Âu Lạc cũ, pháp chế nhà Hán vẫn để các Lạc tướng quyền cai
trị như cũ tức là vẫn được hưởng các quyền lợi trước kể cả quyền thế
tập. Những bộ xưa của nước Văn Lang như vậy nay đã biến thành các huyện
của Hán và các Lạc tướng trở thành "huyện lệnh" được lĩnh "ấn đồng, tua
xanh" (Giao Châu Ngoại Vực Ký). Theo Sử Ký và Hán Thư
thì chính sách của Tây Hán đối với những vùng đất mới chính phục là
"lấy tục của nó mà cai trị". Chế độ cai trị của nhà Hán như vậy không
khác gì của nhà Triệu. Các Lạc hầu, Lạc tướng nay trở thành những quan
lại của triều Hán được cấp ấn phong nhưng không bị ràng buộc gì nhiều.
Nói
chung chính sách cai trị của nhà Tây Hán đối với dân Lạc tương đối nhẹ
nhàng. Dân Lạc không phải chịu các thứ thuế như tại nơi chính quốc.
Lương ăn, tiền bạc, vật dụng đều được chở từ các quận cũ ở gần tới (Hán thư - Hóa Thực Chí).
Triều đình Hán đòi hỏi chính là những đồ cống nạp phần nhiều là những
thổ sản và những đố quý hiếm tại Trung Quốc như sừng tê, ngà voi, đồi
mồi ; những loại trái cây như quít, vải, nhãn, chuối, vân vân (Hán Vũ Đế
đặt chức Quất quan - quan coi quít - để lo việc kiếm quít dâng lên
triều đình Hán tại Trường An và chức Tu Quan để lo việc tổ chức dân cống
trái cây và thức ăn tại Giao Chỉ. Nhiệm sở các quan này ở Liên Lâu (nay
là huyện Thuận Thành, Bắc Ninh gần Hà Nội). Số đồ cống nạp tương đối
không nhiều. Hán Nghi Thức của Linh Phú viết rằng :
"Cửu
Chân, Giao Chỉ, Nhật Nam dùng hai sừng tê dài 9 tấc và một mai đồi mồi.
Uất Lâm dùng một ngà voi dài 3 thước trở lên và 20 bộ lông chim trĩ để
thay vàng".
Có
lẽ chính vì vậy mà những cuộc nổi dậy của dân Lạc trong những năm đầu
của triều Tây Hán hầu như không thấy được nhắc đến trong những bộ sử
thời đó. Cuộc nổi dậy độc nhất được ghi chép là cuộc nổi dậy của Tây Vu
Vương (tức là hậu duệ của An Dương Vương được Triệu Đà tiếp tục cho giữ
tước sau khi diệt nước Âu lạc) vào năm 106 trước Công nguyên, năm năm
sau khi nước Nam Việt bị Hán diệt. Nhưng ngay cả cuộc nổi dậy này cũng
không có tầm mức quan trọng gì cho lắm vì Tây Vu Vương đã bị ngay chính
bộ hạ của mình giết. Hán Thư chép lại là Tây Vu Vương nổi lên nhưng đã
bị viên Tả Tướng Quân cũ của Âu Lạc là Hoàng Đồng chém chết. Trong hơn
một trăm năm dầu dưới sự cai trị của nhà Tây Hán, mặc dầu nằm trong đế
quốc Hán, nhưng đối với người dân thường của xã hội dân Lạc không có một
biến động lớn gì xảy ra. Người ta vẫn tiếp tục sống như dưới thời Hùng
Vương và An Dương Vương. Nhưng đến những năm đầu tiên của thiên niên kỷ
mới, với sự sụp đổ của chính quyền trung ương Hán tại Trường An, lịch sử
của xã hội dân Lạc bước vào một bước ngoặt lớn mở đường cho một giai
đoạn mới, giai đoạn người Lạc biến thành Việt.
Sự suy tàn của nhà Tây Hán và ảnh hưởng của nó với đất Giao Chỉ
Vào
vào cuối triều Tây Hán, Trung Quốc đại loạn ; các tầng lớp quý tộc, đại
thương nhân cướp ruộng đất của dân trong khi sưu cao thuế nặng đã đẩy
càng ngày càng nhiều nông dân vào đường cùng nổi lên làm loạn. Năm 1
trước Công nguyên, Bình Đế lên làm vua mới có 9 tuổi, thái hậu lâm
triều, trao quyền chính lại cho Vương Mãng. Bốn năm sau, Mãng giết Bình
Đế và đến năm 8 sau Công nguyên Vương Mãng tự xưng hoàng đế đặt quốc
hiệu là Tân. Việc tiếm hiệu của Vương Mãng đã tạo điều kiện cho dân
chúng và các chính quyền cát cứ ở các nơi đồng loạt nổi lên. Chính quyền
Vương Mãng tan rã. Năm 23, Lưu Tú, một dòng dõi vua Hán đã phá được
những thế lực cát cứ khác, lên ngôi tại Lạc Dương lập lại nhà Lưu Hán,
sử gọi là Đông Hán hay Hậu Hán. Khi Vương Mãng tiếm hiệu, châu mục quận
Giao Chỉ là Ðặng Nhượng, thái thú quận Giao Chỉ là Tích Quang cùng các
thái thú khác dưới quyền Ðặng Nhượng không chịu thần phục mà tách ra cát
cứ một phương. Ðến năm 29 (năm thứ 5 hiệu Kiến Vũ đời Quang Vũ Đế) khi
Lưu Tú đã lên ngôi ở Lạc Dương rồi, chức Chinh Nam đại tướng quân của
Ðông Hán là Sầm Bành vốn xưa là bạn thân của Ðặng Nhượng mới viết thư và
cử người xuống gặp Ðặng Nhượng thuyết hàng. Nhượng bèn mang bọn thái
thú dưới quyền về hàng Quang Vũ. Thế là đất Giao Chỉ lại thuộc về nhà
Hán.
Trong
thời gian Trung Quốc rối loạn trên, nhiều người Hán chạy loạn xuống đất
Giao Chỉ sinh cơ lập nghiệp. Những thành phần này phần lớn là giới quý
tộc, sỹ đại phu và địa chủ. Sang Giao Chỉ họ liên lạc và kết hợp với đám
quan lại người Hán có sẵn tại địa phương. Được sự trợ giúp của những
thành phần mới này, các quan lại người Hán bắt đầu can thiệp nhiều hơn
vào xã hội địa phương, mở đầu cho việc Hán hóa. Những cố gắng mới của
các quan lại này lại được củng cố thêm bởi chính sách của nhà Đông Hán
với các vùng này.
Chính sách cai trị của nhà Đông Hán
Nhà
Đông Hán bỏ chính sách "ky my" (ràng buộc) của nhà Tây Hán đối với đất
Giao mà áp dụng một pháp chế hà khắc giống như tại Trung Nguyên. Guồng
máy hành chánh cai trị của nhà Ðông Hán tại các châu quận khá nặng nề.
Ðứng
đầu châu Giao Chỉ là một viên thứ sử. Giúp việc cho thứ sử là các viên
tòng sự. Châu Giao có tất cả bảy viên tòng sự, công tào coi việc tuyển
bổ quan lại ; binh tào cai việc quân ; bạc tào coi việc sổ sách tiến
nong, thuế má... Dưới chức tòng sự là các chức giả tá coi việc văn thư
thời tiết, pháp luật.
Dưới
châu là quận. Châu Giao chỉ có bảy quận, trong đó ba quận, Giao Chỉ,
Cửu Chân và Nhật Nam là ba quận thuộc địa phận Việt Nam hiện nay. Ðứng
đầu mỗi quận là một viên thái thú, có một quận thừa giúp việc về hành
chánh và một viên đô úy coi việc quân. Các quận ở ngoài biên thì đặt
chức trưởng sử. Giúp cho thái thú cai trị quận có các tào mỗi tào có một
viên duyện làm việc và chức thư tá coi việc giấy tờ. Tất cả guồng máy
hành chánh này đều ăn lương từ thuế thu được của châu và quận chứ không
nhận được bổng lộc gì của trung ương.
Thuế
má được đánh như tại Trung Quốc, ngoài ra tại mỗi quận tùy theo lớn
nhỏ, còn đặt ra những chức diêm quan (coi về muối), thiết quan (coi về
sắt), công quan (quan lại coi về thuế các sản phẩm thủ công), thủy quan
(coi thuế đầm ao, đánh cá). Chính sách Hán hóa được coi trọng, mỗi quận
có trên hai mươi vạn dân được cử một người "hiếu liêm" để đưa vào triều
làm quan.
Dưới
quận là huyện có chức huyện lệnh. Những huyện lệnh này đầu tiên cũng
theo như lệ thời Tây Hán do các Lạc tướng cai trị. Vì vậy những huyện
này có thể tương đương với những bộ của thời Hùng Vương hoặc An Dương
Vương. Với hệ thống hành chánh này, chính quyền Ðông Hán đã đe dọa trực
tiếp đến quyền lợi của các Lạc tướng cũng như là đặt một gánh nặng thuế
khóa lên đầu nhân dân Lạc vốn chưa từng chịu những ràng buộc như vậy.
Nếu thêm vào đó tình trạng tham nhũng bóc lột của các thái thú người Hán
được cử sang cai trị thì một cuộc nổi dậy dĩ nhiên là không thể tránh
được và đó là điều đã diễn ra với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Chính sách Hán hóa và cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng
Sử
Trung Quốc cũng như sử ta đều ca tụng Tích Quang và Nhâm Diên như là
những người có công "khai hóa" cho dân tộc ta. Nhưng có một điều mâu
thuẫn đáng chú ý trong việc này là tại sao với công khai hóa như vậy mà
ngay sau đó tại châu Giao đã có một cuộc khởi nghĩa lớn đến nỗi Hán
Quang Vũ, mặc dầu còn bận rộn các vấn đề tại Trung Nguyên đã phải gởi
một tên tướng tài lão luyện như Mã Viện sang đàn áp ?
Tích
Quang làm thái thú Giao Chỉ từ thời Bình Đế nhà Tây Hán, sau về hàng
Đông Hán tiếp tục làm thái thú Giao Chỉ cho đến khi được Tô Định sang
thay thế. Hậu Hán thư ca tụng Tích Quang là :
"Xưa
ở thời Bình đế, người Hán Trung là Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ dậy
dỗ dân Di dần dần hóa theo lễ nghĩa. Cuối đời Vương Mãng, Tích Quang
đóng cửa biên giới chống cự".
Đành
rằng Tô Định là một kẻ mà theo bài biểu của Mã Viện gởi cho vua Hán
"thấy tiền là sáng mắt lên" nhưng nếu Tích Quang đã có công như Hậu Hán
thư viết "dậy dỗ dân Di khiến họ dần dần đi theo lễ nghĩa" thì chẳng lẽ
một khi Bà Trưng nổi lên không có ai nhớ công đức của Tích Quang mà theo
Hán chống lại sao. Còn Nhâm Diên làm thái thú quận Cửu Chân đúng vào
thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Hậu Hán thư chép :
"Diên
đến Cửu Chân dậy dân cầy cấy, khai khẩn ruộng nương, khiến bách tính no
đủ. Lại dân Lạc Việt không biết phép giá thú, đều theo dâm hiếu, không
thành lứa đôi, không biết đạo cha con, không biết đạo vợ chồng. Diên bèn
đưa thư xuống các huyện khiến đàn ông từ 20 tuổi cho đến 50 tuổi ; đàn
bà từ 15 đến 40 tuổi phải theo tuổi tác mà lấy nhau. Ai nghèo không có
tiền làm đồ sính lễ thì khiến từ trưởng lại trở xuống phải bớt bổng lộc
ra để chẩn cấp. Người ta cưới nhau cùng một lúc đến hơn hai nghìn người.
Năm đó mưa thuận gió hòa, mùa màng phong đăng, người sinh con mới biết
giống nòi, mới biết tộc họ. Đều nói rằng "khiến ta có được như thế này
là nhờ ngài Nhâm vậy". Nhiều người đặt tên con là Nhâm. Vì thế bọn Man
Di, Dạ Lang ở ngoài cõi mộ nghĩa giữ nơi biên ải. Diên bèn bãi bỏ quân
lính trinh sát đi".
Nhưng
khi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng nổ ra, quận Cửu Chân của Nhâm Diên
cũng bị kéo theo vào cuộc nổi dậy và cũng như các thái thú khác, Diên
cũng chỉ "thoát được thân mình mà thôi" (Hậu Hán Thư)
Trên
thực tế chính những cố gắng "khai hóa" của những người như Tích Quang
và Nhâm Diên cùng với chính sách cai trị của nhà Đông Hán là những
nguyên nhân sâu xa dẫn đến cuộc nổi dậy của toàn vùng Lĩnh Nam dưới sự
lãnh đạo của Hai Bà Trưng. Sự tham tàn của Tô Định cũng như là cái chết,
nếu có, của Thi Sách chỉ là một yếu tố phụ, một giọt nước cuối cùng đã
làm tràn cái ly đã chứa đầy những căm phẫn trước đó. Nếu không có những
lý do trên ta sẽ không thể hiểu được tại sao những quận xa xôi như
Thương Ngô ở tận phía Bắc tỉnh Quảng Tây cũng như Nhật Nam lại có thể
cùng Hai Bà Trưng nổi dậy như vậy.
4.3. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng
Xã hội Giao chỉ vào lúc Hai Bà Trưng khởi nghĩa
Bà Trưng quê ở châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn Tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã tới gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.
Đó là những lời miêu tả cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca
mà hầu hết chúng ta đã từng học qua khi còn nhỏ. Nhưng nếu chỉ có vì
trả thù chồng mà hai bà nổi lên khởi nghĩa thì làm sao có thể kéo theo
sự ủng hộ của toàn bộ quần chúng châu Giao bao gồm cả bảy quận để thành
lập một triều đình riêng ở đất Lĩnh Nam ?
Xã
hội Giao Chỉ vào thời Hai Bà Trưng là một xã hội tương đối trù phú.
Nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển đã đủ để nuôi sống một số dân
lên đến xấp xỉ một triệu người, đông nhất trong bảy quận của Giao Châu
và còn đủ để xuất cảng gạo sang bán tại Cửu Chân và Hợp Phố nữa. Những
đồ điền khí bằng sắt dần dần thay thế những món đồ làm bằng đồng thau đã
giúp người nông dân khai phá được những vùng đất khó làm hơn ở vùng
châu thổ sông Hồng, nơi mà nước biển đã bắt đầu rút ra khỏi chốn mà cổ
địa chất học còn gọi là vịnh Hà Nội. Trong lúc Trung Quốc còn đang rối
loạn, thì Giao Chỉ là một cõi yên bình. Thứ sử Đặng Nhượng đã giữ được
châu Giao là nơi yên tĩnh nhất trong toàn bộ đế quốc Hán rộng lớn. Nhưng
nhiều đám mây đen đã bay đến làm u ám bầu trời yên bình đó. Tuy các Lạc
tướng vẫn còn giữ quyền cai trị những vùng đất của mình và vẫn được lưu
truyền chức vụ đó cho các con của họ, nhưng người Hán đã càng ngày càng
can thiệp sâu vào việc cai trị. Tình hình yên tĩnh ở Giao Chỉ đã thu
hút một số ngày càng đông người Hán chạy loạn sang, không những chỉ dân
thường mà cả những hạng sỹ đại phu, quý tộc, địa chủ. Những người này,
qua những quan hệ về tộc thuộc với quan lại người Hán tại Giao Chỉ, chắc
hẳn đã sinh cơ lập nghiệp tại đây. Tuy rằng sau loạn Vương Mãng, khá
đông những người Hán này đã trở về phương Bắc, nhưng số còn lại cũng
không nhỏ. Ví như tiên tổ của Lý Bí (tức Lý Nam Đế) vốn là người Hán,
vào cuối đời Tây Hán, khổ vì loạn lạc, lánh sang ở nước Nam trải bảy đời
thành người Nam (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư), hoặc như tổ tiên của Sỹ Nhiếp vốn người Vấn Dương nước Lỗ "đến khi có loạn Vương Mãng, rời sang ở Giao Châu, trải qua sáu đời đến Nhiếp" (Tam Quốc Chí - Ngô thư, Sỹ Nhiếp truyện).
Việc
lập nghiệp của những tầng lớp quý tộc Hán này chắc hẳn thế nào cũng có
đụng độ với những quyền lợi của tầng lớp quý tộc Lạc, những Lạc tướng.
Các người Hán mới sang có thể chiêu mộ dân chúng đi khẩn hoang ở những
vùng đất mới, hoặc là chiếm hữu đất đai có sẵn của các làng xã dân Lạc,
nhưng chắc hẳn phần lớn tập trung tại những khu vực thị tứ, nơi có sẵn
những quan lại và binh lính người Hán như Mê Linh, Liên Lâu, Tư Phố, Cư
Phong vân vân. Tại những nơi này, sự ràng buộc chèn ép của giới quan lại
Hán đối với giới quý tộc Lạc chắc hẳn rất là gay gắt.
Chính
sách thu thuế của triều đình Đông Hán, cùng với những cố gắng Hán hóa
đối với người Lạc cũng đóng góp thêm vào những bất mãn âm ỷ trên. Khi
Tích Quang còn làm thái thú, có thể y đã khéo léo trung hòa những bất
mãn này giữ cho chúng khỏi nổ bùng lên. Nhưng sau khi Tích Quang được
gọi về Bắc, Hán Quang Vũ gởi Tô Định sang thay làm thái thú Giao Chỉ.
Theo bài biểu của Mã Viện, Tô Định là người mà "thấy tiền thì dương mắt lên ; thấy giặc thì nhắm mắt lại, sợ chinh chiến…" (Hậu Hán Thư - Mã Viện Truyện)
tức là môt kẻ vừa tham lam lại vừa hèn nhát. Đến đây phong trào phản
kháng của dân Việt bèn dâng lên mãnh liệt. Và chẳng bao lâu sau, toàn bộ
nhân dân Giao Chỉ đã nổi dậy, kéo theo sự nổi dậy của toàn thể châu
Giao.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng
Cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của người dân
Lạc chống lại sự cai trị của đế quốc phương bắc. Hai Bà Trưng, chị là
Trưng Trắc, em là Trưng Nhị là con gái Lạc tướng Mê Linh. Lĩnh Nam Chích Quái viết hai bà Trưng họ Hùng, là dòng dõi Hùng vương. Thủy Kinh Chú
của Trung Quốc cũng chép bà Trưng là con gái Lạc tướng Mê Linh. Mê Linh
vốn là bộ tộc của Hùng Vương vì vậy bà Trưng là giòng dõi Hùng Vương
chắc là đúng. Chồng bà Trưng Trắc, Thi Sách, là con Lạc tướng Chu Diên,
cũng là giòng họ quý tộc của dân Lạc. Bà là một người mà sử Trung Quốc
cũng phải công nhận rất "hùng dũng", "có can đảm dũng lược" (Hậu Hán Thư - Giao Chỉ Truyện). Sử cũ của ta dựa vào truyền thuyết nói rằng bà Trưng thù Tô Định giết chồng nên cử binh đánh đuổi Tô Định. Lĩnh Nam Chích Quái kể lại :
"Thời
ấy Tô Định ở Giao Châu rất tham bạo ; nhân dân rất khổ sở. Trắc thù
Định giết chồng, bèn cùng em là Nhị dấy binh đánh Định, vây hãm Giao
Châu. Các quận Nhật Nam, Cửu Chân và Hợp Phố đều hưởng ứng".
Tuy nhiên các sử liệu của Trung Quốc không thấy nhắc nhở gì đến việc Tô Định giết Thi Sách cả. Hậu Hán Thư chỉ chép rằng :
"Thái
thú Tô Định lấy pháp luật ràng buộc. Trắc căm giận cho nên làm phản.
Lúc đó người Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng".
Còn Thủy Kinh Chú thì viết rõ hơn :
"Con
Lạc tướng Chu Diên tên là Thi, lấy con gái Lạc tướng Mê Linh là Trưng
Trắc làm vợ. Trắc là người có can đảm dũng lược, cùng Thi khởi binh đánh
phá các châu quận, hàng được các Lạc tướng ; họ đều suy tôn Trắc lên
làm vua đóng đô ở huyện Mê Linh, được thu thuế hai năm ở hai quận Giao
Chỉ và Cửu Chân. Về sau Hán sai Phục Ba tướng quân Mã Viện đem quân
đánh, Trắc, Thi chạy vào Kim Khê Cứu, ba năm mới bắt được".
Theo
sử cũ, hai bà khởi binh ở Mê Linh. Sau khi phá song đô úy trị, tức là
đồn quân trú đóng của Hán tại đó liền tiến đánh quận trị của Giao Chỉ ở
Liên Lâu (nay là huyện Thuận Thành, Bắc Ninh gần Hà Nội). Châu trị của
Giao Châu cũng ở đó, thành ra khi phá được Liên Lâu thì chính quyền cai
trị châu Giao cũng hoàn toàn tan rã. Cuộc nổi dậy của dân chúng Cửu
Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cũng làm tan rã chính quyền tại các quận đó.
Quan lại Hán kẻ thì bị nghĩa quân giết chết, kẻ thì trốn chạy về Trung
Quốc. Hậu Hán Thư chép "thứ sử Giao chỉ và các thái thú chỉ giữ được thân mình mà thôi".
Hậu Hán Thư
chép hai bà sau đó chiếm được 65 thành. Đời Đông Hán, mỗi thành như vậy
là một huyện. 65 huyện là một con số rất lớn vì cả châu Giao chỉ mới có
56 huyện chia ra như sau : Nam Hải 7, Thương Ngô 11, Uất Lâm 11, Hợp
Phố 5, Giao Chỉ 12, Cửu Chân 5, Nhật Nam 5. Nếu con số 65 thành mà Hậu Hán Thư
nói rằng hai bà chiếm được là đúng thì điều đó có nghĩa là ngoài toàn
bộ vùng Lĩnh Nam ra, nghĩa quân của hai bà còn đánh chiếm được một số
thành ở vùng Sở, Việt của nhà Đông Hán nữa. Có một số người đã khẳng
định là thấy miếu thờ hai bà tại vùng sông Tương thuộc Hồ Nam. Tuy nhiên
điều này khó mà đúng. Những miếu thờ hai vị thần nữ tại vùng này hầu
như chắc chắn là thờ Nga Hoàng, Nữ Anh, hai người vợ của vua Thuấn mà
truyền thuyết Trung Quốc nói là đã chết tại đây sau khi Thuấn đi tuần
thú phuơng nam không về. Tuy nhiên ngay cả trong trường hợp Hậu Hán Thư
chép nhầm 56 thành thành ra 65 thành thì điều đó cũng cho thấy rằng với
cuộc khởi nghĩa của hai bà, toàn bộ châu Giao, từ phía nam Ngũ Lĩnh đã
không nằm trong tay nhà Hán.
Căn
cứ vào những sử liệu còn lại ta có thể thấy gì về cuộc khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng ? Các tài liệu của ta đều nói rằng Thi Sách bị Tô Định
giết, hai bà vì báo thù chồng nên nổi lên khởi nghĩa. Điều đó đã thu hẹp
ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thành một cuộc báo thù cá
nhân. Có lẽ các sử gia sau này của Việt Nam vì mang nặng quan niệm phong
kiến Tống Nho nên đã phải cho Thi Sách chết để giải thích vai trò mờ
nhạt của ông chăng ? Hậu Hán Thư, tài liệu gần với thời đại đó nhất đã không hề nói đến Thi Sách bị giết mà chỉ chép rằng "Thái thú Giao chỉ là Tô Định, lấy pháp luật ràng buộc, Trắc nổi giận nên làm phản". Còn Giao Châu Ngoại Vực ký
thì chép rõ là Trưng Trắc cùng Thi khởi binh. Tuy nhiên có một điều nổi
bật khác là tất cả các sử liệu của ta cũng như của Trung Quốc đều nói
rằng hai bà là người lãnh đạo cuộc nổi dậy và hai bà được các Lạc tướng
cùng tôn sùng lên làm vua.
Nước
ta từ thời kỳ Hùng Vương trở ra đã chuyển sang chế độ phụ hệ tuy rằng
chưa chặt chẽ. Chế độ một chồng một vợ đã được thiết lập : đàn ông đi
hỏi vợ chứ không phải con gái đi hỏi chồng nữa như những chuyện Sơn
Tinh, Thủy Tinh hoặc Mỵ Châu, Trọng Thủy cho thấy. Như vậy tại sao Thi
Sách nếu sống không lên làm vua mà lại để cho Trưng Trắc ? Có thể là Thi
Sách đã chết trong cuộc nổi dậy nên bà Trưng mới lên làm vua chăng ?
Trừ Giao Châu Ngoại Vực Ký ra, tất cả các sử liệu đều không nhắc
đến vai trò của Thi Sách trong cuộc khởi nghĩa, trong khi mọi sử liệu
đều nhấn mạnh đến cá tính của bà Trưng như "dũng mãnh, có tài thao
lược". Điều này cho thấy dù Thi Sách có còn sống chăng nữa, ông chỉ đóng
một vai trò mờ nhạt trong cuộc khởi nghĩa này.
Việc
Hai Bà Trưng được các Lạc tướng tôn lên làm vua cho thấy, chế độ mẫu hệ
của Việt Nam lúc đó tuy rằng đã bị thay thế nhưng những tàn dư còn lại
vẫn rất mạnh. Địa vị của người phụ nữ trong xã hội vẫn còn rất cao.
Người ta sẵn sàng chấp nhận vai trò của phụ nữ kể cả trong chính quyền
và trong quân sự. Vì vậy khi hai bà nổi lên trong các toán quân hưởng
ứng đã có rất nhiều nữ tướng (Thánh Thiên Công Chúa, Bát Nạn Công Chúa,
Lê Chân, v.v.)
Thần
tích của một số làng còn lại cho thấy cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng
không phải là cuộc khởi nghĩa đầu tiên. Trước đó cũng đã có những cuộc
nổi dậy khác nhưng thất bại. Phải đến khi hai bà nổi lên, với sự ủng hộ
của hai giòng họ lớn vào bậc nhất của xã hội Lạc thời đó thì mới có đủ
khả năng đánh bại được những toán quân Hán đồn trú. Cuộc nổi dậy như vậy
là đã dựa vào những bất mãn của toàn dân mà thành công. Chính sách Hán
hóa của nhà Đông Hán không những tạo ra những căm hận trong xã hội dân
Lạc mà cả trong những xã hội khác bị Hán chinh phục, đặc biệt là trong
những tộc Việt ở vùng Lĩnh Nam và khu vực Ngô Sở. Chính vì vậy mà toàn
bộ châu Giao đã nổi lên. Sau khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa của hai bà,
Mã Viện cũng đã phải đi đàn áp cuộc nổi dậy của những người Sơn Việt ở
Hồ Nam và viên tướng này đã chết ở đó.
Bà
Trưng làm vua được chưa đầy ba năm thì Quang Vũ nhà Hán sai Mã Viện đem
quân sang đàn áp. Sử sách không chép rõ trong ba năm đó hai bà đã làm
được những gì. Thủy Kinh Chú chép rằng "Trưng Trắc thu được thuế má hai năm tại Giao Chỉ và Cửu Chân".
Điều đó cho thấy rằng quyền hạn của hai bà chỉ bao gồm hai quận đó mà
thôi. Những nơi khác tuy nổi dậy khởi nghĩa nhưng không có quan hệ trực
tiếp với chính quyền mới. Trong thời gian hai bà làm vua, chắc hẳn các
Lạc tướng vẫn nắm quyền trị dân như cũ và có lẽ ngoài những người trực
tiếp ứng mộ khởi nghĩa dưới trướng hai bà, đại đa số quân đội vẫn còn
nằm trong tay các lạc tướng. Chính vì vậy mà một khi phải đối phó với
một đội quân chính quy như của Mã Viện, hai bà đã mau chóng bị thua. Và
với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, xã hội Lạc đã bước
sang một giai đoạn mới : giai đoạn Lạc Việt.
4.4. Từ Lạc chuyển sang Việt - Cuộc chinh phục của Mã Viện
Vào
cuối thời Tây Hán, xã hội Trung Quốc bước vào chế độ môn phiệt. Các nhà
"đại gia" - địa chủ, phú thương, quan lại quyền quý - chiếm đất của
nông dân, nuôi nô tỳ kể đến hàng vạn. Nông dân đói khổ nổi lên làm loạn.
Vương Mãng lên ngôi đưa ra tân pháp tìm cách cải tổ nhưng đã bị các hào
gia và bọn quan lại cũ chống đối cuối cùng thất bại. Đến lúc Quang Vũ
trung hưng tình trạng lại càng tệ hơn nữa. Năm Kiến Vũ 16 (tức năm 39
sau Công nguyên) Quang Vũ ra lệnh cho các châu quận đo lại ruộng đất
nhằm tước bớt đất của các hào gia chia lại cho dân nghèo, quân bình bớt
số thuế phú dân nghèo phải chịu. Nhưng lệnh của vua ra lại bị bọn quan
lại địa chủ chống đối làm ngược lại đến nỗi "trăm họ ta thán, đón đường
kêu oan" (Hậu Hán Thư). Sang năm 40 các hào gia và binh lính nổi
dậy tại khắp nơi, đặc biệt là tại bốn châu Thanh, U,Từ, Ký (Sơn Đông, Hà
Bắc hiện nay). Tại phương nam ngoài cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng
tại Giao Chỉ còn có cuộc khởi nghĩa của các tộc Sơn Việt tại các vùng Hồ
Nam, Hồ Bắc, Quý Châu.
Chính
vì vậy, mặc dầu sau khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh chiếm các châu
quận tại Giao Châu, Quang Vũ đã ra lệnh cho các quận Trường Sa, Hợp Phố,
Giao Chỉ, sắm sửa xe thuyền, sửa sang cầu đường trữ sẵn thóc gạo để
chuẩn bị chinh phục (Hậu Hán thư - Giao chỉ truyện) nhưng phải đến hai năm sau, Hán mới thu thập đủ lực lượng để mang quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Mùa
hạ, tháng tư năm Kiến Vũ 18 (năm 42 sau Công nguyên) Hán Quang Vũ phong
Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm phó tướng thống lĩnh bộ
binh sang đàn áp dân Lạc. Chỉ huy thủy quân là Đoàn Chí, được phong làm
Lâu Thuyền tướng quân, hẹn họp nhau ở Hợp Phố để cùng tiến vào Giao Chỉ.
Mã
Viện, tự Văn Uyên, là một danh tướng của nhà Ðông Hán. Viện trước theo
Ngỗi Hiêu, sau bỏ Hiêu về theo Lưu Tú (Quang Vũ Đế) đã từng cầm quân phá
quân Khương tại Lũng Hữu và chống cự với Hung Nô ở Nhạn Môn. Khi được
Quang Vũ cử đi đánh Giao Chỉ, Viện đã vừa phá được cuộc khởi nghĩa của
Lý Quảng ở Hoản Thành. Sau này sau khi dẹp yên được Giao Chỉ, Viện lại
được Quang Vũ cử đi đánh những tộc Sơn Việt ở vùng Ngũ Khê (Quý Châu).
Khi tiến sâu vào đất của những tộc này, quân đội của Viện bị chặn đường ở
Hồ Khẩu, các vùng núi cao bị người Việt chiếm, tiến lên không được,
lương thực không tới ; quân lính không chịu nổi thủy thổ bị dịch chết
rất nhiều. Viện cũng bị bệnh chết trong quân.
Theo Hậu Hán thư,
trong cuộc chinh phục chống lại Hai Bà Trưng, quân Mã Viện có khoảng
mười ngàn tên, lấy từ các quận Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng (thuộc Hồ
Bắc) và từ Thương Ngô (Giao Châu) nhưng theo Thủy Kinh Chú dẫn bài biểu của Mã Viện lên Hán Quang Vũ thì quân của Mã Viện khi đi vào Giao Chỉ bao gồm "mười hai ngàn quân tinh nhuệ của Giao Chỉ, họp với đại binh thành hai chục ngàn người. Thuyền xe lớn nhỏ hai ngàn chiếc". Điều
đó có nghĩa là trong thời gian tiến binh từ Bắc xuống đến Hợp Phố, Mã
Viện đã tuyển thêm được trên một vạn người tại châu Giao ở các quận
Thương Ngô, Nam Hải, Uất Lâm và Hợp Phố, tức là các quận thuộc miền nam
Trung Quốc hiện nay. Những quận này như đã nói ở trên, không nằm trong
tầm kiềm soát của Hai Bà Trưng, và nếu có nổi dậy cùng hai bà, chắc đã
bị Hán mau chóng nắm lại quyền kiểm soát. Mã Viện đã không gặp một trở
ngại nào khi mang quân từ Hồ Nam qua Quảng Đông, Quảng Tây cả ; trái lại
viên tướng Hán đã tăng cường được quân lực lên gấp đôi so với khi phát
xuất.
Khi
hai đạo quân thủy lục hội lại tại Hợp Phố, Đoàn Chí bị bệnh chết. Quang
Vũ hạ chiếu cho Mã Viện thống xuất cả thủy lục quân tiến công vào Giao
Chỉ. Có lẽ vì phải phối hợp với cả thủy quân, nên Mã Viện không đi theo
đường núi qua ngả Lạng Sơn mà tiến vào địa phận Giao chỉ nhưng lại mở
đường theo ven biển. Hậu Hán Thư - Mã Viện truyện chép :
"Viện
phải vượt bể vào Giao Chỉ. Thuyền ít không đủ chở quân, bèn hỏi thăm
những người đi núi rồi ven bờ bể theo núi mở đường hơn nghìn dặm".
Phải
gần một năm sau khi xuất quân, vào mùa xuân năm Kiến Vũ 19 (43) Mã Viện
mới tiến quân vào đến Lãng Bạc. Tại đây Mã Viện đã gặp quân ta do bà
Trưng Nhị chỉ huy từ Mê Linh xuống. Các sử của ta như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Việt Sử Thông Giám Cương Mục đều
cho là Lãng Bạc là Hồ Tây ở ngoại thành Hà Nội bây giờ. Nhưng nếu xét
theo địa lý lịch sử thì lúc đó Hồ Tây còn chưa thành hình mà mới chỉ là
một nhánh sông của sông Hồng mà thôi. Các tài liệu mô tả trong Hậu Hán Thư và Thủy Kinh Chú cho thấy Lãng Bạc có thể là vùng đồi núi hiện nay là huyện Tiên Du thuộc Bắc Ninh.
Trong
suốt thời gian Mã Viện tiến quân vào Việt Nam như vậy Hai Bà Trưng làm
gì thì không thấy một sử liệu nào nói đến cả. Nhưng suốt con đường tiến
quân từ Hợp Phố tới Lãng Bạc sử không chép tới một cuộc kháng cự nào từ
phía Hai Bà Trưng ; điều đó đủ cho thấy rằng Mã Viện đã tiến quân vào
đất nước ta mà không gặp khó khăn gì. So sánh với những điều được biết
tại những trường hợp có một bối cảnh xã hội tương tự như trường hợp của
các tiểu vuơng quốc người Celt chống lại cuộc xâm lược của La Mã dưới
thời Julius Cesar thì chúng ta có thể đoán rằng lúc đó hai bà đang còn
phải tìm cách thuyết phục các Lạc tướng hợp binh lại dưới một sự chỉ huy
duy nhất thay vì mỗi bộ tộc chiến đấu lẻ tẻ và ô hợp.
Trận
chiến tại Lãng Bạc chắc chắn là một trận đánh lớn. Hai bên cầm cự nhau
trong nhiều ngày, có thể đến một vài tháng. Đã có lúc, Mã Viện, một tên
danh tướng của Hán phải nao núng lo sợ rằng sẽ thua và bị chết ở đây. Hậu Hán thư - Mã Viện truyện chép :
"Viện
(sau khi phá được Hai Bà Trưng và được Quang Vũ phong làm Tân Tức Hầu)
sai giết bò, nấu rượu khao thưởng quan lại quân sỹ rồi nghiêm trang nói
"người em họ tôi là Thiếu Du thường thương hại tôi có tính khẳng khái,
ôm chí lớn và khuyên rằng kẻ sỹ sinh ra ở đời này chỉ nên mong muốn làm
sao có ăn có mặc, ra ngoài có xe, có ngựa yên ổn để trông coi phần mộ tổ
tiên tại quê quán ; như vậy là đủ rồi chứ nếu cầu thêm nữa chỉ là tự
làm khổ mà thôi. Vào lúc ta còn đang ở kẹt giữa Lãng Bạc và Tây Lý (Tây
Vu), địch còn chưa bị diệt, dưới thì nước lụt, trên thì mây mù, khí độc
bốc lên ngùn ngụt, ngẩng trông lên thấy diều hâu đang bay sà rơi xuống
nước. Khi nằm mới nhớ lại những lời khuyên của Thiếu Du lúc sinh thời mà
tiếc không biết làm sao đạt được".
Nhưng cuối cùng trong trận này Mã Viện đã dành phần thắng ; quân ta tan vỡ, Hai Bà phải chạy về Cấm Khê. Theo Việt Điện U Linh Tập,
thấy phải cầm cự với Mã Viện lâu dài ở Lãng Bạc, các Lạc tướng chán nản
bỏ rơi Hai Bà và rút quân về địa phận của mình. Rất có thể rằng có một
phần quân sỹ của hai bà lại còn bỏ theo Mã Viện nữa. Trong bài biểu của
Mã Viện sau khi thắng được Hai Bà ở Giao Chỉ và trước khi đem quân vào
Cửu Chân, Mã Viện đã khoe với vua Hán rằng :
"...Thần
có hơn vạn người Lạc Việt, trong đó có hơn hai nghìn người tập quen
chiến đấu cung có tên độc, bắn một lần mấy phát, tên bắn như mưa, trúng
ai nấy chết".
Dù sao chăng nữa, trước tình thế đó, Hai Bà phải mang quân giao chiến
chứ không thể nào dùng chước cầm cự lâu dài để chờ cho quân Mã Viện mỏi
mệt bị dịch bệnh mà phải rút. Cuối cùng Hai Bà bị Mã Viện đánh thua.
Theo sử Trung Quốc, Mã Viện đem quân đuổi theo, hai bên giao chiến nhiều
lần, quân Hai Bà bị thua luôn, về sau Mã Viện giết được Hai Bà bà dâng
đầu Hai Bà về kinh đô Lạc Dương. Theo sử ta thì không phải Hai Bà bị
giặc giết mà đã tự vận tại sông Hát.
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo
Chị em thất thế phải liều với sông.
Lúc đó là vào mùa hạ tháng 5 năm Kiến Vũ thứ 19 (năm 43 saui Công nguyên).
Sau
khi bình định được Giao Chỉ rồi Mã Viện mang quân vào Cửu Chân đánh lực
lượng của Hai Bà tại vùng này. Tướng của Hai Bà là Đô Dương chống cự
dũng mãnh nhưng cuối cùng phải thua. Hậu Hán thư chép "Viện đem
hơn hai ngàn lâu thuyền lớn nhỏ, hai vạn chiến sỹ đi đánh giặc Cửu Chân
là dư đảng Trưng Trắc. Từ huyện Vô Công đến huyện Cư Phong chém bắt hơn
năm ngàn người". (Cư Phong là một bộ tộc lớn thời Hùng Vương, chính tại
làng Đông Sơn thuộc huyện này là nơi đầu tiên phát hiện ra những đồ đồng
thau cho thấy sự tồn tại của thời đại Hùng vương). Thủy Kinh chú chép "Thế là đất Cửu Chân yên".
4.5. Sự tan rã của xã hội Lạc và mầm mống hình thành của xã hội Lạc Việt
Với
thất bại của Hai Bà Trưng và cuộc trấn áp của Mã Viện, xã hội Việt Nam
của nền văn hóa Đông Sơn cuối cùng đã tan rã. Sau khi đánh bại xong cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Viện ở lại Giao Chỉ trong hầu hết năm Kiến
Vũ 19 và tiến hành việc củng cố chính quyền Hán tại đất Lạc. Có thể nói
đây là một cuộc cách mạng xã hội đầu tiên tại Việt Nam.
Trong
thời gian còn chiến đấu chống lại Hai Bà Trưng, Viện đã giết rất nhiều
những người mà Hán sử gọi là những "cừ súy" tức là những Lạc tướng và
những thành phần quý tộc của dân Lạc. Sau khi bình định xong Cửu Chân,
Viện còn đầy hơn 300 gia đình "cừ súy" khác lên Linh Lăng (Hồ Nam). Thế
là sau cuộc chiến, tầng lớp lãnh đạo của dân Lạc đã bị tiêu diệt gần
hết. Sau Mã Viện, danh từ Lạc tướng đã không được sử sách nhắc nhở gì
đến nữa chứng tỏ rằng tước vị Lạc tướng thế tập đã bị hủy bỏ. Nhằm xóa
bỏ đến cả ký ức các bộ tộc cũ, Viện cũng đã sửa đổi lại ranh giới các
huyện, sáp nhập những huyện nhỏ lại với nhau và chia những huyện lớn ra.
Theo Thủy Kinh Chú, Mã Viện đã "định lại các quận huyện và đặt
lệnh trưởng". Như vậy nếu trước kia quyền lực của các quan lại Hán chỉ
tập trung vào một số trung tâm lớn, còn tại các huyện (tức là các bộ
tộc) quyền hành còn nằm trong tay các Lạc tướng, thì nay quan lại Hán đã
đi xuống tận các huyện. Ðể bảo vệ cho đám quan lại mới này, cũng như là
để tạo ra những trung tâm dân cư mới mà dân chúng chắc hẳn phần lớn là
người Hán, tại mỗi huyện Viện đều bắt xây thành lũy kiên cố. Hậu Hán Thư
chép : "Viện đi qua nơi nào đều xây thành quách cho các quận huyện"
đồng thời "đào ngòi, tưới nước sinh lợi cho dân" Việc xây thành và đào
ngòi tưới nước này cho ta thấy hai điều. Thứ nhất việc xây thành có
nghĩa là phải có binh lính Hán đồn trú nếu không thì xây thành chỉ có
hại chứ không có ích gì. Đào kênh khơi ngòi như vậy là Viện đã nối tiếp
công việc của Tích Quang và Nhâm Diên. Chắc hẳn khi đào kênh khơi ngòi
này Viện đã thiết lập chế độ đồn điền giúp cho quân Hán đồn trú có đủ
khả năng tự cấp không trông cậy vào lương thực ở bên ngoài. Theo Hậu Hán Thư,
Viện đã áp dụng chính sách đồn điền này khi ở Lạc Dương. Sự kiện quân
Hán đồn trú để khai khẩn đồn điền đã được Du Ích Kỳ đời Tấn ghi lại
trong Thái Bình Quảng Ký :
"Ở
phía Nam bờ sông Thọ Linh (tức là sông Gianh ngày nay) có hơn mười nhà
là những binh lính của Mã Văn Uyên còn sót lại không về. Họ tự lấy họ là
Mã và thông hôn với nhau. Nay có đến hai trăm nhà. Người Giao Châu lấy
lẽ họ là người lưu ngụ nên gọi họ là "Mã Lưu". Tiếng nói ăn uống vẫn như
người Hoa".
Nhưng
điều quan trọng nhất mà Mã Viện làm khiến cho xã hội dân Lạc thay đổi
hẳn cục diện là buộc dân Lạc thay đổi những tập tục cũ của mình để theo
Hán. Hậu Hán Thư - Mã Viện truyện chép :
"Viện
tâu rằng luật Việt và luật Hán khác nhau hơn mười chuyện, nay xin làm
sáng tỏ cựu chế đối với người Việt để ước thúc họ. Từ đó về sau Lạc Việt
tuân theo việc cũ của Mã tướng quân".
Cần
lưu ý là Hậu Hán thư dùng chữ "luật" chứ không phải chữ "pháp". Pháp có
nghĩa là pháp luật, phép của nước như trong đoạn tả nguyên nhân dẫn đến
việc Bà Trưng khởi nghĩa, Hậu Hán Thư chép "thái thú Tô Định dữ
pháp thằng chi" có nghĩa là thái thú Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc,
trong khi tại đây dùng chữ "luật", luật có nghĩa là tập tục của xã hội.
Chúng ta không biết mười điều khác biệt giữa luật Hán và luật Việt là
gì, nhưng có thể rằng một trong những điều đó là việc lấy họ để phân
biệt rõ huyết thống phụ hệ. Tất cả các họ của Việt Nam cho đến nay, từ
họ Nguyễn, họ Lê cho đến các họ Dương, họ Mai đều là những họ xuất phát
tại Trung Quốc. Nếu Mã Viện bắt dân Lạc phải có họ để phân biệt "tính"
(tên) và "thị" (họ) thì điều này cũng không phải là lạ. Trong thời cận
đại, khi Pháp lập nền đô hộ lên đất Lào, Pháp cũng bắt người Lào phải
lấy họ để tiện việc sổ sách. Dân Lào chỉ mới có họ từ cuối thế kỷ thứ 19
mà thôi. Còn tại Thái Lan, phải đến đời vua Chulalongkorn thì người
Thái mới bắt đầu có họ, khi vua Thái muốn bắt chước các nước Tây Phưong.
Hiện nay tại Miến Điện và Indonesia, dân chúng cũng chỉ có tên mà không
có họ. Mười điều khác biệt đó cũng chứng tỏ rằng xã hội Lạc vẫn còn là
một xã hội có tổ chức và có những phong tục tập quán riêng của mình mà
dù thất bại cũng không hoàn toàn bị mất đi.
Mặc
dầu chế độ Lạc tướng đã đi vào trong quá khứ, và một số lớn những Lạc
tướng bị giết hoặc bị Mã Viện lưu đầy sau khi khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng thất bại, nhưng giới quý tộc Lạc không vì thế mà không còn đóng
một vai trò nào trong lịch sử về sau này. Khi thiết lập chính quyền Hán
tại các huyện của Giao Chỉ và Cửu Chân, Mã Viện không thể nào dùng toàn
người Hán được. Viện bắt buộc phải dùng những quý tộc Lạc cũ, có thể là
những người đã bỏ Bà Trưng để theo Viện hoặc là những người đầu hàng sau
khi Bà Trưng thất bại. Điều đó giải thích câu "xin làm sáng tỏ cựu chế
để ước thúc họ". Chắc hẳn khi nói vậy Viện đã đưa ra một đề nghị với các
Lạc tướng rằng hãy tuân thủ các luật pháp của đế quốc Hán để đổi lại sự
khoan hồng của Hán triều và cho tiếp tục phụ vào việc cai trị.
Thất
bại của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đánh dấu cố gắng cuối cùng của
xã hội Lạc nhằm giữ lại những nếp sống và chế độ chính trị cũ. Tuy
nhiên trong đống tro tàn của xã hội cũ đó một xã hội mới đã manh nha.
Việc trộn lẫn dân chúng thuộc các bộ tộc khác nhau của xã hội Lạc, việc
đưa người Hán sống tạp với người Lạc đã dần dần làm nẩy sinh một cộng
đồng mới trong đó những yếu tố truyền thống Lạc được hỗn hợp với những
yếu tố Hán để tạo ra một xã hội mới, xã hội Lạc Việt mà khả năng tranh
đấu để tồn tại mạnh mẽ hơn cổ xã hội Lạc nhiều.
Lạc, "Yueh", và Việt
Tổ
tiên chúng ta không phải là người Việt. Chúng ta không biết khi lập
quốc, tổ tiên ta tự gọi mình là gì, nhưng chắc chắn không phải là Việt,
dù là Lạc Việt hay là một tên Việt gì khác. Ta hãy tạm gọi bằng tên mà
những người Trung Quốc đầu tiên gọi dân ta, trước khi tên Việt được dùng
một cách phổ biến ; tên đó là Lạc. Tại đây ta sẽ không nhắc lại đến
những cuộc tranh cãi kéo dài từ trên năm mươi năm nay chung quanh nghĩa
chữ Lạc là gì ? Hùng vương hay Lạc vương ? v.v...
Vậy
thì Việt là gì ? Tại sao chúng ta lại trở thành Việt chứ không còn là
Lạc nữa ? "Yueh" là danh từ người Hoa dùng để chỉ những dân tộc không
phải người Hán sống ở lưu vực phía Nam sông Trường Giang xưa kia. Người
Hoa tự nhận là văn minh. Họ cho họ là "Hoa" - tinh hoa - và gọi những
dân tộc khác bằng những từ có tính miệt thị ; phía tây gọi là nhung ;
phía bắc gọi là địch ; phía đông gọi là di ; còn phía nam đầu tiên vì
xưa kia chưa tiếp xúc nhiều với những dân tộc ở phương nam họ gọi hết
tất cả là "man", mọi rợ. Từ "Yueh" mà dân Việt ta gọi là "Việt" là từ
đầu tiên mà người Hoa đặt ra để phân biệt những dân tộc ở phương nam mà
một nền văn minh Hoa bành trướng về phương nam bắt đầu tiếp xúc.
Sử
gia Tư Mã Trinh đời Đường đã nói rất rõ rằng trước thời Xuân Thu, nhà
Chu chưa biết đến Việt. Như thế có nghĩa rằng chữ Việt lần đầu tiên xuất
hiện cùng với nước Việt của cuối đời Xuân Thu. Theo những thư tịch của
Trung Quốc, người ta biết rằng nước Việt này xuất hiện vào khoảng thế kỷ
thứ 5 trước Công nguyên và lần đầu tiên được nhắc đến trong các bộ Tả
Truyện của Tả Khưu Minh và Việt Tuyệt Thư vốn là hai bộ sách viết vào
thời Chiến Quốc mà sau này được thời Hán sửa sang và thêm bớt khá nhiều.
Việt lúc đó là một danh từ riêng.
Thời
Xuân Thu, văn minh Trung Hoa vượt ra khỏi khu vực truyền thống của họ ở
lưu vực các sông Hoài, Hà mà lan xuống phuơng Nam. Tại vùng lưu vực
sông Trường Giang họ bắt đầu tiếp xúc với những dân tộc không phải là
Hán mà quan trọng nhất là các nước Sở, Ngô và Việt. Sở, nằm ở ngay miền
giữa lưu vực sông Trường Giang - nay thuộc các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc - là
nước đầu tiên bị Hán hóa với tầng lớp quý tộc cai trị du nhập văn hóa
Hoa hạ ngay từ những năm đầu của thời Đông Chu. Ngô và Việt nằm ở phía
đông nam của Sở dọc theo bờ biển. Những nước này, Sở, Ngô và Việt đều bị
những nước tập trung ở lưu vực sông Hà gọi chung là nam man cả. "Man"
có nghĩa là hỗn độn không rõ. Người Trung Quốc thời Xuân Thu-Chiến Quốc
hiểu về khu vực phía Đông, phía Tây, phía Bắc khá nhiều, nhưng với phía
Nam họ không biết gì, thành ra đối với họ, những dân tộc phương Nam vẫn
là một khối người hỗn độn không phân biệt được.
Tuy
nhiên cần nhớ rằng kiến thức của những người Trung Quốc thời này về các
dân tộc "Nam Man" không bao gồm dân tộc chúng ta. Tầm ảnh hưởng của văn
hóa Trung Quốc còn ở rất xa vùng đồng bằng sông Hồng. Nhìn vào bản đồ,
ta thấy từ Hồ Nam đi xuống lưu vực sông Tây Giang (tức là Quảng Đông,
Quảng Tây ngày nay) tức là từ địa phận các nước Sở, Việt đi xuống vùng
mà người Hoa sau này gọi là vùng Lĩnh Nam còn bị cách bởi một rặng núi
lớn hiểm trở, rặng Hành Sơn. Việc giao thông giữa hai miền Hoa Trung và
Hoa Nam chỉ có thể thực hiện qua năm ngọn đèo chính gọi là Ngũ Lĩnh. Từ
lưu vực sông Tây Giang sang đến vùng đồng bằng Bắc Bộ, quê hương của
người Lạc, tổ tiên của chúng ta còn cách thêm nhiều rặng núi hiểm trở
nữa. Điều đó cho thấy, sự tiếp xúc của tổ tiên ta với người Hán rất ít
và nếu có thì cũng chỉ một cách gián tiếp mà thôi.
Tư
Mã Thiên là người đầu tiên dùng từ Việt với một nghĩa rộng hơn là chỉ
nước Việt của Câu Tiễn. Ngoài việc dùng từ Việt để kể lại những sự việc
có quan hệ trực tiếp với nước Việt thời Xuân Thu và những di duệ của
nước này thời Tần Hán như Đông Âu, Tây Âu, Mân Việt vân vân, ông còn
dùng từ "Việt" với một nghĩa khác. Như Lưu Hy đời Hán giải thích, Việt
có nghĩa là vượt, để chỉ những tộc người nằm ngoài vòng "lễ nghĩa" của
nhà Chu, phù hợp với cách phân chia ảnh hưởng nhà Chu của Tư Mã Thiên.
Bằng từ Việt này Tư Mã Thiên chỉ những tộc người phương nam có ít nhiều
tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của Hán tộc và để so sánh sự khác nhau giữa
họ với những người Hồ và Hán ở phương Bắc. Trong khái niệm Việt của Tư
Mã Thiên ông đã loại trừ ba khu vực, Sở, Ngô và dân Lạc của chúng ta.
Điều đó cũng dễ hiểu. Sở và Ngô đã bị đồng hóa vào nền văn hóa Hoa hạ,
còn dân Lạc của chúng ta thì vẫn còn xa lạ chưa tiếp xúc gì với văn hóa
Hán cả. Chính cũng theo quan điểm này của Tư Mã Thiên mà các nhà sử học
Trung Quốc trong những đời sau này, khi tiếp xúc với các dân tộc ở
phương Nam khác như Lâm Ấp, Chân Lạp họ cũng không bao giờ gộp cư dân
những nước đó vào khái niệm Việt cả.
Khảo
cổ học và cổ nhân chủng học cũng đã chứng minh sự khác biệt của văn hóa
cổ của dân Lạc với những nền văn hóa cổ đại phát triển tại vùng Giang
Nam. Các nghiên cứu về nhân chủng và cổ ngôn ngữ học cho thấy, vào cuối
thời kỳ đồ đá, trong lúc tại Đông Nam Á hình thành chủng tộc người Nam Á
thì tại miền Giang Nam cũng hình thành những tộc người nói tiếng Tày -
Thái tức là những dân tộc được Tư Mã Thiên gọi là Bách Việt.
Theo
khảo cổ học, vào hậu kỳ thời đại đá mới ở Trung Quốc, tương đương với
giai đoạn Phùng Nguyên của Việt Nam, miền lưu vực sông Hà đã phát triển
hai nền văn hóa được mệnh danh là Nguỡng Thiều và Long Sơn. Đó chính là
những nền văn hóa cơ bản của Hán tộc. Trong khi đó tại vùng Giang Nam
cũng phát triển nhiều nền văn hóa khác mà đặc trưng là các món đồ gốm có
hoa văn in hình học khác với gốm màu của Ngưỡng Thiều hoặc gốm đen của
Long Sơn. Khu vực văn hóa này, tương đương với địa bàn mà các sử gia
Trung Quốc gọi là khu vực của những dân tộc Bách Việt được dặt tên là
"Văn Hóa Đồ gốm hoa văn in" (Ấn Văn Đào Văn Hóa). Về trình độ, văn hóa
này tương đương với trình độ của văn hóa Phùng Nguyên tại vùng châu thổ
sông Hồng, nhưng những sản phẩm đồ gốm của họ cũng khác hẳn với những
sản phẩm đồ gốm tìm được trong những cuộc khai quật khảo cổ tại Việt Nam
về phương diện trang trí và hình dạng. Càng về sau, trong lúc những sản
phẩm đào được tại Việt Nam tiếp tục giữ những đặc tính cơ bản của mình
thì những sản phẩm đào được tại vùng Giang Nam đã ngày càng mang thêm
ảnh hưởng của vùng Hoa Bắc, với những hoa văn phảng phất trang trí của
đồ đồng thời Ân Chu.
Môt
số những hiện vật đặc trưng của văn hóa Giang Nam cũng đã đào được tại
Việt Nam, tuy với một số lượng ít ỏi, trong khi một số những hiện vật
đặc trưng của dân Lạc cũng đã đào được tại vùng Giang Nam. Điều này cho
thấy giữa hai vùng có một quan hệ thương mại nào đó. Đặc biệt sang thời
đại đồng thau, sự khác biệt giữa hai vùng càng được thấy rõ rệt. Trống
đồng, đặc trưng của văn hóa Đông Sơn hầu như không được thấy tại vùng
Hoa Nam này. Tại Hoa Nam, trừ vùng Tấn Ninh (Vân Nam) nơi người ta đã
phát hiện được một số đồ đồng mang phong cách văn hóa Đông Sơn như trống
đồng loại 1, dao găm chắn tay ngang với lưỡi hình luợn sóng vân vân,
còn toàn bộ vùng Giang Nam rộng lớn còn lại, từ Hồ Nam, Hồ Bắc qua đến
Giang Tây, Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây cho đến nay
người ta không hề tìm thấy được vết tích nào của nền văn hóa Đông Sơn.
Hầu hết những đồ đồng tìm được trong vùng này đều mang phong cách của
nước Sở hay là của văn hóa Đông Chu.
Những
chứng tích khảo cổ học đó đã lại một lần nữa xác định sự khác biệt giữa
người Lạc, tổ tiên của chúng ta, và những tộc người mà người Hán xưa
gọi là Bách Việt hoặc Việt nhân hoặc Di Việt. Vậy thì tại sao tổ tiên
chúng ta đang từ Lạc trở thành Việt ?
Những
sách cổ nhất của Trung Quốc nói về dân ta không nói đến tên Việt. Phải
sang đến đời Đông Hán, đặc biệt là sau cuộc chinh phục của Mã Viện, từ
Việt mới được ghép vào với từ Lạc, trở thành Lạc Việt, để chỉ những
người dân tại vùng châu thổ sông Hồng và sông Mã. Tại sao lại có sự thay
đổi như vậy về phía những người Trung Quốc ? Và tại sao người mình lại
chấp nhận từ Việt do Trung Quốc áp đặt thành tên của dân tộc mình để rồi
nhiều người sau này lại còn đi tìm nguồn gốc dân tộc từ những tộc Bách
Việt ở Giang Nam cũng như là còn nhận quàng cả những tác phẩm như Kinh
Dịch của Trung Quốc làm của mình ?
Đây
là một vấn đề phức tạp và tế nhị có liên quan cả đến tự ái dân tộc.
Theo thiển ý, người Trung Quốc trong cái niềm tự hào bá quyền nước lớn,
luôn luôn giả sử rằng những dân tộc có "may mắn" được họ chinh phục dần
dà sẽ được khai hóa để trở thành người Hoa. Quá trình tiến hóa này theo
họ sẽ đi từ "man di" tức là hoàn toàn không có chút ảnh hưởng văn hóa
Hoa Hạ sang "Việt" để rồi cuối cùng trở thành Hoa. Đối với người Hán,
dân "man" ở Giao Chỉ sau mấy trăm năm tiếp xúc với văn hóa Hán đã bắt
đầu được khai hóa đủ để có thể trở thành Việt. Và để cho thấy sự khác
biệt giữa tộc Việt mới này với những tộc Việt khác ở vùng Giang Nam, chữ
Lạc đã được thêm vào cũng như là từ Điền Việt đã được người Hán ghép
vào để chỉ những dân tộc thuộc văn hóa Điền cổ xưa ở Vân Nam ngày nay.
Thế
còn dân ta tại sao lại chấp nhận cái tên "Việt" ? Trái với người Nhật
mà nền văn hóa có cơ hội được phát triển độc lập không bị những áp lực
từ bên ngoài, tổ tiên chúng ta đã phải đấu tranh không ngừng để có thể
tồn tại. Dưới ách thống trị của người Hán, và nhất là sau cuộc khởi
nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại, tầng lớp quý tộc cai trị cổ truyền đã
bị tiêu diệt và việc đấu tranh để bảo tồn những giá trị văn hóa và tinh
thần dân tộc đã phải đứng sau cuộc đấu tranh để có thể tồn tại dưới một
chế độ cai trị bóc lột, tàn ác và ngoại lai. Trong cuộc đấu tranh này,
những giá trị nào mà không có một đóng góp trực tiếp vào sự tồn tại đều
phải bị gạt bỏ. Trong trường hợp đó, việc chấp nhận từ Việt có một giá
trị sinh tồn tương đối giúp người Lạc có một chỗ đứng trong vũ trụ quan
của thế giới người Hoa để mở đường cho những tự hào về sau này trong câu
thơ của Lý Thường Kiệt, "Nam Quốc sơn hà nam đế cư". Bởi vì dù sao
chăng nữa, "Việt" tuy rằng đứng ngoài vòng kiềm tỏa của "lễ nghĩa" nhà
Chu nhưng cũng là có văn minh. Theo Tư Mã Thiên, thủy tổ của nước Việt
đời Xuân Thu là con cháu Đại Vũ.
Vài nhận xét về từ "Giao Chỉ"
Từ
"Giao Chỉ" lần đầu tiên được áp dụng để chỉ nước ta là vào thời Triệu
Đà. Triệu Đà sau khi diệt An Dương Vương bèn chia nước Âu Lạc ra làm hai
quận, Giao Chỉ và Cửu Chân đặt hai quan sứ cai trị. Nhưng từ Giao Chỉ
này có nguồn gốc xa xưa hơn. Theo Trần Văn Giáp, nghĩa chính và nghĩa cổ
nhất của Giao Chỉ được lấy từ thiên Vương Chế của Lễ Ký. Theo thiên này
thì nam man có một đất gọi là Điêu Đề Giao Chỉ ; có ý nói ở đất đó,
người ta khi nằm thì đầu hướng ra ngoài, chân duỗi vào phía trong và gác
chéo lên nhau. Một số học giả người Hoa, và một số học giả Việt Nam
cũng nhân vào đó khẳng định rằng người Hoa đã biết đến đất ta từ thời
Chu. Nhưng nếu xét kỹ trong Lễ Ký thì đoạn văn này nói đến việc nước
Trịnh. Trong thời Chu, Trịnh là một nước ở tỉnh Hà Nam tồn tại từ khoảng
774 đến 500 trước Công nguyên thì bị nước Hán diệt. Nếu xét vào bối
cảnh không gian và thời gian lúc đó, thì từ "nam man" này chỉ có thể chỉ
đến những dân tộc ở vùng lưu vực sông Trường Giang hoặc xa hơn nữa tối
đa là đến lưu vực sông Tây Giang là cùng. Điều mỉa mai là từ Giao Chỉ
này đã tồn tại và gắn liền với Việt Nam từ đó đến nay. Dưới thời Minh,
vùng biển ngoài khơi Việt Nam được người Minh gọi là Giao Chỉ Hải. Người
Bồ Đào Nha đọc trại ra thành Cochin để rồi từ đó có danh từ Cochinchina
để chỉ miền Nam Việt Nam. Thành ra mặc dầu không chỉ vùng đất của dân
tộc ta, từ này vẫn gắn liền với vùng đất này.
Chương 5 : Giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 2 : Từ Mã Viện cho đến cuộc khởi nghĩa của Lý Bí
Tại
Trung Quốc từ cuối đời Tây Hán, các nhà hào gia, bao gồm bọn quý tộc,
địa chủ, các thương nhân giầu có càng ngày càng có ảnh hưởng nhiều về
chính trị và xã hội. Sang đời Đông Hán, tình trạng này càng trở trên
trầm trọng hơn. Tuy rằng vào buổi đầu, các hoàng đế Đông Hán có áp dụng
một số biện pháp mới nhằm cấm các hào gia cướp đất của nông dân nghèo
nhưng cũng không ngăn chặn được bao nhiêu. Các hào gia nuôi cả ngàn "tân
khách", nắm trong tay chục ngàn mẫu ruộng, hàng chục ngàn nông dân, nô
tỳ làm vưong làm tướng một cõi. Mã Viện chẳng hạn được tả là có ba ngàn
"thực khách " trong nhà.
Càng
về sau tình hình lại càng tệ hơn, thành lập chế độ mà ta tạm gọi là
"chế độ môn phiệt" trong đó những họ lớn được coi là "danh gia, vọng
tộc" nắm quyền chính trị, được pháp luật bảo hộ có ưu thế tuyệt đối về
kinh tế. Theo Tư Mã Quang, thì "cử người hiền không ngoài thế tộc, pháp
luật không đụng đến quyền quý" và "thượng phẩm không có người nghèo ; hạ
phẩm không có thế tộc". Vào cuối đời Đông Hán những giòng họ này tổ
chức những đạo quân riêng tự chiếm một số vùng hoặc để tự bảo vệ, hoặc
để ủng hộ cho những thế lực cát cứ, tỷ như My Trúc mang tài sản của mình
ra để trợ giúp cho Lưu Bị. Một số tướng lãnh của Tào Tháo như Hứa Chử,
Điển Vi là những tướng bộ khúc, tức là xuất thân từ những đạo quân riêng
của các hào tộc.
5.1. Tình hình kinh tế xã hội Giao Chỉ sau cuộc chinh phục của Mã Viện
Chế độ Môn Phiệt tại Giao Chỉ
Tình
hình ở Trung Quốc đã vậy, đất Giao vốn nội thuộc vào triều Hán cũng
không thể tránh được. Tại Trung Quốc sự phát triển của chế độ môn phiệt
bắt đầu từ việc bỏ chế độ "tỉnh điền" dưới đời Tần giúp cho những nhà có
tiền có thể có cơ hội thu góp ruộng đất của những nông dân nghèo mà xây
dựng thế lực của mình. Dưới xã hội Lạc, từ thời Hùng vương cho đến cuộc
nổi dậy của Hai Bà Trưng, ruộng đất là của chung của công xã. Các Lạc
tướng chỉ được hưởng một phần lợi nhuận thu được qua những ruộng đất
công này. Có thể các Lạc tướng được hưởng một phần ruộng công mà các
thành viên của công xã phải canh tác cho Lạc tướng cũng như các Lạc
tướng được hưởng một phần những sản phẩm thủ công mà các thành viên của
công xã tạo ra. Nhưng sau cuộc chinh phục của Mã Viện, những chính sách
về ruộng đất tại Trung Nguyên cũng được đem ra áp dụng tại Giao Chỉ,
nhất là tại những nơi có quân Hán đồn trú. Có thể rằng chính sách thuế
phú nặng nề của Đông Hán cũng là một yếu tố quan trọng dẫn đến việc một
phần những ruộng công của công xã biến thành tư điền của những hào tộc.
Cũng có thể rằng các quan lại Hán cũng dùng những thủ đoạn như Pháp tại
Nam Kỳ khi sang đô hộ Việt Nam, lấy những đất hoang mới do nông dân khai
khẩn cấp cho những hào tộc làm của tư.
Dù
sao chăng nữa tuy rằng Hán và các triều đại sau này chưa bao giờ biến
được tất cả các ruộng công thành tư điền (Công điền tại miền Bắc Việt
Nam tồn tại cho đến khi Cộng Sản miền bắc quốc hữu hóa tất cả ruộng đất
vào năm 1956-57) nhưng số ruộng đất tư hóa cũng đủ để nuôi dưỡng một
tầng lớp quý tộc điền chủ mới tại Giao Chỉ.
Giai
cấp quý tộc mới đó bao gồm những thành phần nào ? Khoảng trên một trăm
ngôi mộ gạch đời Đông Hán đã được các nhà khảo cổ khai quật từ khoảng
những năm 1930 trở về sau. Những ngôi mộ này có niên đại từ nửa sau của
thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên cho đến cuối thế kỷ thứ hai tức là từ sau
cuộc chinh phục của Mã Viện cho đến đầu thời Tam Quốc.
Những
mộ này, và những đồ tùy táng cho ta thấy nhiều dữ liệu về tầng lớp quý
tộc mới tại Giao Chỉ. Về phương diện cấu trúc và trang trí, các ngôi mộ
này hoàn toàn mang các đặc tính Hán. Các đồ tùy táng, ngoài một vài
ngoại lệ, hầu hết tương tự như đồ tùy táng đào được tại những ngôi mộ
cùng thời ở phía Nam sông Hà tại Trung Quốc. Điều đó cho thấy tầng lớp
quý tộc Giao Chỉ mới này nếu không phải là thuần túy Hán thì cũng là bị
Hán hóa rất nhiều và chấp nhận văn minh Hán một cách toàn diện. Khối
lượng và sự phong phú của các đồ tùy táng, bao gồm từ những đồ trang
sức, vũ khí, đồ gốm cho đến nhạc cụ, bút nghiên cho thấy những người
được chôn trong các mộ này rất giầu có và có một đời sống xã hội phong
phú. Điều này chứng tỏ rằng họ đã đông đủ để tạo thành hẳn một giai cấp
trong xã hội.
Trong
những đồ tùy táng tìm được có một số những mô hình nông trại bằng đất
nung. Mô hình những nông trại này cho thấy, nhà cửa kho đụn, giếng bếp
được bao bọc bởi những lớp tường cao giống như những pháo đài. Những mô
hình này tương tự như những mô hình tìm được trong những ngôi mộ bên
Trung Quốc cùng thời kỳ. Ðiều đó cho thấy rằng tương tự như những vọng
tộc bên Trung Nguyên, tầng lớp quý tộc mới này là những điền chủ lớn và
họ cũng nuôi trong nhà nhiều tân khách các loại.
Tuy
rằng trống đồng Đông Sơn không có mặt trong những món đồ tùy táng tại
những ngôi mộ này, nhưng một số vật khác, nổi tiếng nhất là bộ chân đèn
tìm thấy tại một ngôi mộ ở Lạch Trường trong đó chân đèn là tượng một
người qùy với vẻ mặt hoàn toàn không phải là người Hán cùng với khoảng
mười bức tượng nhạc công khác cho thấy càng về sau, ảnh hưởng của địa
phương càng bắt đầu xâm nhập vào tầng lớp quý tộc này. Và với sự Việt
hóa tầng lớp quý tộc lãnh đạo địa phương thì quyền lợi của họ với quyền
lợi của các quan lại thống trị Ðông Hán gởi sang càng ngày càng cách
biệt.
Các cuộc nổi dậy và chính sách "nhu viễn"
Các
cuộc nổi dậy đầu tiên chống Hán sau Mã Viện bắt đầu từ quận Nhật Nam,
nơi quyền lực Hán yếu nhất. Năm 100 sau Công nguyên, hơn 2.000 dân huyện
Tượng Lâm nổi loạn, cướp bóc và đốt cháy lỵ sở cai trị. Hán phản ứng
bằng cách gửi một đạo quân từ các huyện phía Bắc xuống. Sau khi dẹp yên
cuộc nổi loạn, triều Hán phải đặt riêng một đội quân đặc biệt để canh
giữ. Nhưng đến năm 136 sau Công nguyên lại có một cuộc nổi dậy khác và
lần này quyền lực Hán không thể nào phục hồi được như trước nữa.
Theo Hậu Hán Thư
năm 136 sau Công nguyên một nhóm dân tên là Khu Liên, từ ngoài biên
thùy tiến vào tấn công Tượng Lâm, đốt cháy phủ trị và giết các quan lại.
Thứ sử Giao Chỉ Phàn Diễn mộ một đạo quân trên mười ngàn người từ các
quận Giao Chỉ và Cửu Chân đến chinh phạt. Tuy nhiên đám quân này không
những không chịu đi xuống phía Nam mà lại nổi loạn, tấn công và phá hủy
các phủ trị tại chính các quận này. Khi một thái thú khác, Giả Xương của
Hán dẫn một toán quân khác đi vào Nhật Nam thì cũng bị các toán quân
nổi loạn vây chặt.
Khi
tin dữ này được báo về kinh đô Lạc Dương, lúc đầu triều đình nhà Hán đã
định cử một đạo quân 40.000 người lấy từ bốn tỉnh vùng sông Hà và sông
Giang nhưng sau đó đã bỏ kế hoạch qua lời khuyên của một vị quan là Lý
Cố, chủ trương hòa giải và dụ dỗ thay vì dùng võ lực. Chính sách này một
phần phản ánh sự suy thoái của triều đình Hán lúc đó, nhưng cũng phản
ánh một sự thật về địa dư. Hán có thể gửi một đạo quân chinh phục vùng
đất xa xôi này nhưng nếu muốn cai trị nó thì đòi hỏi phải tốn rất nhiều
nhân lực và tài lực và một quyết tâm hiếm có. Giao Chỉ đối với triều Hán
chỉ là một thuộc địa viễn phương và khi triều đình trung ương bắt đầu
suy đồi thì vùng viễn phương là vùng đầu tiên bị bỏ rơi. Thành ra thay
vì cử một đạo quân đàn áp, Hán triều theo lời khuyên của Lý Cố cử hai vị
quan giỏi xuống miền Nam, Trương Kiều được cử làm thứ sử Giao Chỉ và
Trúc Lương làm thái thú Cửu Chân. Trương Kiều đã nổi tiếng trong việc
bình phục các bộ lạc người Khương ở Tứ Xuyên, còn Trúc Lương đã bình
định các đám nổi loạn tại Trường Sa.
Năm
138 sau Công nguyên, Trương Kiều đến Giao Chỉ và đưa ra những chính
sách hòa giải. Dân chúng đã mệt mỏi với loạn ly muốn yên ổn. Trương Kiều
và Trúc Lương đã dụ hàng được những người nổi dậy. Tuy nhiên, yên ổn
này chẳng kéo dài được bao lâu. Sau khi Trương Kiều trở về Bắc, năm 144
sau Công nguyên lại xảy ra một đợt nổi loạn khác. Cũng như lần trước,
cuộc nổi dậy bắt đầu từ Nhật Nam và kéo theo các cuộc nổi loạn tương tự
tại Cửu Chân và Giao Chỉ. Lại một lần nữa, triều đình Hán dùng chính
sách phủ dụ kêu gọi những người nổi loạn trở về.
Từ
đời Hoàn Đế trở đi, nhà Đông Hán bước vào giai đoạn suy đồi, loạn lạc
nổi lên khắp nơi, báo hiệu cho giai đoạn Tam Quốc. Thành ra các dân
không phải Hán tộc tại khắp các nơi đều muốn khởi nghĩa mong thoát khỏi
gông cùm cai trị. Đất Giao Chỉ cũng không khác. Năm 157 sau Công nguyên,
một cuộc nổi dậy bắt đầu tại huyện Chu Phong, một huyện miền núi nằm
giữa sông Mã và sông Cả thuộc quận Cửu Chân, Thanh Hóa hiện nay. Một
lãnh tụ địa phương tên là Chu Đạt nổi lên chiếm huyện lỵ và giết viên
huyện lệnh. Chu Ðạt sau đó mang một toán quân khoảng bốn năm ngàn người
tiến về quận lỵ Cửu Chân. Thái thú Cửu Chân là Nghê Thí bị giết. Cùng
lúc, quận Nhật Nam cũng nổi dậy. Tuy nhiên sau đó cuộc nổi dậy bị dẹp
yên. Năm 160, Cửu Chân và Nhật Nam lại nổi dậy. Triều đình Nhà Hán phản
ứng bằng cách bổ nhiệm lại Hạ Phương làm thứ sử Giao Chỉ. Hạ Phương là
người đã bình định được cuộc nổi dậy năm 144 bằng phương pháp hòa bình
và được dân chúng yêu thích. Phương sang Giao Chỉ và áp dụng một chính
sách hòa giải làm yên được các cuộc nổi loạn.
Lúc
này, không phải chỉ có miền Nam mới có biến động, ở phương Bắc tại các
vùng núi hiện nay thuộc các tỉnh Quảng Tây và Quí Châu, cũng thuộc Giao
Chỉ Bộ, các dân tộc thiểu số cũng vùng lên. Năm 178 thái thú quận Nam
Hải (Quảng Châu hiện nay) nổi loạn. Dưới sự lãnh đạo của một người tên
là Lương Long, toàn thể các quận thuộc Giao Chỉ Bộ đều nổi lên. Đây là
lần đầu tiên toàn thể các quận thuộc Giao Chỉ Bộ nổi dậy một lúc như
vậy. Thứ sử Châu Ngung bất lực. Năm 181, Hán cử Chu Tuấn xuống chinh
phục lại Giao Chỉ. Chu Tuấn là một trong những tướng tài của nhà Hán,
sau này có công trong việc dẹp loạn Khăn Vàng và là người đỡ đầu cho Lưu
Bị, người sáng lập ra nhà Thục Hán về sau. Chu Tuấn chia quân ra làm
hai đạo và trước khi đi xuống miền Nam, cử người xuống trước dụ dỗ các
phần tử thân Hán. Chu Tuấn thành công trong việc dẹp yên được cuộc nổi
dậy này, Lương Long bị bắt đem giết. Nhưng chẳng bao lâu sau tình trạng
loạn lạc lại bùng lên. Phía Bắc loạn Khăn Vàng bùng nổ, Chu Tuấn bị kêu
trở về Bắc để lại con là Chu Phúc cai trị thay thế. Ðến năm 184, dân
chúng lại nổi lên giết thứ sử. Hán cử Giả Sung, một viên quan thanh liêm
sang làm thứ sử.
Giả
Sung đến nơi, đưa ra một bản bố cáo gồm năm điểm, trong đó quan trọng
nhất là điều thứ năm, hứa sẽ chọn những người tốt cho làm quan. Với
chính sách này hòa bình được nhanh chóng vãn hồi. Nhưng Giả Sung chỉ cai
trị được ba năm rồi được thăng thưởng và bổ nhiệm lên phương Bắc. Chính
sách của Gỉa Sung bổ nhiệm những viên chức thanh liêm từ các đại gia
địa phương là một cơ hội lớn cho những gia đình quý tộc Hán Việt tại
đây, mở đường cho những cố gắng đầu tiên dành tự trị cho địa phương và
sau này là độc lập.
Năm
196, đế quốc Hán tan rã thành nhiều sứ quân, khởi đầu cho giai đoạn Tam
quốc trong lịch sử Trung Hoa. Phía Bắc họ Tào sẽ thành lập nhà Ngụy vào
năm 220, sau đó họ Lưu tại Tứ Xuyên và họ Tôn ở Nam Kinh cũng sẽ lần
lượt lập ra các nhà Thục Hán và nhà Ngô.
Phản
ánh uy quyền gia tăng của địa phương với trung ương, nhà Hán phải lập
ra chức Mục Bá trao quyền hành rộng rãi cho các thứ sử địa phương. Nhưng
Giao Chỉ Bộ không được quyền lợi này. Trong giai đoạn này thứ sử Giao
Chỉ là Trương Tân. Tân là một người rất mê đạo Lão. Vì đạo Lão là một
yếu tố quan trọng trong việc nổi loạn Khăn Vàng cho nên điều này có thể
giải thích vì sao Trương Tân lại bị đổi đi Giao Chỉ thay vì được giữ một
chức vị khác ở trung nguyên. Nhưng quyền hành thật sự trong quận Giao
Chỉ lúc đó nằm trong tay Sỹ Nhiếp giữ chức thái thú quận Giao Chỉ. Tân
phải lo cho hai quận Thương Ngô và Uất Lâm ở phía bắc Giao Chỉ Bộ vốn
đang bị Lưu Biểu lĩnh chức Kinh Châu Mục dòm ngó. Cuộc chiến giữa Tân và
Biểu diễn ra thường xuyên. Nhiếp lúc đó ủng hộ Tân. Triều đình Hán thì
quá xa để có thể giúp gì cho Trương Tân ngoài việc chuyển bộ Giao Chỉ
thành Giao Châu và phong Tân làm Giao Châu Mục. Năm 205, Tân bị chính
một bộ tướng của mình ám hại. Lưu Biểu lập tức sai Lại Cung sang thay
thế Tân. Hán triều phản ứng bằng cách phong cho Sỹ Nhiếp làm An Viễn
tướng quân coi cả bảy quận của Giao Chỉ bộ và giao cho Nhiếp việc kháng
cự lại Lưu Biểu. Với Sỹ Nhiếp, giới môn phiệt Hán Việt đã đạt được quyền
lực tối cao tại Giao Chỉ.
Những
tài liệu về lịch sử trên cho thấy, mặc dầu bị thâm nhiễm sâu xa văn hóa
Hán và có thể hầu hết gốc là người Hán, nhưng tầng lớp quý tộc mới này,
tạm gọi là lớp quý tộc Hán Việt dần dà đã Việt hóa và trở thành tầng
lớp lãnh đạo hầu hết các cuộc khởi nghĩa chống lại sự thống trị của các
triều đại Trung Quốc sau này. Có nhiều lý do để giải thích sự kiện đó.
Giao Chỉ là một trong những nơi mà chính quyền Trung Quốc dùng để lưu
đày những thành phần bị coi là chống đối với vương triều đương thời hoặc
là những kẻ bị thất thế trong những cuộc đấu tranh nội bộ dành quyền
lực trong triều đình. Những người này, khi xuống miền nam, đã có sẵn
tinh thần chống đối với chính quyền phương bắc và dễ dàng hội nhập vào
xã hội sở tại cũng như là lãnh đạo các cuộc chống đối.
Mặt
khác, Giao Chỉ là đất cực nam của đế quốc Hán, số lượng những người Hán
di cư xuống ở Giao Chỉ không có bao nhiêu vì vậy những gia đình Hán
định cư tại đây, dần dà bị hấp thụ vào trong xã hội Lạc. Một trong những
trường hợp điển hình của việc này là Lý Bí tức Lý Nam Ðế.
5.2. Sỹ Nhiếp và sự hình thành tầng lớp môn phiệt Lạc Việt
Lý
Bí là người Việt đầu tiên xưng đế hiệu, tách mình ra khỏi đế quốc Hán
tộc. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Lý Bí người Long Hưng, Thái Bình, có
tổ tiên là người Hán. Vào cuối đời Tây Hán, khổ vì loạn lạc, gia đình tổ
tiên ông lánh sang ở Giao Châu, sau bảy đời trở thành người Nam. Trường
hợp Lý Bí có thể so sánh với trường hợp Sỹ Nhiếp. Tiên tổ của Sỹ Nhiếp,
vốn người Vấn Dương nước Lỗ, thời Vương Mãng cũng lánh nạn sang châu
Giao đến đời thứ sáu là Sỹ Nhiếp (Tam Quốc Chí - Sỹ Nhiếp truyện).
Như vậy, thế hệ mà tổ tiên Lý Bí bắt đầu được coi là người Nam nằm đúng
trong thời Sỹ Nhiếp cai trị vùng đất Giao chỉ. Trường hợp Lý Bí không
phải là trường hợp độc nhất của một gia tộc người Hán trở thành người
Nam trong thời đại của Sỹ Nhiếp. Để tìm hiểu lý do có sự chuyển biến
này, ta phải quay lại một chút về những gì xảy ra tại Trung Quốc và Giao
Châu trong thời Tam Quốc.
Trước
hết ta thử tìm hiểu về Sỹ Nhiếp. Tổ tiên họ Sỹ gốc ở Sơn Đông, chạy
loạn Vương Mãng cuối đời Tây Hán xuống định cư tại Thương Ngô, trị sở
của Giao Chỉ Bộ lúc đó. Gia đình họ Sỹ là tiêu biểu cho những gia đình
di dân người Hán tại vùng đất thuộc địa này. Họ được triều đình thống
trị Trung Quốc ưu đãi vì coi như là những đại diện cai trị. Mặt khác, họ
lại có những liên hệ mật thiết với dân chúng Lạc địa phương. Dưới đời
Hoàn Đế nhà Đông Hán, Sỹ Tứ được bổ nhiệm làm thái thú Nhật Nam, khởi
đầu cho việc tham chính của dòng họ Sỹ.
Sỹ
Nhiếp là con trưởng của Sỹ Tứ. Sinh năm 137, thời trẻ Nhiếp đã từng đến
Dĩnh Xuyên để học kinh Xuân Thu và kinh Thư với Lưu Tử Kỳ. Sau khi đậu
Hiếu Liêm, Nhiếp được cử vào triều lĩnh chức thượng thư lang. Khi cha
chết, Nhiếp trở về quê ở Thương Ngô. Hết tang, Nhiếp được cử Mậu Tài và
được bổ làm huyện lệnh tại Tứ Xuyên. Khi Giả Sung sang làm thứ sử, Nhiếp
được thăng thái thú Giao Chỉ. Giữa Nhiếp và Chu Phúc con Chu Tuấn có
một sự cạnh tranh kịch liệt. Phúc là người ngoài, chỉ tùy thuộc vào đội
quân riêng gồm những người Hán đi theo mình, trong khi đó Nhiếp là một
người địa phương, có một sự ủng hộ rộng lớn trong dân chúng. Sử Trung
Hoa chép, Phúc bị giết bởi đám cướp người Man, ta có thể nghi ngờ rằng
có bàn tay Sỹ Nhiếp trong việc này, vì khi Phúc chết, Nhiếp đã nhanh
chóng nắm lấy quyền kiểm soát toàn bộ Giao Chỉ. Nhiếp phong cho ba người
em làm thái thú Hợp Phố, Cửu Chân và Nam Hải.
Cũng
trong lúc này, nhiều chuyện quan trọng xảy ra ở phương Nam. Năm 192,
một người tên là Âu Liên nổi lên giết huyện lệnh Tượng Lâm, và tự xưng
làm vua, thành lập ra nước Lâm Ấp. Cùng lúc với sự xuất hiện của Lâm Ấp
là sự phát triển của vương quốc Phù Nam. Phù Nam được thành lập vào thế
kỷ đầu tiên sau công nguyên tại đồng bằng sông Cửu Long. Sang thế kỷ thứ
hai, vua nước Phù Nam mở rộng đất đai bằng cách tấn công các nước láng
giềng, chinh phục hơn mười vương quốc dọc theo đường hàng hải tới tận
bán đảo Mã Lai và Sumatra. Thủ đô của Phù Nam, Óc Eo, đã cho thấy nhiều
bằng chứng có liên hệ với phương Tây. Các đồng tiền cổ La Mã có khắc
hình Antonius Pius và Marcus Aurelius đã được tìm thấy tại đây. Năm 166,
một nhóm thương gia tự xưng là đại diện của Marcus Aurelius đã đến Long
Biên lỵ sở của Giao Chỉ Quận, trên đường đi đến kinh đô nhà Hán tại Lạc
Dương. Thời gian này chính là thời gian cực thịnh của Phù Nam với toàn
bộ đường hàng hải từ eo biển Malacca cho đến Giao Chỉ nằm trong tay sự
kiểm soát của vương quốc này. Liên lạc giao dịch giữa Đông và Tây Á yên
bình, thành ra việc buôn bán giữa Đông và Tây trở nên tấp nập. Sự phồn
vinh của Giao Chỉ dưới thời Sỹ Nhiếp một phần là hậu quả của chuyện đó.
Và chính sự phồn vinh này đã mang lại sức mạnh kinh tế cho thế chính trị
của Sỹ Nhiếp và giúp ông đối phó một cách hữu hiệu với tình thế biến
đổi ở phương Bắc.
Xã hội Giao Chỉ dưới thời Sỹ Nhiếp
Những
biến động tại Trung Quốc vào cuối đời Hán hầu như không có ảnh hưởng gì
đến khu vực Sỹ Nhiếp cai trị. Lúc này là thời hoàng kim của nền văn
minh thương mại Đông Nam Á và quận Giao Chỉ đóng một vai trò quan trọng
trong nền văn minh này. Sỹ Nhiếp đóng đô tại Luy Lâu (gần Hà Nội) hiện
nay. Luy Lâu là một trung tâm chính trị quan trọng ngay từ đầu thời Đông
Hán. Đối với dân chúng, Nhiếp là một vị quan mẫu mực. Tam Quốc Chí của Trần Thọ nhận định về Sỹ Nhiếp như sau :
"Nhiếp
có học vấn rộng rãi và rất rành việc cai trị. Đối với kẻ dưới khiêm
cung, kính trọng kẻ sỹ, rộng lượng và cởi mở. Trong thời đại lọan, Nhiếp
đã giữ yên ổn cho một vùng rộng lớn. Trong hơn hai mươi năm trời, ông
đã ngăn chặn được biến loạn trong vùng khiến cho dân chúng có thể yên ổn
làm ăn".
Tuy
nhiên, như đã nói ở trên, sự phồn vinh của Giao Chỉ trong thời kỳ Sỹ
Nhiếp chính trùng với việc phát triển và cực thịnh của một nền văn minh ở
phương nam, nền văn minh Phù Nam. Điều này được chứng tỏ bởi sự hiện
diện của những người sách Hán gọi là Hồ trong đám tòng nhân của Sỹ
Nhiếp. Tam Quốc Chí chép :
"Mỗi
khi Nhiếp ra ngoài, có nhã nhạc nổi lên, xe ngựa chiếm đầy đường, những
tòng nhân người Hồ thắp nhang tháp tùng, thê thiếp hàng chục người đi
theo trên những chiếc xe che kín".
Hồ
là tên người Hán dùng để gọi những người Trung Á và Ấn Độ. Vào thời
này, tại Bắc Ấn, đế quốc Kushana đang hưng thịnh, mở rộng các đường dây
liên lạc thương mại và truyền bá Phật Giáo ra khắp châu Á. Giao Châu là
một nơi tiếp xúc chính của những nguồn ảnh hưởng từ phương Tây tới. Đến
đây là lúc chúng ta cần nói đến tình hình Ấn Độ và việc phát triển Phật
Giáo Đại Thừa.
Đế quốc Kushana và sự phát triển của Phật Giáo tại Việt Nam
Cuộc
xâm lăng Ấn Độ của Alexander Đại Đế đã để lại một số những vương quốc
do người Hy Lạp lập nên tại miền Bắc Ấn, Pakistan và Afghanistan hiện
nay. Những vương quốc này dần dần hấp thụ và phối hợp văn hóa Ấn Độ và
Hy Lạp tạo nên một nền văn minh mới, văn hóa Bactria. Đến đầu công
nguyên thì các vương quốc này bị một nhóm người khác mới đến từ vùng
Trung Á thay thế. Những cuộc xâm lăng mở rộng cương vực của triều Hán đã
đẩy những dân du mục Trung Á, Hung Nô, Nguyệt thị về phía Tây và Nam.
Môt nhóm dân tộc này, sử Hán chép là Đại Nguyệt Thị vượt qua hồ Aral tại
Tây Bá Lợi Á và dần dà tiến về phía Ấn Độ. Thế kỷ thứ 1 sau Công
nguyên, Kujula Kadphises, vua Nguyệt Thị chinh phục vùng Bắc Ấn và lập
ra đế quốc Kushana, một đế quốc bao gồm một vùng rộng lớn chiếm hầu hết
Pakistan hiện nay và lan rộng đến lưu vực sông Hằng.
Chính
vào thời đại này, trong Phât Giáo xuất hiện một thay đổi lớn. Phật Giáo
nguyên thủy kể từ khi Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, đã được truyền bá đi
khắp Ấn Độ nhưng đến sau đời vua Asoka (A-Dục) thì bắt đầu phân hóa và
suy thoái. Một số các trường phái mới xuất hiện với truyền thống riêng
và cung cách diễn giải những lời Phật dậy riêng. Có tất cả 18 trường
phái xuất hiện, mà một số sau này sẽ hợp lại tạo ra Phật giáo Đại thừa.
Theo truyền thuyết, Phật Giáo Đại Thừa được thành lập vào khoảng thế kỷ
thứ ba trước Công nguyên bao gồm các giáo phái Madhyamika (Bát Nhã),
Yogacara, Saddhamapundarika (Diệu Pháp Liên Hoa) và Dhyana (Thiền ở Việt
Nam và Trung Hoa, Zen tại Nhật Bản). Thế kỷ thứ 2 sau công nguyên,
(cuối đời Hán và trước Sỹ Nhiếp khoảng 50 năm) nhà triết gia vĩ đại nhất
của Phật Giáo Đại thừa, Nagarjuna (ta gọi là Long Thụ Bồ tát) xuất hiện
và chỉnh lý lại các giáo lý cũ. Ông và đệ tử ông là Aryadeva có thể coi
như là những người sáng lập ra Phật Giáo Đại Thừa sau này. Quan điểm
chính trong bộ kinh Đại Tạng của ông viết ra là cả chủ thể và khách thể
trong vũ trụ đều là ảo ảnh và chỉ có một chân lý thật sự vượt ra ngoài
mọi chuyện quán tưởng của con người mà ta chỉ đạt được khi "ngộ" đạo.
Những ai đạt được mức ngộ đó tức là thành Phật.
Phật
Giáo Đại Thừa xuất hiện và phát triển đúng vào lúc đế quốc Kushana đang
thịnh. Cũng như sau này đạo Thiên Chúa La Mã được các nước đế quốc
phương Tây lợi dụng để bành trướng ảnh hưởng, đế quốc Kushana cũng dùng
Phật Giáo Đại Thừa để tạo ảnh hưởng cốt nắm quyền kiểm soát các con
đường thương mại giữa Đông và Tây. Các nhà truyền giáo được gởi đi qua
hai ngả, mạn Bắc vượt qua vùng Trung Á theo con đường lụa vào Trung Quốc
và mạn nam theo đường biển qua Tích Lan, Sumatra, Java, Phù Nam, Lâm
Ấp, Giao Chỉ vào miền Nam Trung Quốc. Thành Luy Lâu lúc đó trở thành một
trung tâm Phật Học lớn cho toàn vùng. Những nhà sư truyền giáo từ Ấn Độ
sang thường dừng bước tại Luy Lâu và những tăng lữ người Hoa sang Ấn Độ
thỉnh kinh thường cũng dừng lại đây để học tiếng Sanskrit trước khi
khởi trình.
Một
trong những nhà sư nổi tiếng sử còn chép lại là Khương Tăng Hội. Ông
không biết họ gì, chính tên của ông chỉ có nghĩa là vị sư người Khương
tên là Hội. Khương là tên người Hoa gọi một sắc dân tại Trung Á, thuộc
đế quốc Kushana hồi đó. Sử chép, gia đình Tăng Hội gốc người Khương
nhưng đã mấy đời sống tại Thiên Trúc (Ấn Độ). Đến đời phụ thân ông, buôn
bán tại Giao Chỉ và định cư tại đây. Sau khi song thân mất, Tăng Hội,
lúc đó mười tuổi, thụ nghiệp làm sư. Ông học tất cả các kinh điển của cả
Phật lẫn Nho và có công phiên dịch nhiều cuốn kinh Phật từ chữ Phạn
sang chữ Hán. Sau này ông vân du lên phía Bắc và lập ra nhiều ngôi chùa.
Năm 247 sau Công nguyên, ông đến Kiến Nghiệp (Nam Kinh) thuyết phục Ngô
chủ Tôn Quyền theo Phật Giáo và mang đạo Phật vào triều đình Ngô. Ông
tạ thế năm 280 sau công nguyên.
Khương Tăng Hội không phải là Hồ Tăng độc nhất đến Giao Chỉ đươc ghi trong sử. Trong cuốn "Lịch sử Phật Giáo Việt Nam từ khởi thủy cho đến thế kỷ 13",
ông Trần Văn Giáp có chép đến một số người khác như một vị sư Thiên
Trúc tên là Kalyanaruci đã dừng lại dịch kinh Phật tại Giao Chỉ vào thế
kỷ thứ 3 và một vị sư Ấn Độ khác tên là Jivaka đã đến Phù Nam và sau đó
đi dọc lên theo bờ biển làm nhiều phép lạ để sau cùng đến Lạc Dương vào
cuối thế kỷ thứ ba. Những điều này cho thấy đất Việt Nam hồi đó phải là
một trung tâm khá quan trọng trên đường truyền bá kinh Phật cũng như
thương mại giữa hai nền văn minh Ấn Hoa. Liên hệ giữa những người lái
buôn nước ngoài và sự phổ biến của Phật Giáo diễn tả một tình trạng tiêu
biểu trong thời Sỹ Nhiếp. Dưới thời ông, Phật Giáo đã được truyền bá
mạnh mẽ và có thể coi là đại biểu của nền văn hóa từ phương nam đi lên.
Tổng hợp Nho Phật : Sự xuất hiện của văn hóa Lạc Việt
Song
song với việc phổ biến Phật giáo, là việc mở rộng Nho Học. Loạn lạc tại
Trung Nguyên đã khiến cho một số những học giả người Hán chạy xuống
miền Nam. Ðám này gồm có một số nho giả thật sự rành rõi kinh sử đi theo
Chu Tuấn xuống miền Nam rồi tỵ nạn tại đây. Tuy rằng, sau này khi Sỹ
Nhiếp thần phục Tôn Quyền, một số đã trở về Bắc hoặc chạy sang Thục theo
Lưu Bị, nhưng trong lúc ở lại đây họ đã đóng một vai trò quan trọng
trong việc truyền bá Nho giáo vào Giao Chỉ.
Giai
đoạn Sỹ Nhiếp là một giai đoạn thành lập của văn hóa Lạc Việt. Cả ba
trào lưu, Nho, Phật, Lão đều được thịnh hành. Đạo Phật, như đã trình bày
rất thịnh, thành công trong việc đi sâu vào trong lòng người dân Lạc và
kết nạp tôn giáo cổ thờ lâm thần và thủy thần của người Lạc thời cổ.
Trong khi đó Nho Giáo trở thành ý thức hệ của tầng lớp lãnh đạo phần lớn
là người Hán di dân hoặc những thành phần địa phương muốn được nhận vào
hàng ngũ thống trị. Đạo Lão được du nhập vào Giao Chỉ đồng thời với đạo
Nho. Lão Giáo tuy hiện nay thường được coi như là một đạo giáo yếm thế
thoát tục, nhưng vào thời đó Lão Giáo còn có tinh thần chính trị rất
mạnh chống lại chế độ phong kiến Nho Giáo. Tinh thần đối kháng đó sau
này sẽ được đồng hóa vào tinh thần dân tộc của dân Lạc cổ tạo ra một đặc
tính của dân Việt hiện đại. Trong thời này đã có nhiều đạo sỹ đi xuống
miền Nam tu luyện và truyền đạo.
5.3. Từ Lạc đến Việt : Sự chuyển mình của dân tộc Việt Nam
Cộng
với nền văn hóa cổ truyền của dân Lạc, ba nguồn văn hóa khác từ phương
nam lên và từ phương bắc xuống đã được dung hợp để tạo thành một nền văn
hóa mới, nền văn hóa Lạc Việt. Nhưng để đạt được sự dung hợp này, dân
Lạc cũng được nhờ vào một số những điều trùng hợp xảy ra bắt họ phải tự
tạo cho mình một sắc thái mới. Thứ nhất, việc chia Giao Châu thành ra
hai châu Quảng và Giao dưới thời Tôn Quyền đã tách bốn quận miền Bắc
thuộc các tộc Bách Việt cũ ra khỏi ba quận miền Nam thuộc văn hóa Lạc.
Sự phân tách này đã khiến cho bốn quận trên mau chóng bị Hán hóa nhưng
lại giúp cho vùng Giao Châu dưới sự cai trị của Sỹ Nhiếp cách ly được
những áp lực trực tiếp do sự di cư của người Hán xuống miền Nam.
Sự
cách ly đó có thể khiến đất Giao Chỉ hội nhập vào với nền văn hóa Nam
phương từ Ấn Độ sang nếu không có sự kiện rằng vùng đất Nhật Nam đã tách
ra từ cuối đời Đông Hán để trở thành nước Lâm Ấp. Những cuộc xâm lăng
liên tục của Phù Nam và Lâm Ấp đã khiến dân Lạc đã không hấp thụ được
nhiều những ảnh hưởng văn hóa từ phương Nam mà càng ngày càng gắn bó vào
với nền văn minh Trung Quốc nhưng lại không trở thành một phần của
Trung Quốc. Lạc đã trở thành Việt.
Họ Sỹ diệt vong
Cuộc
đàn áp của Mã Viện với sự tiêu diệt tầng lớp lãnh đạo dân Lạc cũ tại
Giao Chỉ cộng thêm với sự Hán hóa xã hội Lạc đã dập tắt một phần nào các
sự chống đối chế độ cai trị của Hán trong nhiều năm tại Giao Chỉ. Chỉ
đến khi một tầng lớp lãnh đạo mới, giai cấp quý tộc Việt nổi lên thì
cuộc đấu tranh dành độc lập của dân tộc Việt Nam mới bắt dầu mạnh trở
lại. Nhưng tại Cửu Chân, vốn là vùng đất biên duyên của xã hội Lạc cũ,
tiến trình Hán hóa và đàn áp không được đẩy mạnh như tại Giao Chỉ. Và
chính tại đây những thành phần cũ của xã hội Lạc đã nổi lên một lần chót
trước khi tàn lụi để nhường chỗ cho một tầng lớp mới tiếp tục cuộc đấu
tranh cho đến lúc thành công, đó là cuộc khởi nghĩa của bà Triệu. Nhưng
để tìm hiểu cuộc khởi nghĩa này chúng ta phải trở lại bối cảnh của châu
Giao đương thời và trước đó.
Sau
cuộc đàn áp của Mã Viện, các cuộc khởi nghĩa của nhân dân Giao Chỉ và
Cửu Chân đã trầm lắng trong một thời gian dài, nhưng tại Nhật Nam, vùng
đất cực nam của đế quốc Hán, nền tảng của chính quyền cai trị không được
vững mạnh. Chính vì vậy sự bóc lột của chính quyền Đông Hán đã khiến
nhân dân nổi dậy và cuối cùng đã thành công trong việc thành lập một nhà
nước mới, nhà nước Lâm Ấp mà sau này trở thành Chiêm Thành. Biên giới
đế quốc Hán thu lại chỉ còn tới bờ sông Gianh (Linh giang). Được sự ủng
hộ của đồng bào bên kia biên giới, nhân dân Cửu Chân đã nhiều lần nổi
dậy chống lại Hán triều. Năm 144, nhân dân Cửu Chân nổi lên cùng với sự
ủng hộ của một ngàn dân Nhật Nam đánh phá các thành ấp. Thứ sử Giao Châu
là Hạ Phương đã mang quân đàn áp mạnh cuộc khởi nghĩa đó. Đến năm 157,
truớc sự tham tàn của tên huyện lệnh huyện Cư Phong, người huyện này là
Chu Đạt đã nhóm họp nhân dân nổi lên giết huyện lệnh rồi tiến quân phá
lỵ sở của quận Cửu Chân (Tư Phố).
Về
cuối đời Đông Hán, chính sự trung ương suy đồi, các quan lại địa phương
mặc tình tham nhũng bóc lột nhân dân khiến cho các cuộc khỏi nghĩa càng
ngày càng nhiều. Đặc biệt các cuộc khởi nghĩa này không những bao gồm
chỉ dân Lạc không mà cả những người Hán ngụ cư và dần dà trở thành người
Nam. Cuộc khởi nghĩa của Chu Đạt là một trường hợp điển hình. Chu Đạt,
người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, không hề được nhắc tới trong sử Việt
Nam. Trái lại cuộc nổi dậy này đã được nhắc nhiều tới trong sử Trung
Quốc. Điều này có thể chỉ cho ta thấy rằng Chu Đạt không phải là người
Lạc mà là người Hán. Cuộc khởi nghĩa của Chu Đạt không bị thất bại vì
một lực lượng mang từ Trung Quốc sang nhưng đã bị thất bại khi bị đô úy
Cửu Chân là Ngụy Lãng với một đạo binh địa phương khác đánh thua. Điều
này cho thấy tầng lớp lãnh đạo Hán Việt vào thời này hãy còn chia rẽ
chưa biết là Hán hay là Việt. Cuộc nổi dậy của Chu Đạt chỉ giới hạn
trong địa phận Cửu Chân. Điều này chứng tỏ rằng xã hội Hán Việt hãy còn
chỉ mới phát triển mạnh tại vùng trung ương mà chưa lan sang đến các
quận ngoài biên. Ngoài ra việc Chu Đạt nổi lên tại huyện Cư Phong là một
điều khác đáng chú ý. Cư Phong là một huyện miền núi của Thanh Hóa, Chu
Đạt có thể là một viên chức coi giữ việc quân ở huyện này.
Tình
hình xã hội trở nên ổn định hơn vào lúc mạt kỳ Đông Hán, khi Sỹ Nhiếp
lên nắm chính quyền ở Giao Chỉ và mở cửa thông thương với vùng Đông Nam
Á. Sỹ Nhiếp đầu tiên theo nhà Hán tại Lạc Dương, nhưng khi đế quốc Hán
bị phân chia thành ba trong thời Tam Quốc thì Nhiếp hàng Ngô và được Ngô
cho tiếp tục cai trị vùng Giao Chỉ và Cửu Chân. Sau khi Nhiếp chết, Tôn
Quyền bắt đầu tìm cách lấy lại việc cai trị trực tiếp vùng này.
Khi
họ Sỹ hàng Ngô, Tôn Quyền cử Bộ Trắc sang làm thứ sử châu Giao. Thủ phủ
của châu Giao được đổi từ Thương Ngô sang Nam Hải (nay là Quảng Châu).
Năm 211, khi Lưu Bị mang quân đánh Ngô báo thù cho Quan Vũ, Bộ Trắc mang
theo mười ngàn binh sỹ Giao Châu về giúp Tôn Quyền chống lại Lưu Bị.
Phá xong Lưu Bị, Bộ Trắc được Tôn Quyền giữ lại ở Hồ Nam để phòng Thục,
và đưa Lữ Đại sang thay làm thứ sử Giao Châu đóng ở Nam Hải. Lữ Đại thấy
châu Giao quá rộng nên đề nghị với Tôn Quyền tách Giao Châu ra làm hai
với bốn quận phía Bắc (Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm và Hợp Phố) lập
thành một châu mới gọi là Quảng Châu, lỵ sở ở Nam Hải ; còn ba quận còn
lại (Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam) làm Giao Châu. Việt Nam ngày nay và
vùng Bách Việt cũ bắt đầu tách ra từ đó.
Sỹ
Nhiếp chết vào năm 226 thọ được 90 tuổi. Ngay sau đó, Tôn Quyền phong
Sỹ Huy con Sỹ Nhiếp làm An Viễn tướng quân. Tuy nhiên để giảm bớt uy
quyền của họ Sỹ, Quyền đổi Huy sang làm thái thú Cửu Chân và cử Trần Thì
sang làm thái thú Giao Chỉ ; Đái Lương làm thứ sử Giao Châu. Khi Đái
Lương và Trần Thì đến Giao Chỉ thì Sỹ Huy đã dàn quân tại biên giới ngăn
chặn và cả hai phải dừng lại tại Hợp Phố. Trước sự chống đối của Sỹ
Huy, Tôn Quyền phong Lữ Đại kiêm nhiệm thứ sử châu Giao và mang quân
đánh Sỹ Huy. Đại dùng mưu dụ Sỹ Huy hàng rồi giết hết cả tông tộc họ Sỹ.
Hành
động phản bội này đã khiến cho nhân dân châu Giao nổi dậy chống lại Lữ
Đại. Đại đàn áp thẳng tay, giết chết hàng vạn người. Lữ Đại ở lại Giao
Châu năm năm. Trong thời gian này hai châu Giao và Quảng lại được sáp
làm một. Và mặc dầu những đàn áp tàn khốc của Lữ Đại, dân chúng trên
toàn hai châu tiếp tục nổi dậy. Tam Quốc Chí - Ngô thư chép rằng
"miền biên giới, bốn quận Nam hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Châu Quan vẫn
chưa yên". Ngoài ra, trong suốt thời gian này, Lữ Đại chưa bao giờ thành
công trong việc giữ ổn định vùng biên giới với Lâm Ấp. Và mặc dầu Đại
nói đã bình định được Cửu Chân, nhưng ngay sau khi Đại rời nhiệm sở, Ngô
đã phải cử Chu Trị mang quân sang Cửu Chân để "bình định đám Di Việt"
Lữ
Đại bị gọi về Ngô vào năm 231 để trấn áp một cuộc nổi dậy khác ở Hồ
Nam. Các quan lại nhà Ngô sang thay thế đã ra sức áp bức bóc lột nặng nề
nhân dân châu Giao. Nông dân bị bắt đi lao dịch xa ; thợ thủ công bị
trưng dụng gởi sang Kiến Nghiệp, thương nhân bị cấm đi lại buôn bán. Các
nguồn lợi về thương mại quốc tế nay bị thâu thẳng về Ngô. Theo Hậu Hán
Thư "kẻ lữ hành không qua lại buôn bán, nhân dân không có của cải gì để
sống, người nghèo khó chết đói đầy đường". Tình hình đã chín mùi để có
một cuộc khởi nghĩa rộng lớn mới.
Bà Triệu khởi nghĩa : sự vùng dậy cuối cùng của xã hội Lạc cũ
Cuộc
nổi dậy bắt đầu với việc xâm lăng của Lâm Ấp. Năm 248, Lâm Ấp mở rộng
thế lực của mình lên phía Bắc, chiếm hết phần còn lại của quận Nhật Nam
và tiến quân vào Cửu Chân. Một đội quân của Ngô đụng với quân Lâm Ấp ở
biên giới Cửu Chân và bị thua. Nhân cơ hội, nhân dân toàn thể châu Giao
nhất tề nổi dậy chống lại sự thống trị của triều đình Ngô. Một số huyện
thành bị thất thủ, "toàn thể Giao Châu chấn động" (Tam Quốc Chí - Ngô Thư).
Nhà Ngô cử Lục Dận làm thứ sử Giao Châu lãnh chức An Nam hiệu úy (danh
từ An Nam lần đầu tiên xuất hiện từ đây) mang tám ngàn quân sang đàn áp.
Lục
Dận tiến binh vào Giao Chỉ, dùng mưu mô dụ dỗ mua chuộc khiến ba nghìn
nhà ở Cao Lương dưới quyền thủ lãnh Hoàng Ngô đầu hàng. Sau đó Dận tiến
binh vào Cửu Chân, một mặt dùng của cải tiền bạc mua chuộc những thủ
lĩnh nghĩa quân, mặt khác ra sức trấn áp những lực lượng không chịu thần
phục. Ngô Thư chép Dận đã dụ hàng được hàng trăm thủ lãnh nghĩa
quân và năm vạn nhà dân. Cuộc khởi nghĩa của bà Triệu chính nằm trong
bối cảnh đó.
Theo
các sử liệu Việt Nam, bà Triệu húy là Triệu Thị Trinh sinh năm Bính Ngọ
(226). Bà là em ruột Triệu Quốc Đạt, một tù trưởng ở Cửu Chân - điều
này cho thấy bà là dòng dõi một lạc tướng của dân Lạc cũ - Năm 19 tuổi,
(245) bà cùng anh chiêu mộ binh mã chuẩn bị chống Ngô. Có người khuyên
bà lấy chồng, bà nói "Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ,
chém cá tràng kình ở biển đông đánh đuổi quân Ngô, dựng lại giang sơn,
cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp
người". Bà giết chị dâu, một tên phản nghịch, rồi cùng anh bỏ lên núi
luyện tập sỹ tốt. Sau hai anh em khởi binh đánh phá quận huyện. Đến trận
thứ 39 thì Triệu Quốc Đạt chết. Bà tự mình chỉ huy, xưng là Nhụy Kiều
Tướng Quân.
Sau
nhà Ngô sai Lục Dận cầm quân sang đánh. Tuy đã nhiều phen cùng bà giao
chiến nhưng vẫn thua. Lục Dận phong bà là Lệ Hải Bà Vương định mua
chuộc, nhưng bà không chịu. Quân Ngô rất sợ, thường có câu :
Hoành qua đương hổ dị
Đối diện bà vương nan
(Có nghĩa là Vung giáo chống hổ dễ, đối diện bà vương khó)
Về
sau có kẻ phản bội, mách với Lục Dận rằng, bà là nữ tướng nên "ái khiết
úy ô" (yêu cái trong sạch, ghét cái dơ bẩn). Quân Ngô bèn cởi trần
truồng tới đánh. Bà hổ thẹn, giao quân cho ba tướng rồi lên núi Tung
Sơn, lập đàn minh thệ trời đất "sinh vi tướng, tử vi thần" (sống làm
tướng, chết làm thần) rồi tự vẫn.
Câu
chuyện này có nhiều tính chất thần thoại. Chúng ta khó có thể tin được
một người nữ tướng kiên cường như bà Triệu lại có thể vì hổ thẹn bởi cái
sự trần truồng của quân Ngô mà bỏ tướng, bỏ quân lên núi tự vẫn. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư,
bà chống nhau với quân Ngô được năm sáu tháng, nhưng sau vì quân ít thế
cô đánh mãi phải thua. Bà mang quân chạy đến Bồ Điền thì tự tử. Bấy giờ
bà mới 23 tuổi.
Điều
chắc chắn là việc bà Triệu khởi nghĩa hẳn là có thật. Không những ký ức
của nhân dân Việt Nam còn nhớ bà mà cả các sách dã sử của Trung Quốc
như Nam Việt Chí và Giao Châu Ký cũng đều ghi lại hình ảnh bà Triệu, một người con gái cài trâm vàng, mang guốc ngà, cưỡi voi chiến đấu trước trận tiền. Thái Bình Hoàn Vũ Ký,
một bộ sách đời Tống (thế kỷ thứ 10) cũng chép lại chuyện bà Triệu
nhưng đã đưa những hình ảnh xấu xa như nói bà Triệu "vú dài năm thước"
Đáng
chú ý tại đây là tất cả các sách sử của ta đều chép cuộc khởi nghĩa của
bà Triệu, kể cả bộ An Nam Chí Lược của Lê Tắc, một người Việt theo hàng
quân Nguyên và chạy sang Trung Quốc khi quân Mông Cổ bị ta đánh thua,
trong khi chính sử của Trung Quốc (Tam Quốc Chí) không hề nhắc
đến tên tuổi bà. Điều đó cho thấy rõ những sự kiện của năm 248 đã được
hai bên ghi nhớ lại một cách khác nhau. Đối với người Hoa họ chỉ ghi lại
sự thành công của Lục Dận trong việc thu phục và dụ hàng những lãnh tụ
nghĩa quân - có thể là những thành phần Hán Việt bất mãn vì chính sách
bóc lột của Ngô. Còn đối với cuộc khởi nghĩa của bà Triệu, các sử gia
Trung Quốc cho rằng đó chỉ là một cuộc nổi loạn bình thường của dân man
di đương nhiên cần phải dập tắt và không có giá trị lịch sử để được ghi
lại. Nhưng đối với dân Việt, cuộc khởi nghĩa của bà Triệu là sự kiện
đáng ghi nhất của thời đại này. Sau Hai Bà Trưng, bà Triệu là đại biểu
cho tinh thần bất khuất của dân Lạc vốn dù có bị Hán Hóa một phần nhưng
cũng không hề thay đổi.
Những
sự kiện xảy ra trong năm 248 cho ta thấy một xã hội Lạc đang trên đà
chuyển biến sang một xã hội mới. Chính sách bóc lột của nhà Ngô đã đẩy
tất cả các tầng lớp trong xã hội, dù Hán dù Lạc vào vị thế chống đối.
Cuộc xâm lăng của Lâm Ấp đã cung cấp tia lửa cho các cuộc nổi dậy này.
Nhưng giai cấp lãnh đạo mới của Lạc Việt hãy còn phân rẽ, chưa quyết
định mình là Hán hay là Việt. Chính vì thế khác với cuộc khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng, lần này không có một cuộc nổi dậy chung đoàn kết dưới lá
cờ của một lãnh tụ độc nhất mà trái lại, ta có một số đông đảo những
nhóm nhỏ chiến đấu riêng lẻ. Nhờ đó nên Lục Dận mới có thể thành công
chiêu dụ những lãnh tụ nghĩa quân một cách tương đối dễ dàng. Nhưng nếu
tầng lớp quý tộc Hán Việt mới phân rẽ và đầu hàng thì người dân Lạc qua
bà Triệu đã vẫn tiếp tục chiến đấu. Bà Triệu là người đàn bà cuối cùng
lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Việt Nam. Thất bại của bà là
dấu hiệu cáo chung của xã hội Lạc cổ truyền, một xã hội mà có thể đã
phục hồi được phần nào dưới chế độ cai trị cởi mở của Sỹ Nhiếp. Sau bà
Triệu, việc lãnh đạo cuộc đấu tranh dành độc lập chuyển sang tay một
tầng lớp mới : tầng lớp thống trị Lạc Việt.
5.4. Việt và Chàm, hai di duệ của xã hội Lạc : sự thành lập nước Lâm Ấp
Việc
chuyển biến xã hội dân Lạc ở vùng sông Hồng và sông Mã thành Việt đã
được thúc đẩy mạnh hơn bởi sự đấu tranh với một chi nhánh khác cũng của
nền văn hóa Lạc, nhưng lại ngả theo văn minh Ấn Độ. Đó là xã hội Lâm Ấp
hay là Chiêm Thành. Sự hình thành của nước Lâm Ấp tại vùng cực nam của
nước Văn Lang cũ đã là sự kiện quan trọng trong lịch sử nước Việt trong
gần một thiên niên kỷ rưỡi. Phải cho đến khi nước Chiêm Thành hoàn toàn
bị các chúa Nguyễn tiêu diệt vào thế kỷ thứ 17 thì mới kết thúc cuộc
tranh chiến giữa hai giòng của một dân tộc gốc này. Nhưng trước hết
chúng ta hãy thử tìm hiểu về sự xuất hiện của nước Lâm Ấp trong những
năm đầu tiên của thiên niên kỷ thứ nhất.
Cương vực đất Lâm Ấp
Nước
Lâm Ấp phát xuất từ huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam xưa (nay thuộc
tỉnh Quảng Nam). Nhật Nam có thuộc cương vực nước Văn Lang cũ hay không ?
Đó là một điều còn chưa xác định. Nước Văn Lang thời vua Hùng rộng lớn
đến mức nào, đến nay không còn có một tài liệu nào xác định cả. Tất cả
những điều viết về cương vực nước ta thời Văn Lang trong các chính sử
như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư hoặc Việt Sử Thông Giám Cương Mục đều
là những đoán phỏng của các cụ ta dựa vào những sự kiện đời sau. Ngay
cả tên các bộ thuộc nước Văn Lang cũng là lấy tên các huyện thời Hán,
Đường đặt ra cả. Về nước Âu Lạc cũng vậy. Phải đến khi Triệu Đà đánh
chiếm Âu Lạc ta mới thấy chép Triệu Đà chia nước Âu Lạc thành hai quận
Giao Chỉ và Cửu Chân. Khi nhà Hán chinh phục nước Nam Việt, ta cũng chỉ
được thấy chép hai viên điển sứ nhà Triệu đến Hợp Phố đầu hàng nhà Hán
mà không thấy nhắc nhở gì đến Nhật Nam cả.
Nhưng
khi Hán Vũ Đế chia đất Nam Việt ra thành quận huyện thì ta lại thấy có
tên Nhật Nam. Nhật Nam là bộ phận của đất Văn Lang và Âu Lạc từ trước
hay là bị nhà Triệu đánh chiếm sau này rồi nhà Hán tiếp thu và đặt quận
huyện ? Hay là sau khi diệt được nhà Triệu, Hán đã phái quân lâu thuyền
từ Hợp Phố vào chinh phục những bộ lạc từ Quảng Bình trở vào đến Quảng
Nam để lập ra quận Nhật Nam ? Điều đáng ghi nhận là tất cả những điều
này đều có thể xảy ra được, nhưng chúng lại khó có triển vọng là đã xảy
ra. Nhà Triệu, từ Triệu Đà trở về sau đều quá bận rộn với biên giới phía
Bắc để nhắm đến phương Nam. Còn về nhà Hán, ta thấy cũng khó có khả
năng xảy ra một cuộc viễn chinh như vậy. Ngay cả sau khi diệt xong nước
Nam Việt, Lộ Bác Đức cũng đã ngần ngại không tiến quân vào đất Âu Lạc mà
chỉ đóng quân tại Hợp Phố và cho người dụ hàng. Lại nữa, nếu có một
cuộc tiến quân như vậy, chắc hẳn cũng sẽ được nhắc tới trong sử Trung
Quốc. Nhưng Hán Thư của Ban Cố cũng như Sử Ký của Tư Mã
Thiên đều không nhắc nhở gì đến chuyện đánh vào phương Nam cả. Thành ra
quận Nhật Nam có khả năng nhiều là đất cũ của nước Văn Lang thời Hùng
Vương như các sử gia của ta vẫn khẳng định.
Những
khai quật khảo cổ cho thấy những di tích của nền văn minh Đông Sơn đã
có mặt tại Quảng Bình. Trống đồng Đông Sơn cũng được tìm thấy tại Kontum
và nhiều nơi khác trong vùng Tây Nguyên. Điều đó cho thấy những cư dân
tại đây nếu không phải là một thành phần của xã hội Lạc thì cũng có quan
hệ mật thiết với xã hội Lạc của các vua Hùng. Có thể họ là một trong số
mười lăm bộ tộc liên kết lại để bầu lên Hùng Vương và vì vậy sau đó bị
sáp nhập vào với Âu Lạc rồi Nam Việt và sau cùng thuộc Hán. Nhưng trái
với những cư dân tại vùng châu thổ sông Hồng hoặc sông Mã, đây là vùng
biên viễn của đế quốc Hán và vì vậy họ đã mau chóng có cơ hội để thoát
khỏi ách thống trị của Hán tộc.
Quận Nhật Nam dưới thời Lưỡng Hán
Dưới
thời Hán, quận Nhật Nam được chia làm năm huyện : Chu Ngô, Tỷ Cảnh, Lô
Dung, Tây Quyển và Tượng Lâm. Quận trị được đặt tại Chu Ngô (nay thuộc
Thừa Thiên). Đến đời Vương Mãng quận trị được rời sang Tây Quyển (miền
sông Nhật Lệ, Quảng Bình gần Đồng Hới) và đổi tên là Nhật Nam Đình.
Huyện Tượng Lâm là huyện cực nam của quận nằm tại Quảng Nam ngày nay.
Dân cư vùng này thời Hán hãy còn bán khai so với dân tại vùng đồng bằng sông Hồng. Sách Lâm Ấp Ký chép :
"Người
ta đều ở tổ và ngủ trên cây. Thành ngoài tiếp với núi. Gai góc, lau cỏ,
rừng rậm mây trùm, khói che mờ mịt không phải là chỗ người ta ở yên
được... Phía nam huyện Chu Ngô có giống người Văn Lang. Họ ở ngoài đồng
ruộng, rừng rú, không có nhà cửa, chỉ nghỉ ngơi và ngủ trên cây. Ăn cá
sống, làm nghề lấy hương để đổi chác với người nước ngoài. Thật như dân
đời thái cổ".
Còn Trương Trọng, thái thú Nhật Nam thời Hán Minh Đế được dẫn lời trong sách Cổ Kim Thiện Ngôn nói rằng :
"(dân chúng ở đây) tính tình hung hãn, chiến đấu gan dạ, quen ở núi ở nước, không quen đất bằng".
Việc
ở tổ và ngủ trên cây nói trên có thể chỉ việc người ta làm nhà sàn bằng
những thân cây còn để nguyên vỏ, giữ nguyên chạc để gác gỗ, tre làm
sàn, như kiểu "nhà sàn Đông Sơn". Còn việc cư dân quen ở núi, ở nước, có
ý nghĩa rằng cư dân sống chủ yếu là săn bắn, đánh cá thay vì làm ruộng.
Tóm lại dưới thời Hán đa số dân Nhật Nam hãy còn sống một cuộc sống
nguyên thủy, nhưng không phải là họ không biết đến nông nghiệp. Những
nhà khảo cổ đã tìm thấy di tích một hệ thống tưới tiêu nước tại vùng Do
Linh (Quảng Trị) cũng như nhiều cuốc đá.
Trước khi tách ra thành một nước riêng, dân chúng Nhật Nam đã nhiều lần nổi lên chống lại ách cai trị của người Hán. Hậu Hán Thư
chép, năm Vĩnh Nguyên 12 thời Hòa Đế (năm 100 Công nguyên), hơn hai
ngàn người ở huyện Tượng Lâm đã nổi lên cướp phá các huyện trong quận.
Hán phải mộ binh từ các quận Giao chỉ và Cửu Chân đi đánh, chém chết
người cầm đầu mới yên. Nhằm tránh sự nổi lên nữa, một mặt Hán đặt riêng
một đạo quân trú đóng tại Tượng Lâm, mặt khác vào năm 102, Hán triều cho
dân Nhật Nam được miễn ba loại thuế để giảm bớt các bất mãn.
Nhưng
sang đến năm Vĩnh Hòa thứ 2 (137), vùng biên giới này lại nổi lên sóng
gió. Một nhóm người từ bên ngoài biên giới Nhật Nam có tên gọi là Khu
Liên (có thể là đám người Mã Lai) đông đến mấy ngàn người đánh thành và
chùa, giết trưởng lại. Thứ sử là Phàn Diễn, động viên một vạn binh sỹ ở
Giao chỉ và Cửu Chân, đi đánh. Nhưng binh sỹ đã nổi dậy đánh phá quận
trị. Tuy rằng quan lại Hán cuối cùng đã đàn áp được cuộc nổi dậy của
binh sỹ ở hai quận này, nhưng vì thế mà tình hình Nhật Nam càng nghiêm
trọng hơn. Thị ngự sử của Hán là Giả Xương mang quân vào đánh Nhật Nam,
bị thua và bị bao vây trong thành hơn một năm trời, lương thực thiếu
hụt. Triều đình Hán rất là lo âu. Năm sau Hán Thuận Đế phải triệu tập
văn vũ bách quan để hỏi phương lược. Các quan đều bàn sai đại tướng mang
bốn vạn quân các châu Kinh, Dương, Duyện, Dự sang đàn áp nhân dân Nhật
Nam. Nhưng bấy giờ chính tình hình nội bộ bên trong đế quốc Hán cũng gặp
nhiều khó khăn, nhân dân nổi lên mạnh mẽ, nên sau cùng Thuận Đế nghe
lời chức đại tướng tòng sự trung lang là Lý Cố bỏ việc mang đại quân
sang mà dùng kế "dĩ Di công Di" để dẹp loạn. Hậu Hán Thư, Giao chỉ Chuyện chép lời bàn của Lý Cố như sau :
"(Sau khi trình bày bảy lý do tại sao không nên gởi quân viễn chinh sang, Lý Cố nói tiếp) Nay
nên chọn những người có dũng lược, có nhân huệ, có tài tướng soái để
làm chức thứ sử, thái thú, sai họ cùng sang ở Giao Chỉ. Ở Nhật Nam quân
ít, không lương, giữ không được, đánh cũng không xong nên rút hết lại
dân về bắc đưa vào Giao Chỉ, việc xong rồi lại trở về nơi cũ. Lại mộ bọn
Nam Di khiến chúng tự đánh lẫn nhau, mang vàng lụa tư cấp cho chúng. Kẻ
nào làm kế phản gián có thể lấy được đầu giặc sẽ phong hầu, cắt đất mà
thưởng".
Thuận
đế phong Chúc Lương làm thái thú Cửu Chân, Trương Kiều làm thứ sử Giao
chỉ thi hành kế sách của Lý Cố. Cuối cùng cuộc nổi dậy đã bị dẹp yên.
Sáu năm sau, vào năm Kiến Khang nguyên niên (144), dân Nhật Nam lại nổi
lên, kéo theo sự nổi dậy của Giao Chỉ và Cửu Chân, thứ sử Hạ Phương dùng
những hành động mua chuộc và lời lẽ nhẹ nhàng để phủ dụ yên được tình
hình.
Những
cuộc nổi dậy tại Nhật Nam và phản ứng tương đối trái ngược giữa Giao
Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam cho thấy sự bắt đầu hình thành của hai xã hội
mới. Sự phân biệt giữa hai từ "dân" và "di" cho thấy xã hội Lạc cổ tại
Giao Chỉ đã bắt đầu phân hóa, có một tầng lớp khá đông đảo những người
hấp thụ văn hóa Hán, trong khi ở Nhật Nam con số những người này còn rất
nhỏ. Chính vì thế Lý Cố mới có thể đề nghị di tản những người này về
Giao Chỉ để đợi khi yên sẽ đưa họ trở về Nhật Nam. Nhật Nam đã sẵn sàng
để tách ra khỏi đế quốc Hán một khi đế quốc này không còn đủ mạnh để có
thể tiếp tục giữ vùng này bằng vũ lực nữa. Và đó là điều đã xảy ra.
Sự thành lập nước Lâm Ấp
Nước Lâm Ấp được thành lập vào thời Hán mạt. Theo Tấn Thư, Lâm Ấp truyện :
"Lâm
Ấp lập nên vào đời Hán mạt. Cuối đời Hán, viên công tào ở huyện Tượng
Lâm họ Khu có con tên là Liên giết huyện lệnh tự lập làm vua, con cháu
nối dõi nhau. Vua sau không có người kế tự, cháu ngoại là Phạm Hùng lên
thay".
Tấn Thư không chép rõ Lâm Ấp được thành lập vào năm nào thời Hán mạt. Thủy Kinh Chú chép rõ hơn :
"Lâm
Ấp dựng nước bắt đầu từ cuối đời Hán. Trong cuộc loạn thời Sơ Bình
(190-193 Công nguyên) lòng người mang những mối nghĩ khác. Viên công tào
huyện Tượng Lâm họ Khu có con tên là Liên, đánh huyện, giết huyện lệnh,
tự xưng làm vua. Gặp lúc loạn ly, nước Lâm Ấp bèn lập".
Điều
đáng chú ý ở đây là sự trùng hợp giữa tên của tộc người ở ngoài cõi
Nhật Nam - Khu Liên - trong cuộc nổi dậy năm 136 và tên của vị vua sáng
lập nước Lâm Ấp. Đây có lẽ không phải là một sự trùng hợp ngẩu nhiên.
Khu Liên có thể là tên của tộc người và rồi các sử gia Trung Quốc dùng
lầm để chỉ thành tên một cá nhân.
Những
ghi chép trong sử Trung Quốc về sự thành lập của nước Lâm Ấp rất sơ
lược và chắc chắn là có nhiều chỗ thiếu sót. Điều đó có thể thấy qua sự
kiện rằng ngay từ sau khi thành lập, Lâm Ấp đã là một nước mạnh có đủ
thế lực để mang quân lên phía Bắc đánh chiếm quận Nhật Nam.
Đời
thuộc Ngô, khi Lữ Đại làm thứ sử châu Giao, (khoảng năm 226-231) Lâm Ấp
đã bắt đầu sai sứ thông hiếu với Trung Quốc. Tuy nhiên đến năm Xích Ô
thứ 11 đời Ngô Tôn Quyền (248) khi nhân dân Cửu Chân và Giao Chỉ nổi dậy
chống Ngô, thủy quân của Lâm Ấp đã tiến lên đánh quân Ngô ở Cửu Chân.
Lâm Ấp đã thắng Ngô và chiếm được hết vùng Nhật Nam ở phía nam sông
Gianh. Nhà Ngô vì vậy phải bãi bỏ quận Nhật Nam.
Đời
vua sau cùng của triều đại Khu Liên không có con trai, cháu ngoại là
Phạm Hùng lên thay lập nên một triều đại mới. (Theo L.Finot và
G.Maspéro, chữ Phạm ở đây không phải là họ mà là phiên âm của chữ
Varman, tên Phạn của các vua Lâm Ấp và Phù Nam, điều này cho thấy Lâm Ấp
đã chịu ảnh huởng sâu xa của văn hóa Ấn Độ)
Mặc
dù triều đại mới, các cuộc tiến công của Lâm Ấp vào Giao Châu thuộc Ngô
vẫn tiếp tục. Quân Ngô phải luôn luôn chống trả với những cuộc tấn công
của Lâm Ấp, thiệt hại rất nặng.
Các
cuộc tấn công của Lâm Ấp còn tiếp diễn vào những triều đại về sau. Năm
344, vua Lâm Ấp là Phạm Văn tiến đánh Nhật Nam, Cửu Đức, Cửu Chân, Thủy
Kinh Chú chép rằng "trăm họ đều chạy trốn, nghìn dặm không có khói". Đến
năm 347, Lâm Ấp lại đem quân đánh Cửu Chân, giết thái thú Hạ Hầu Lãm,
san bằng huyện thành Tây Quyển.
Những
cuộc tấn công cướp bóc của Lâm Ấp vào Giao Châu có tác động đẩy mạnh
nhanh thêm xã hội Lạc trong con đường chuyển biến thành Việt. Lâm Ấp, từ
chỗ là đồng bào cùng một nền văn hóa, nay trở thành một kẻ thù. Để tồn
tại người dân Lạc ở Giao Chỉ và Cửu Chân chỉ còn một cách : học hỏi văn
minh Hán để có thể tự tồn. Xã hội Lạc ngày xưa nay đã chia thành hai
nhánh thù nghịch với nhau.
5.5. Hán hay Việt, các cuộc tranh chấp trong tầng lớp môn phiệt Giao Châu trong thời Lưỡng Tấn và Lục triều
Sự
sụp đổ của tầng lớp lãnh đạo trong xã hội Lạc (các Lạc tướng) sau cuộc
đàn áp của Mã Viện đã mở đường cho một tầng lớp lãnh đạo khác nổi lên
thay thế. Những người này, chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Hán, có
thể tạm gọi là tầng lớp lãnh đạo Hán Việt. Tầng lớp này chính là tầng
lớp được chính quyền cai trị Trung Quốc dựa vào để có thể kiểm soát xã
hội dân Việt. Chính phải qua tầng lớp này mà chính quyền thống trị mới
có thể thu thuế, bắt dân sưu dịch, thu nạp cống phẩm. Thành ra họ cũng
được chính quyền thống trị bổ nhiệm làm một số những chức vụ tại địa
phương. Đến thời Sỹ Nhiếp. thế lực của những tầng lớp hào tộc địa phương
đã mạnh đủ để có thể chiếm giữ chính quyền toàn châu trong một thời
gian dài. Thất bại của họ Sỹ và việc thành lập nước Lâm Ấp đã buộc chặt
xã hội châu Giao vào quỹ đạo của đế chế và nền văn minh Trung Quốc.
Nhưng bên trong tầng lớp này, một cuộc tranh chấp gay gắt đã diễn ra :
độc lập hay hội nhập ? Hán hay Việt ? Vấn đề này đã chi phối toàn bộ
lịch sử châu Giao trong giai đoạn Lưỡng Tấn và Lục Triều
Xã hội Giao Châu trong thời Lưỡng Tấn và Lục Triều
Cuộc
khởi nghĩa của bà Triệu và Triệu Quốc Đạt cho thấy ở nhiều miền núi
thuộc nước ta chế độ tù trưởng vẫn còn tồn tại, (Triệu Quốc Đạt theo
truyền thuyết và sử cũ là tù trưởng Nông Cống). Đây cũng là nơi hãy còn
tàn dư nguyên thủy về vai trò phụ nữ trong xã hội. Các bộ lạc này vẫn
nằm ngoài phạm vi chế độ quận huyện. Thủ lãnh những bộ lạc này là những
người mà sử Trung Quốc gọi là những "Ly súy", "Di súy".
Tuy
nhiên tại vùng đồng bằng, dưới áp lực của chế độ cai trị Trung Quốc, do
sự bóc lột của các quan lại Trung Quốc, đã thành hình một xã hội mới
phân hóa thành nhiều giai cấp. Ở dưới tầng thấp nhất là những nông dân
bị bần cùng hóa trở thành những người lưu vong, sử cũ Trung Quốc gọi là
"những dân vong mạng ở châu Giao". Trên nữa là tầng lớp nông dân trong
những công xã. Họ vẫn còn sống và tồn tại được tại những nơi chôn nhau
cắt rốn của họ tuy rằng cũng bị bóc lột một cách thậm tệ và càng ngày
càng nhiều người trong bọn họ bị đẩy vào tình trạng bần cùng hóa phải đi
làm thuê cho các hào tộc. Mặc dầu vậy, những tập quán của xã hội cũ vẫn
còn được bảo vệ tại nhiều vùng. Theo Tam Quốc Chí - Ngô Thư :
"Ở
hai huyện Mê Linh thuộc Giao Chỉ và Đô Lung thuộc Cửu Chân, anh chết,
em lấy chị dâu làm vợ, đời đời vẫn theo tục đó ; trưởng lại có biết cũng
không thể cấm đoán nổi. Ở Nhật Nam, trai gái đều trần truồng, không lấy
thế làm thẹn".
Trên
cùng là tầng lớp môn phiệt địa phương. Tầng lớp này có thể là người
Hán, các quan lại sỹ tộc sang định cư tại đây, cũng có thể là các tù
trưởng, tộc trưởng người Việt dần dà bị Hán hóa. Chính quyền thống trị
muốn thu được tô thuế, bắt dân sưu dịch, tróc nã cống phẩm tất phải dựa
vào tầng lớp này. Con cháu của họ được học trong những trường học mà
chính quyền đô hộ hoặc sỹ phu Trung Hoa mở. Một số được cử làm "hiếu
liêm", "Mậu tài" và được bổ làm quan. Trong khoảng đầu đời Đông Hán cá
biệt có người làm đến các chức vụ cao như Lý Tiến làm đến thứ sử ; Lý
Cầm làm tư lệ hiệu úy, nhưng kể từ cuối đời Đông Hán, khi chế độ môn
phiệt tại Hán phát triển thì những giới hào tộc địa phưong không còn cơ
hội làm quan to ở địa phương và làm quan ở Trung Nguyên nữa. Dù Hoa, dù
Việt họ cũng vẫn bị chính quyền trung ương coi như là "hàn môn", không
được bằng sỹ tộc phương bắc. Sự kỳ thị đó cuối cùng đã là yếu tố chính
dẫn đến việc lựa chọn con đường Việt của các tầng lớp hào tộc địa phương
vào cuối đời Lục Triều với cuộc khởi nghĩa của Lý Bí và đất nước Vạn
Xuân.
Đào Hoàng và cuộc chiến tại Giao Châu vào cuối thời Tam Quốc
Năm
263, Ngụy cho Chung Hội và Đặng Ngải đem binh diệt Thục Hán tại Tứ
Xuyên, đe dọa Đông Ngô từ phía Tây. Bấy giờ Tôn Tư, thái thú Giao Chỉ
của Ngô là người mà chính Tấn Thư phải viết "Tôn Tư tham bạo làm
cho bách tính khổ sở", lại thêm Ngô gởi quan sát chiến là Đặng Tuân sang
Giao Chỉ bắt cho được nhiều dân Việt sang Ngô làm lính chống lại Tào
Ngụy. Vì vậy mà nhân dân càng phẫn nộ hơn. Nhân đó, quận lại Giao Chỉ là
Lữ Hưng với sự giúp đỡ của binh lính địa phương đã nổi lên giết chết
Tôn Tư và Đặng Tuân. Sau đó Lữ Hưng đầu hàng Ngụy. Bấy giờ quan lại nhà
Ngô ở Cửu Chân, Nhật Nam cũng hưởng ứng theo. Năm 264, Ngụy phong Lữ
Hưng làm "Đốc Giao Chỉ Thượng Đại Tướng Quân" tước Định An hầu và cử
Hoắc Dặc, Kiến Ninh, thái thú cũ của nhà Thục Hán nay hàng Ngụy làm Giao
Châu thứ sử. Ngoài ra Ngụy cũng cử một vạn quân đồn điền sang giúp Lữ
Hưng. Nhưng binh lính chưa kịp sang thì Hưng đã bị viên công tào Lý
Thống giết chết.
Những
việc đó xảy ra đúng vào lúc tại phương Bắc, nhà Tấn lên thay nhà Ngụy.
Tình hình tại Giao Châu lúc đó không rõ rệt. Ta không biết Lý Thống ủng
hộ Ngô hay không, nhưng chắc hẳn tình hình lúc đó rối loạn với các phe
thân Ngô và thân Tấn đánh lẫn nhau. Năm 271, tướng Ngô là Đào Hoàng, dụ
được thủ lãnh người Việt là Lương Kỳ tại Phù Nghiêm quay trở lại chống
Tấn đã đánh bại được tướng Tấn là Đổng Nguyên, lập lại chính quyền Ngô
tại Giao Chỉ. Thắng Tấn, Đào Hoàng đã tổ chức đàn áp dã man. Hoàng đem
quân đàn áp Phù Nghiêm đặt thành quận Vũ Bình (Phù Nghiêm xưa là đất
huyện Phong Khê đời Hán, tức là vùng Vĩnh Phúc Yên trở lên phiá Bắc.
Biến loạn về cuối đời Hán đã giúp vùng này thoát khỏi tay thống trị của
Ngô).
Cuộc
chiến giữa Tấn và Ngô tại Giao Chỉ là biểu hiện đầu tiên của các cuộc
tranh chấp trong nội bộ tầng lớp lãnh đạo địa phương trong đó việc theo
Tấn hoặc theo Ngô thay đổi tùy theo vị thế của các phe nhóm. Tuy nhiên,
các cuộc chiến tranh liên miên, cộng thêm với những cướp phá của Lâm Ấp
đã khiến dân chúng mỏi mệt và sẵn sàng chấp nhận bất kỳ một chế độ nào
miễn là nó mang lại cho người dân một mức độ hòa bình ổn định nào đó. Và
dân Việt đã tìm được chế độ đó dưới thời Đào Hoàng.
Thắng
được Tấn, Hoàng được Ngô phong làm thứ sử Giao Châu. Năm 280, khi Tấn
diệt Ngô, Hoàng hàng Tấn và vẫn được Tấn Vũ Đế cho giữ chức cũ. Đào
Hoàng cai trị ở Giao Châu hơn 30 năm và là một trong những quan lại
Trung Quốc tương đối được lòng người nhất. Tấn Thư chép "khi (Hoàng) chết, cả châu khóc như mất người thân".
Giống
như Sỹ Nhiếp, Đào Hoàng cai trị Giao Châu vào một lúc mà chính quyền
trung ương tại TrungQuốc còn đang suy yếu, trong khi những thế lực địa
phương đã tàn hại lẫn nhau trong những cuộc chiến tương tàn. Chính vì
vậy mà Đào Hoàng đã có tự do để thực hiện một số những chính sách mà sau
này có ảnh hưởng sâu xa đến xã hội Việt.
Dưới
thời Đào Hoàng, lần đầu tiên có sự tách biệt giữa những khu vực xã hội
của người Lạc đã bị Hán hóa một phần và những đồng bào của họ tại vùng
trung du và miền núi hãy còn chống lại ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa.
Sự phân hóa xã hội Lạc Việt tại miền Bắc thành ra hai tộc người Việt và
Mường có thể đã manh nha trong giai đoạn này.
Hoàng
tìm cách củng cố các vùng biên thùy bằng cách thiết lập một số quận mới
và đặt binh trú đóng để phòng giữ. Huyện Mê Linh tiếp giáp với vùng núi
Tây Bắc, được đổi làm quận Tân Hưng (sau đổi thành Tân Xương) ; vùng
bắc sông Hồng được đặt thành quận Vũ Bình ; vùng phía nam quận Cửu Chân,
thung lũng sông Cả được chuyển thành quận Cửu Đức.
Dưới
thời Đào Hoàng, hệ thống cai trị địa phương được tổ chức lại, các tầng
lớp "hào tộc" địa phuơng được cải tổ để trở thành một giai cấp thống trị
thực sự có khả năng để tự nắm lấy vận mệnh của mình. Cũng dưới thời Đào
Hoàng, sự phân cách giữa xã hội Lạc bị Hán hóa và những hậu duệ khác
của xã hội Lạc như Lâm Ấp đã trở thành đông cứng lại dưới dạng những
biên cương lịch sử. Xã hội châu Giao tại vùng đồng bằng nay đã hoàn toàn
nằm trong quỹ đạo của nền văn minh Trung Hoa.
Giao Châu trong giai đoạn Lưỡng Tấn - Lương Thạc
Đào
Hoàng chết, Tấn cử Ngô Ngạn sang thay. Ngô Ngạn cai trị Giao Châu được
hai mươi năm thì xin về nước, Tấn cử Cố Bi thay. Cố Bi chết, em là Cố
Thọ xin lãnh việc trong châu. Bọn quan lại địa phương không chịu. Thọ
xin về triều, được phong làm Giao Châu thứ sử. Sau đó, Thọ giết trưởng
sử Hồ Triệu. Đốc quân là Lương Thạc chạy thoát được bèn khởi binh bắt Cố
Thọ giết đi. Lương Thạc đón con Đào Hoàng là Đào Uy bấy giờ đang làm
thái thú Thương Ngô làm Giao Châu thứ sử. Ba năm sau, Đào Uy chết, Thạc
lại lập em Uy là Đào Thực rồi con là Đào Tuy nối tiếp làm thứ sử Giao
Châu. Lương Thạc tự xưng là thái thú Tân Xương.
Cần
lưu ý rằng Tân Xương vốn chính là Mê Linh cũ, đất của các vua Hùng và
Hai Bà Trưng. Đây cũng là một địa điểm chiến lược giữ cửa ngõ đồng bằng
sông Hồng về phía Bắc. Tấn Thư không nói ra, nhưng có thể đằng
sau cái chức vụ thái thú Tân Xương của Tấn, Lương Thạc còn có một danh
hiệu gì khác nối liền với truyền thống lâu dài của xã hội Việt nữa.
Vào
lúc bấy giờ triều Tấn đã tan vỡ, kinh đô Lạc Dương bị người Hồ ở phương
Bắc vào chiếm. Tấn triều chạy về phương Nam dựng đô ở Kiến Nghiệp gọi
là Đông Tấn. Bị mất phương Bắc, chính quyền Tấn tìm cách củng cố thế lực
ở phương nam, thay thế những giòng họ "hào tộc" thời Ngô cũ bằng những
giòng họ từ Bắc xuống. Điều này đã tạo nhiều cuộc nổi dậy bởi những tầng
lớp hào tộc Ngô cũ trên khắp vùng Giang Nam. Việc bình định hai châu
Giao và Quảng được giao cho Đào Khản. Trong những năm đầu, Khản bận lo
việc bình định châu Quảng nên liên minh với Lương Thạc, nhưng sau khi
dẹp yên châu Quảng rồi Đào Khản bắt đầu tính tới châu Giao.
Bấy
giờ Vương Cơ xin làm thứ sử Giao Châu. Cơ vốn tự lập làm thứ sử Quảng
Châu, nhưng sợ triều Tấn đánh nên lánh xin làm thứ sử Giao Châu. Triều
đình Tấn muốn lợi dụng Cơ để đánh Lương Thạc nên phong Cơ làm thứ sử.
Thạc biết nói rằng "Gã Vương đã phá hoại châu Quảng, sao lại còn đến đây
phá hoại châu Giao nữa. Rồi cấm người trong châu không cho ra đón Cơ.
Chức phủ Tư Mã là Đỗ Tân đem quân đánh Thạc bị Thạc đánh thua. Thạc lại
sợ kiều dân (tức là những người từ Trung Nguyên mới đến nhập cư) theo
Vương Cơ bèn bắt giết cả, rồi tự phong làm thái thú Giao Chỉ. Vương Cơ
không vào được Giao Châu bèn ở lại Uất Lâm định mưu mộ binh đánh chiếm
Giao Châu, nhưng rồi bị Đào Khản giết chết (Tấn Thư).
Năm
322 triều đình Tấn cử Vương Lượng làm thứ sử Giao Châu và dặn Lượng
phải giết Lương Thạc. Lượng mưu giết Thạc, thuê thích khách nhưng không
thành. Thạc đem binh vây Lượng ở Long Biên. Lượng bị thua, Thạc chặt tay
đoạt cờ tiết của Lượng, Đào Khản được tin sai tham quân là Cao Bảo mang
quân sang giúp Lượng, nhưng quân chưa tới nơi, Lượng đã chết. Bảo bèn
tiến quân đánh giết được Lương Thạc. Đào Khản được phong kiêm nhiệm Giao
Châu thứ sử. Cuộc nổi dậy của Lương Thạc đến đó là chấm dứt.
Lương Thạc xuất hiện như là một nhân vật điển hình của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn này. Xuất thân là một người lính, Tấn Thư chép
"Lương Thạc xuất thân hạ tiện", Lưong Thạc đã trở thành lãnh tụ của
giới quyền lực địa phương đúng vào lúc mà sức mạnh của đế chế trung ương
đang bị tê liệt vì những chuyện xảy ra ở phương Bắc. Thạc sẵn sàng dung
nhượng với các thế lực phương bắc ở mức độ mà mình vẫn có thể giữ được
một mức chủ động nào đó. Một trong những dữ kiện khác của cuộc nổi dậy
của Luơng Thạc là sự khởi đầu của một tinh thần dân tộc có tính bài
ngoại. Việc Lương Thạc giết hết những người mới đến ngụ cư tại châu Giao
trong lúc chiến đấu với Vương Cơ là một trường hợp khởi đầu điển hình.
Giao Châu vào cuối đời Đông Tấn
Cuối
đời Đông Tấn, nông dân Triết Giang do Tôn An cầm đầu đã nổi lên làm
rung chuyển triều đại. Trong bốn năm từ 398 đến 402 quần chúng đi theo
Tôn An có đến hàng triệu. Sau Tôn An bị Lưu Dụ đánh bại và giết chết. Dụ
giết hại đến hai mươi vạn quân của Tôn An. Lưu Dụ nhân thế chuyên quyền
và cướp ngôi nhà Tấn lập ra nhà Lưu Tống.
Triều
đại nhà Tấn đã dẫn đến một sự thay đổi quan trọng trong thế giới văn
minh Trung Hoa. Trước đó văn hóa Trung Quốc chỉ được tập trung vào một
số nơi tại Hoa Bắc nơi các nhà nho tụ tập. Kể từ khi loạn Ngũ Hồ xảy ra,
các miền Hoa Trung và Hoa Nam đã đón nhận một số đông những sỹ phu miền
Bắc. Văn hóa Trung Quốc được phổ biến rộng rãi qua những lớp sỹ phu
này. Mặc dầu ở tận cùng cực nam của đế quốc Trung Hoa, nhưng châu Giao
cũng nhận được một số những người tỵ nạn đó. Các sỹ phu hào tộc phương
Bắc này dần dần trở nên mạnh và họ đã là những hạt nhân của một lớp lãnh
tụ mới trong những năm sau của giai đoạn Lục Triều.
5.6. Đỗ Tuệ Độ và Lý Trường Nhân
Vào
cuối thời Đông Tấn, Việt Nam đã phân chia thành nhiều xã hội khác biệt
dựa theo những biên thùy văn hóa và địa lý khá rõ rệt. Tại vùng đồng
bằng và một phần trung du, là xã hội Việt bao gồm những thành phần người
Hán di cư xuống miền nam lâu đời và đã bị Việt hóa cùng với những tầng
lớp nông dân và quý tộc Lạc cũ bị Hán hóa một phần. Những người này, sử
Trung Quốc gọi là "thổ nhân" để phân biệt với những người Hán mới tới
trú ngụ mà họ gọi là "kiều nhân". Tại vùng trung du là những thành phần
dân Lạc vẫn còn tiếp tục giữ lại nhiều phong cách của thời đại Hùng
Vương xa xưa, không chịu chế độ quận huyện của Tấn triều hoặc các triều
sau đó mà vẫn sống dưới sự quản hạt của những lãnh tụ truyền thống của
họ. Những người này, sử Trung Quốc gọi là "Ly" hay là "Ly man" và sau
cùng là một lớp người khác không phải người Hán nhưng cũng từ Trung Quốc
di cư xuống ở những vùng cao mà sử Trung Quốc gọi là "Lào" hay " Di
Lão". Phía Nam là nước Lâm Ấp đương cường thịnh cùng với Phù Nam tạo ra
một biên thùy văn hóa khác phân định ranh giới giữa văn hóa Hán và văn
hóa Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của Ấn Độ.
Sau
khi miền Bắc Trung Quốc bị những giống người Hồ từ phía Bắc xâm chiếm,
số lượng người Hán đổ về phương nam càng ngày càng đông. Tuy nhiên phần
lớn những dân Hán này đều định cư ở vùng Quảng Châu thay vì đi sâu hơn
xuống phía Nam. Nếu trong thời Lưỡng Hán, số dân chúng châu Quảng thấp
hơn là tại châu Giao nhiều thì đến cuối đời Tấn dân số châu Quảng đã
vượt hơn hẳn số dân tại Giao Châu. Các dữ kiện về kiểm tra nhân hộ khẩu
từ thời Đông Hán cho tới cuối đời Tấn cho thấy dân số đất Quảng đã vượt
gấp đôi dân số đất Giao chỉ trong khoảng gần hai trăm năm. Đây là một
trong những yếu tố khiến cho những đặc tính dân tộc của người Việt không
bị tiêu hủy dưới khôi lượng đông đảo của những người Hán ngụ cư như
trường hợp các tộc Bách Việt tại Quảng Châu.
Một
số những hiện vật khảo cổ đào được vào thời này cho thấy phong tục tập
quán của người Lạc cũ đã bắt đầu thay đổi theo phong cách Hán. Việc giã
gạo bằng chầy tay như mô tả trên các trống đồng Đông Sơn không còn nữa,
thay vào đó người ta thấy xuất hiện những loại cối giã gạo đạp chân như
tại nông thôn Việt Nam về sau này. Từ tập tục ở nhà sàn, người Lạc đã
chuyển dần sang ở nhà đất bằng. Nhiều mô hình nhà trung gian bằng đất
nung đào được cho thấy sự chuyển tiếp này đã diễn ra trong suốt giai
đoạn Đông Hán cho đến Tấn. Tuy nhiên môt số những phong tục khác như tục
nhuộm răng, ăn trầu, vẽ mình, dùng trống đồng, búi tóc, vẫn còn được
dân chúng Lạc giữ gìn cho đến mãi về sau này. Đó chính là những cái đã
giúp phân định ranh giới giữa Hán và Việt.
Những
cuộc tấn công cướp phá liên miên của Lâm Ấp đã đẩy mạnh thêm xã hội
Việt đi sâu vào trong quỹ đạo của văn minh Hán. Điều này đã phản ảnh rõ
trong phản ứng của người Việt trước các cuộc tấn công của Lâm Ấp. Nếu
trong những năm thời Đông Hán và Ngô khi Lâm Ấp mang quân tấn công vào
Nhật Nam và Cửu Chân thì dân Việt đã đồng tình nổi lên tìm cách lật đổ
chế độ cai trị thì dưới thời Tấn thì dân chúng đã cùng với quan lại Tấn
triều họp sức để đẩy lùi Lâm Ấp trở lại qua bên kia biên giới.
Với
sự suy yếu của triều Tấn tại trung nguyên, quyền lực của Tấn tại châu
Giao nay tùy thuộc hoàn toàn vào sự trung thành với triều đại của các
hào tộc địa phương. Độc lập hay tiếp tục là một phần của đế chế, đó là
quyết định mà những hào tộc ở đây phải lựa chọn. Đại biểu của hai khuynh
hướng đó trong suốt gần một trăm năm là hai họ : họ Đỗ và họ Lý.
Đỗ Tuệ Độ và con đường trung thành với đế chế
Theo Tống thư - Đỗ Tuệ Độ truyện,
Đỗ Tuệ Độ người Châu Diên, Giao Chỉ, là con thứ năm của Đỗ Viện, thái
thú Giao chỉ. Tổ tiên họ Đỗ vốn là người ở vùng Kinh Triệu (Trường An),
nhân tằng tổ sang lãnh chức thái thú tại Ninh Phố nên định cư ở đây. Họ
Đỗ vốn là một hào tộc. Đỗ Viện đã từng lãnh lần lượt các chức thái thú
Nhật Nam, Cửu Chân rồi Giao chỉ. Khoảng năm 380, chức vụ thứ sử Giao
Châu khuyết, Cửu Chân thái thú là Lý Tốn tiếm quyền tại châu Giao. Tống Thư
mô tả Lý Tốn và con là người "dũng mãnh có quyền lực, kiềm chế toàn bộ
châu Giao". Khi nghe tin Tấn cử Đằng Độn Chi sang làm Giao Châu thứ sử,
Lý Tốn quyết định kháng cự, sai hai con mang quân chặn các đường thủy
lục tiến vào châu Giao để chống lại.
Nhưng
Lý Tốn không tính tới lòng trung thành của các hào tộc khác trong châu.
Chỉ mười tháng sau, Lý Tốn bị Đỗ Viện giết chết và họ Đỗ đón Đằng Độn
Chi vào. Độn Chi ở lại Giao Châu trên mười năm. Trong thời gian đó, vùng
đất Giao Châu luôn luôn bị Lâm Ấp tấn công cướp phá. Sau khi Độn Chi về
nước, năm Long An thứ ba đời Tấn An Đế (399) vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt
mang quân ra đánh cướp Nhật Nam, bắt thái thú là Cảnh Nguyên, sau đó
tiến ra Cửu Đức, bắt thái thú là Tào Bình rồi tiến ra Giao Chỉ, vây
thành Long Biên. Đỗ Viện lúc đó là thái thú Giao Chỉ cố thủ giữ thành.
Chiến thuật của Viện dùng để phá Lâm Ấp là chiến thuật du kích điển hình
mà các triều đại Việt sau này dùng để chống lại quân Trung Quốc. Tống Thư - Đỗ Tuệ Độ Truyện chép :
"Viện
cùng người con thứ ba là Huyền Chi ra công cố thủ, hay sử dụng những
mưu lược dựa vào những phương tiện sẵn có, đại phá được Lâm Ấp, đuổi Hồ
Đạt chạy ra khỏi Cửu Chân, Nhật Nam về đến Lâm Ấp mới thôi".
Viện nhân đó được phong làm Giao Châu thứ sử, tuớc Long Nhương Tướng Quân.
Lúc
bấy giờ, nhà Tấn đã gần đến lúc diệt vong. Trung Nguyên đại loạn. Năm
Long Hy thứ sáu (410) tước Quán Quân tướng quân là Lư Tuần chiếm cứ
Quảng Châu sai người sang thông hiếu với Đỗ Viện. Viện cự tuyệt, giết sứ
giả. Cùng năm đó, Viện chết, các quan lại trong châu cử người con thứ
năm là Đỗ Tuệ Độ lên thay làm Giao Châu thứ sử. Triều đình Tấn không
cách làm gì khác hơn là cho sứ giả sang chính thức phong cho Tuệ Độ làm
chức Tổng Quản Giao Châu Chư Quân Sự, Quảng Vũ Tướng Quân kiêm nhiệm
Giao Châu thứ sử. Việc triều đình Tấn vội vã phong cho Tuệ Độ chức vụ
cao như vậy là nhằm việc chiêu dụ Tuệ Độ tham gia giúp Tấn trong việc
đàn áp cuộc nổi dậy của Lư Tuần.
Lư
Tuần vốn là đồ đảng của Tôn Ân. Năm 398, Ân đã lãnh đạo một cuộc nổi
dậy lớn của nông dân tại Triết Giang, đồ đảng theo có đến hàng triệu
người. Khi Ân bị Lưu Dụ (người sau này cướp ngôi nhà Tấn lập ra nhà Lưu
Tống) đánh bại, Lư Tuần đầu hàng Tấn và chiếm giữ Quảng Châu. Nhưng đến
năm 410, Lư Tuần lại phản, mang quân lên vây kinh đô Kiến Khang. Trong
lúc Tuần tiến quân lên Bắc, Lưu Dụ mang quân đánh úp Quảng Châu. Tuần
phải mang quân về giữa đường lại bị Lưu Dụ đánh thua.
Tuần
mang quân xuống nam, phá Hợp Phố rồi tiến quân vào Giao Chỉ. Lúc đó là
năm Long Hy thứ 7 (411). Quân của Tuần tiến thẳng tới đánh thành Long
Biên. Tống Sử - Đỗ Tuệ Độ Truyện kể lại :
"Tuệ
Độ đem sáu ngàn quan văn vũ đánh chặn Tuần ở Thạch Kỳ. Phá được quân
của Tuần, bắt được trưởng sử của Tuần là Tôn Kiến Chi. Tuần tuy thua,
nhưng dư đảng còn đến ba ngàn quân thiện chiến. Lúc đó hai con Lý Tốn là
Lý Dịch, Lý Thoát chạy ra Thạch Kỳ liên kết với đám dân Ly, Lào nổi
dậy. Tuần biết bọn Dịch với họ Đỗ có thù bèn cho người đến dụ. Bọn Dịch
bèn cùng đám "Ly soái" (tức là những thủ lĩnh người Lạc còn chưa bị Hán
hóa) mang sáu ngàn quân đến theo. Tháng sáu năm Canh Tý (tức 411) Tuần
mang quân đến bến Nam của thành Long Biên. Sáng sớm đánh thành, hẹn vào
trong thành mới thổi cơm ăn. Tuệ Độ mang của cải của riêng mình và tông
tộc đem ra khao thưởng quân sỹ rồi cùng hai em là thái thú Giao chỉ Tuệ
Kỳ, thái thú Cửu Chân Chương Dân xuất quân thủy bộ ra chống. Tuệ Độ tự
leo lên một chiếc thuyền cao đốc chiến, phóng tên lửa và đuốc đuôi trĩ
để đốt cháy thuyền địch. Rồi bộ quân cũng từ hai bên bờ đổ ra bắn. Chiến
thuyền của Tuần đều bị trúng tên lửa tan vỡ. Tuần cũng bị trúng tên rơi
xuống nước mà chết".
Tuệ
Độ sai vớt thây Lư Tuần lên chặt đầu gởi về kinh sư, lại bắt giết cha
của Lư Tuần và hai người con gởi đầu về kinh đô nhà Tấn. Bọn Lý Dịch Lý
Thoát và những thủ lĩnh người Lạc cũng bị Tuệ Độ giết hết.
Cuộc
chiến chống lại Lư Tuần cho ta thấy mức độ phân hóa xã hội tại châu
Giao vào thời này. Trong lúc những người dân Lạc cũ cũng vẫn còn tiếp
tục sự chống đối của họ đối với đế chế Trung Quốc, một bộ phận quan
trọng của xã hội nay đã chấp nhận cuộc sống bên trong đế chế và chống
lại những thay đổi mà họ cho rằng có thể làm cho cuộc sống của họ trở
nên khó khăn hơn.
Năm
420, thừa tướng nhà Tấn là Lưu Dụ phế vị vua cuối cùng của triều Tấn là
Tấn Cung Đế, tự lập làm vua, lập ra nhà Lưu Tống. Giao Châu vẫn nằm
dưới sự cai trị của Đỗ Tuệ Độ. Tống thư khen ngợi Tuệ Độ là người
"mặc áo vải, ăn cơm rau, cần kiệm chất phác" cai trị giỏi đến nỗi "kẻ
gian trộm cướp không có, ban đêm không phải đóng cửa thành ; trên đường
không ai nhặt của rơi". Nhưng khi Tuệ Độ chết đi, con là Hoàng Văn lên
thay không được bao lâu, thì được triều đình Tống điều lên kinh giữ một
chức quan trong triều. Hoàng Văn ra đi đến Quảng Châu bị bệnh chết. Việc
cai trị Giao Châu lại rơi vào tay các tên quan từ phương Bắc xuống.
Lý Trường Nhân và nền tự chủ dưới thời nhà Lưu Tống
Dưới
thời Tống, nhân dân không những chịu khổ vì chiến tranh liên miên mà
còn bị bọn quan lại bóc lột tàn tệ. Tống Hiếu Vũ Đế (454-464) là một kẻ
tham tài lợi, hễ chức thứ sử, thái thú nào bãi quan trở về đều bị bắt
phải dâng tiền của vì vậy bọn quan lại tha hồ vơ vét của nhân dân. Trước
tình thế đó tình cảm đối với đế chế cũng bị hao mòn. Tình trạng yếu kém
của chính quyền trung ương Tống cũng là một điều khác giúp cho việc
tách ra tự trị trở nên có khả năng hơn.
Tháng
ba năm Thái Thủy thứ tư đời Tống Minh Đế (468) thứ sử Trương Mục bị
bệnh chết, một lãnh tụ người Việt là Lý Trường Nhân đã nổi dậy cướp lấy
chính quyền tự lập làm thứ sử. Tống thư chép chuyện như sau mặc dầu nhầm họ của ông chép là họ Hiếu :
"Thứ
sử Trương Mục bị bệnh chết, thổ nhân là Hiếu Trường Nhân làm loạn giết
sạch những người lưu ngụ từ Bắc sang không chừa người nào tự xưng là thứ
sử Giao Châu".
Nhà
Tống cử Ngô Hỷ sang làm thứ sử Giao Châu, rồi cử Tông Phụng Bá, nhưng
không ai dám đi. Sau cử Lưu Bột. Lưu Bột sang bị Trường Nhân chia binh
chống cự không vào được. Cuối cùng triều Tống phải mặc nhiên chấp nhận
cho Trường Nhân làm thứ sử Giao Châu. Được vài năm Trường Nhân chết, em
họ là Lý Thúc Hiến lên thay. Thúc Hiến nộp đơn xin Tống cho làm thứ sử
Giao Châu. Tống không chịu, chỉ cho Thúc Hiến làm Ninh Viễn Tư Mã kiêm
lĩnh thái thú hai quận Vũ Bình và Tân Xương đồng thời cử Thẩm Hoán sang
làm Giao Châu Thứ Sử. Nhưng theo Nam Tề Thư "Thúc Hiến được nhân
tình theo phục đã đem binh giữ những chổ hiễm yếu không nhận Thẩm Hoán".
Thẩm Hoán phải ở lại Uất Lâm rồi chết ở đó. Lý Thúc Hiến vẫn tự trị ở
Giao Châu. Thế là Giao Châu vào cuối đời Lưu Tống đã trở thành một đất
nước tự trị do các nhà môn phiệt địa phương cai quản.
Vào
lúc đó, triều Tống bên Trung Quốc bắt đầu đi vào giai đoạn diệt vong.
Phía Bắc bị mất vùng Hoài Bắc, Hoài Tây cho Bắc Ngụy. Bên trong con cháu
họ Lưu Tống tàn sát lẫn nhau. Cuối cùng đến đời Tống Thuận Đế thì bị
Tiêu Đạo Thành cướp chính quyền lập ra nhà Tề gọi là Tề Cao Đế (479).
Tiêu Đạo Thành lên ngôi xuống chiếu tha tội cho Giao Châu và công nhận
cho Lý Thúc Hiến làm Giao Châu thứ sử. Nhà Tề trong lúc ly loạn nên
không muốn tạo ra những phiền nhiễu ở phương xa trong lúc đang củng cố
quyền hành. Nam Tề Thư cũng phải công nhận "Dân Giao Châu cậy ở nơi hiểm trở xa xôi nên luôn luôn muốn phản loạn"
Tuy
nhiên khi Lý Thúc Hiến đoạn tuyệt mọi cống hiến với Tề thì Tề không thể
nào không có phản ứng. Năm 485, Tề cử Đại Tư Nông Lưu Khải làm Giao
Châu thứ sử, điều quân các quận Nam Khang, Lư Lăng và Thủy Hưng sang
đánh. Lý Thúc Hiến đầu hàng. Giao Châu lại rơi trở về tay các quan lại
phương Bắc.
Cuộc
khởi nghĩa của Lý Trường Nhân là cuộc khởi nghĩa quan trọng nhất trong
giai đoạn từ sau Hai Bà Trưng cho đến cuộc nổi dậy của Lý Bôn. Sử Trung
Quốc chỉ giới thiệu ông là một "thổ nhân". Điều này có lẽ ám chỉ ông là
người giòng giõi dân Lạc chứ không phải là Hán. Chắc chắn là ông không
hề giữ một chức vụ gì trong chính quyền đô hộ. Điều quan trọng ở đây là
khi nổi dậy, Lý Trường Nhân đã giết hết các quan lại và những người lưu
ngụ Trung Quốc. Đây là một hành động cực đoan nhưng đã chỉ cho thấy bắt
đầu có một ý thức dân tộc trong cộng đồng châu Giao biểu hiện ý thức
khác biệt giữa dân Việt và dân Hán. Chính quyền của Lý Trường Nhân và Lý
Thúc Hiến xây dựng là một chính quyền độc lập. Tuy rằng Lý Trường Nhân
mới chỉ xưng làm thứ sử, nhưng mầm móng của một quốc gia Việt độc lập đã
bắt đầu hình thành báo hiệu cho sự thành lập của đất nước Vạn Xuân
trong thế kỷ tới.
5.7. Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam cho đến thời Lương
Ðến
cuối thế kỷ thứ năm, tại phương bắc, nhà Tề càng ngày càng đi vào tình
trạng suy đồi. Năm 502, Tiêu Diễn một hoàng thân trong hoàng tộc Tề, phế
Tề Hòa Đế tự lập lên làm vua lấy hiệu là Lương Vũ Đế, lập ra nhà Lương.
Không khác gì những triều đại trước từ Đông Tấn trở đi, khó khăn chính
của nhà Lương vẫn là làm sao khẳng định được quyền lực của chính quyền
trung ương trước thế lực của những hào tộc địa phương. Riêng tại Giao
Châu vấn đề này còn bị làm phức tạp hơn vì kinh tế châu Giao vẫn hướng
về việc giao dịch với các nước khác ở phương Nam thay vì hướng về Bắc.
Một
trong những biện pháp nhà Lương thực hiện để tăng cường kiểm soát vùng
đất Giao Châu là phân nhỏ các châu quận để đặt thêm quan cai trị, Dưới
thời Hán, châu Giao bao gồm toàn bộ vùng nam Trung Quốc và miền Bắc Việt
Nam. Sang thời Ngô mới tách thành hai châu Giao và Quảng trong đó Quảng
Châu bao gồm hầu hết miền Nam Trung Quốc trong khi Giao Châu bao gồm
miền Bắc nước ta ngày nay cùng một phần của miền Nam các tỉnh Quảng Đông
và Quảng Tây hiện thời. Đến đời Lưu Tống, năm 471, chính quyền lại cắt
quận Hợp Phố (bán đảo Lôi châu, Quảng Đông hiện nay) cùng với một phần
các quận Uất Lâm và Ninh Phố lập ra một châu mới gọi là Việt châu. Giao
Châu như vậy chỉ còn toàn bộ miền Bắc Việt Nam hiện thời. Riêng về phần
quận Nhật Nam, sau nhiều năm dành dật với Lâm Ấp trong các đời từ Tấn
đến Tề, cuối cùng toàn bộ quận Nhật Nam bị rơi vào tay Lâm Ấp dưới thời
nhà Tề. Biên giới Giao Châu chỉ còn lại từ đèo Ngang trở ra Bắc.
Sang
đời Lương, năm 507, Quảng Châu lại bị cắt ra làm hai, miền Tây Quảng
được tách ra thành một châu mới gọi là Quế Châu ( Quảng Tây ngày nay).
Nhưng phải đến năm 523 thì việc cải tổ hành chánh châu quận của Lương
mới lan sang đến châu Giao. Trong cuộc cải tổ này, quận Cửu Chân (Thanh
Hoá) được nâng lên thành châu gọi là Ái châu, quận Cửu Đức (Nghệ An - Hà
Tĩnh) được chia làm ba là Đức Châu, Lợi Châu và Minh Châu. Đến năm 535,
nhà Lương lại cắt vùng bể của Giao Chỉ ra thành lập Hoàng Châu (Quảng
Yên, Hòn Gay ngày nay). Như vậy là đến đời Lương miền bắc nước ta có tất
cả 6 châu tuy rằng quan trọng nhất vẫn là Giao Châu với trị sở nằm tại
Long Biên. Theo quan điểm của nhà Lương, việc đặt thành nhiều châu như
vậy được coi như là một biện pháp an ninh nhằm tổ chức phòng thủ cho đế
chế cũng như là một sự tưởng thưởng cho dân chúng trong châu về sự quan
tâm của triều đình chứ không căn cứ vào tài nguyên hoặc dân số. Chính vì
vậy mà ta không thể so sánh một châu như châu Giao với những châu như
Ái hay Đức chứ chưa nói đến những đơn vị nhỏ như Lợi Châu hoặc Hoàng
Châu.
Việc
lập những châu nhỏ này cũng là phương cách nhà Lương dùng để giải quyết
mâu thuẫn giữa trung ương và các hào tộc địa phương. Các châu lớn có
tầm quan trọng chiến lược như Giao và Quảng được trao cho các người thân
trong hoàng tộc cai trị. Năm 541 Lương Vũ Đế cử hai người cháu sang làm
thứ sử các châu Giao và Quảng. Những châu nhỏ hơn đuợc trao cho những
nhân vật có thế lực yếu hơn hoặc những hào tộc địa phương.
Tuy
nhiên, hậu quả của chính sách này là mâu thuẫn quyền lực giữa địa
phương và triều đình được chuyển hóa sang thành một cuộc đấu tranh dành
quyền lực giữa các thứ sử châu nhỏ và thứ sử châu lớn. Cuộc đấu tranh
giữa hào tộc và quan lại trong châu chuyển thành đấu tranh giữa các lực
lượng của các châu với nhau. Lập ra nhiều châu nhỏ như vậy, nhà Lương hy
vọng rằng sẽ ngăn chặn và lái những tham vọng độc lập hoặc tự trị của
các địa phương qua việc thu hút những dân địa phương vào trong khuôn khổ
đế chế. Nhưng dù có chia nhỏ thế nào chăng nữa cũng không có đủ chức vụ
và quyền lực để thỏa mãn những tham vọng của tất cả những người địa
phương. Ngoài ra, sự quen thuộc với những phép tắc của triều đình trung
ương chỉ làm cho người ta mất đi sự sợ hãi đối với chính quyền và làm
gia tăng thêm ước vọng làm ra một chính quyền tương tự.
Giao Châu dưới thời Lương
Việc
phổ biến rộng rãi các công cụ bằng sắt đã nâng năng suất của nông
nghiệp lên cao hơn. Kinh tế đã dồi dào đủ để có thể nuôi sống một tầng
lớp quý tộc cũng như là cung ứng những khoản thuế khóa và cống nạp cho
chính quyền cai trị.
Ngoài nghề trồng lúa, mà dân ta đã biết làm hai mùa từ trước khi dân chúng Hoa ở Trung Nguyên biết - sách Dị Vật Chí
của Dương Phù đời Đông Hán viết "Lúa mỗi năm trồng hai lần về mùa hạ và
mùa đông ở Giao Chỉ gọi là lúa Giao Chỉ"- dân ta còn biết trồng nhiều
thứ ngũ cốc và các loại cây hoa mầu khác như khoai lang - Nam Phương Thảo Mộc Trạng
chép "khoai lang trồng vào tháng hai đến tháng mười thì được dỡ củ..
sản xuất ở Giao Chỉ, Vũ Bình, Cửu Chân, Hưng Cổ…" - các loại cây có củ
khác như khoai sọ, củ từ, củ mài và các loại đậu. Nghề trồng dâu nuôi
tầm, đay, gai cũng phát triển. Đặc biệt là việc trồng bông. Ngữ Lục Địa Lý Chí
của Trương Bột, đầu thế kỷ thứ 4 chép "Huyện Định An ở Giao Chỉ có loại
cây bông, quả như chén rượu, miệng có tơ như tơ tầm có thể dệt thành
vải". Các loại cây ăn trái cũng được trồng một cách thông dụng, một vài
loại như cam, quít đã nổi tiếng là ngon và được coi như là những cống
phẩm dâng cho triều đình Trung Quốc. Với sự phát triển của nông nghiệp,
một số những ngành khác như săn bắn, hái lượm, ngư nghiệp và chăn nuôi
trước kia có thể là những hoạt động sinh hoạt chính nay đã trở thành thứ
yếu.
Cùng
với việc phát triển của nông nghiệp, thủ công nghệ cũng có những bước
tiến lớn. Từ thời Đông Hán trở về sau, kỹ thuật rèn chế đồ sắt đã phát
triển. Theo Tấn Thư - Đào Hoàng Truyện các đồ điền khí bằng sắt
đã được chế tạo tại chỗ thay vì phải nhập từ Trung Quốc. Trong các ngôi
mộ của thời này đào được đã thấy có rất nhiều những di vật bằng sắt, từ
các đồ điền khí (lưỡi cầy, lưỡi cuốc, rìu v.v.) cho đến vũ khí (kiếm,
dao găm, giáo, kích, lao v.v.) và những đồ gia dụng (đinh, nồi, đèn
v.v.). Theo Ngô Thời Ngoại Quốc Truyện thì vào lúc đó tại nước ta, người
ta đã bịt cựa gà chọi với lưỡi sắt chứng tỏ rằng vào thời đó việc sử
dụng sắt đã được phổ biến rộng rãi. Với sự phát triển của đồ sắt, đồ
đồng đã đi vào suy thoái. Việc đúc đồng được giới hạn trong việc sản
xuất những đồ gia dụng và các đồ minh khí cùng một số đồ trang sức mà
thôi.
Cùng
với hai nghề đúc đồng và sắt, nhiều ngành thủ công mới cũng được phát
triển. Sử cũ đều nói Giao Châu nhiều vàng bạc. Việc khai thác và làm đồ
trang sức bằng vàng bạc đạt được nhiều tiến bộ so với trước. Trong các
ngôi mộ khai quật có niên đại từ Đông Hán cho đến Lục Triều người ta đã
phát hiện được rất nhiều đồ trang sức bằng vàng bạc như vòng, nhẫn, bông
tai, trâm, lược cũng như một số đồ đồng mạ vàng cung cách chế tạo tinh
xảo. Theo Nam Tề Thư, cứ vài năm một lần Giao Châu phải cống cho triều đình Trung Quốc một chiếc mũ đâu mâu bằng bạc.
Trong
quá trình giao lưu văn hóa với vùng ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ, Giao
Châu cũng học được nghề sản xuất thủy tinh (ngọc lưu ly). Sách Bão Phác Tử của
Cát Hồng đời Tấn chép "Ngoại quốc làm bát thủy tinh bằng cách họp năm
loại tro cát mà chế thành. Nay châu Giao, châu Quảng đều học được phép
đó".
Trong
giai đoạn này nghề dệt đặc biệt phát triển. Ngoài việc trồng dâu nuôi
tằm, do trồng được bông, nên đương thời dân ta đã dệt được vải và được
các giới thống trị Trung Quốc ưa chuộng. Cống phẩm của Sỹ Nhiếp gởi cho
Tôn Quyền có hàng ngàn tấm vải cát bá loại mịn. Nghề làm giấy cũng được
truyền sang Giao Châu ngay sau khi được phát minh tại Trung Quốc. Theo Nam Phương Thảo Mộc Trạng,
Giao Chỉ có nhiều cây mật hương, người ta lấy vỏ và lá của nó dùng làm
giấy gọi là giấy mật hương, mầu trắng có vân, mùi rất thơm và bền chắc,
bỏ xuống nước không hỏng. Năm Thái Khang đời Tấn, con buôn Đại Tần
(Byzantine) dâng ba vạn tờ giấy này cho vua Tấn. Nghề thủ công phát
triển đến nỗi dưới triều Ngô, thợ thủ công của châu Giao vẫn thường bị
bắt gởi lên kinh đô của Ngô ở Kiến Nghiệp để phục vụ.
Về
thương mại, việc sáp nhập Giao Châu vào trong đế chế Trung Quốc đã thúc
đẩy việc phát triển thương mại cả quốc tế lẫn quốc nội. Các con buôn
Trung Quốc đã sang Giao Châu mua bán lâm thổ sản như ngọc châu, hương
liệu, sừng tê, ngà voi, san hô v.v. và mang sang bán ở Giao Châu các
loại vũ khí, gương đồng, bình đồng sản xuất tại Trung Quốc.
Thương
mại quốc tế được đặc biệt phát triển. Dưới thời Tam Quốc và Lục triều,
con đường buôn bán với các nước ở phương Tây qua ngả đường bộ bị tắc
nghẽn, tất cả mọi thông thương với miền Nam Trung Quốc "đều phải qua ngả
Giao Chỉ" (Lương Thư). Luồng thương mại quốc tế bắt đầu từ cảng
Alexandria ở Ai Cập qua nam Ấn Độ vượt biển qua các nước Phù Nam, Lâm Ấp
đến Giao Chỉ. Nhà địa lý Hy lạp Ptolemy đã mô tả con đường này trong
cuốn sách địa lý của ông viết vào thế kỷ thứ ba sau công nguyên.
Các
việc buôn bán này thường bị chính quyền đô hộ đánh thuế rất nặng. Đó
cũng là một lý do dẫn đến những cuộc chiến tranh với Lâm Ấp. Tấn Thư chép : "Xưa
các nước ngoài cõi, thường mang báu vật đi đường bể tới Nhật Nam buôn
bán. Thứ sử Giao Châu và thái thú Nhật Nam thường thường tham lợi, mười
phần đánh thuế tới hai ba phần. Đến đời thứ sử Khương Tráng, sai Hàn
Chấp làm thái thú Nhật Nam. Chấp lấy thuế đến quá nửa, vì thế các nước
oán giận". Năm 347 vua Lâm Ấp là Phạm Văn mang quân ra đánh Nhật Nam
lấy cớ là bảo vệ cho thương mại quốc tế, đã bắt giết thái thú Nhật Nam
là Hạ Hầu Lan.
Năm
522 triều đình nhà Lương ra lệnh phát hành một loại tiền mới thay cho
loại tiền cũ của Tấn, nói rằng dân Quảng và Giao chỉ dùng vàng và bạc
làm tiền tệ trao đổi chứ không chịu dùng tiền của triều đình. Hai mươi
năm sau, khi một loạt tiền mới khác được đúc ra, tình trạng cũng vẫn
không thay đổi. Điều đó cho thấy thương mại quốc tế đóng một vai trò
quan trọng như thế nào đối với sinh hoạt tại Giao Châu thời đó.
Thuế khóa và cống phẩm
Tài liệu độc nhất còn ghi lại về các thứ thuế đánh vào dân chúng tại Giao Châu thời Đông Hán được chép trong Hậu Hán Thư ghi
rằng "tha tô ruộng, tiền canh phú và cỏ khô trong hai năm cho huyện
Tượng Lâm". Tiền canh phú là thuế mà người dân phải trả nếu không muốn
bị đi lao dịch hoặc đi lính ở nơi biên thùy. Cỏ khô có lẽ là thuế đặc
biệt mà người dân phải trả khi khai hoang một khu đất mới. Không có chi
tiết gì về các mức thuế trên, nhưng có lẽ chúng rất nặng vì Hậu Hán Thư
đưa ra nhận định về cuộc nổi dậy của dân chúng năm 184 là "phú thuế quá
nặng, trăm họ xác xơ" và để đối phó với cuộc khởi nghĩa này, thứ sử Giả
Tông đã phải đề nghị "tha miễn các loại phú dịch". Ngoài các loại thuế
đánh vào nông dân, các triều đình Trung Quốc đã giữ độc quyền về việc
khai thác và buôn bán sắt và muối, lập một viên quan riêng để chăm lo
việc này gọi là Diêm Thiết quan.
Sang
thời Ngô, phương pháp khai thác chính là việc cống nạp. Tiết Tổng viết
"Đối với Giao Châu chỉ quý ở chỗ lấy những của báu phương xa, ngọc châu,
hương liệu, ngà voi. sừng tê, đồi mồi để chơi ngắm chứ bất tất phải
trông vào phú thuế để lợi cho Trung Quốc" (Tam Quốc Chí - Ngô Thư).
Tuy nhiên Tiết Tổng cũng cho biết rằng "tô ruộng, thuế hộ chỉ lấy đủ để
cung cấp (cho quan lại tướng sỹ ở Giao Châu)". Như vậy cho thấy rằng
thuế đời Ngô vẫn còn và đánh thêm vào việc lao dịch để thu hoạch những
đồ cống phẩm.
Trái
với Ngô, dưới thời Tấn, một hệ thống thuế đồng nhất có vẻ đã được đưa
ra cho Giao Châu, tuy rằng ta không biết rõ việc thực hiện thu thuế như
thế nào. Một trong những loại thuế đó là thuế vải lụa được đánh vào các
hộ trồng dâu, dệt vải. Số lượng vải lụa các hộ phải đóng thay đổi tùy
theo chỗ xa hay gần kinh đô hoặc các thủ phủ cai trị địa phương. Theo dữ
liệu của Tấn Thư, mức độ thuế phải đóng tại Giao Châu bằng một phần ba
mức độ tại Trung Nguyên với những hộ mà chủ gia đình là phụ nữ chỉ phải
đóng một nửa. Các loại thuế khác cũng tương tự như dưới thời Đông Hán,
nhưng ta không biết rõ các thuế suất được tính như thế nào.
Dưới
các đời sau, như Tống, Tề, Lương vì tình hình chính trị suy yếu, thuế
phú bênTrung Quốc thu không đủ nên đặt ra nhiều loại thuế hơn nữa. Vào
lúc đó, thuế khóa rất nặng kể hàng trăm thứ. Theo Lương Thư làm nhà lợp
ngói, cây dâu cao một thước đều phải chịu thuế. Dân nghèo phải bán cả vợ
con lấy tiền nộp thuế mà không đủ. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến việc
những cuộc khởi nghĩa nổ lên trong thời gian này mà kết thúc là việc
thành lập đất nước Vạn Xuân của Lý Bí.
Chương 6 : Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân
6.1. Lý Bí và bước đầu trong tiến trình dành độc lập
Năm
502, tể tướng Tiêu Diễn cướp ngôi nhà Tề lập ra nhà Lương. Thứ sử Giao
Châu của Tề là Lý Khải chiếm giữ châu quận chống không chịu thần phục
nhà Lương. Nhưng sau đó Khải bị trưởng sử của châu là Lý Tắc đem quân
giết chết. Chức trưởng sử của một châu dưới thời đô hộ của Trung Quốc là
viên quan đứng thứ nhì trong châu và luôn luôn là một người dân bản xứ.
Việc Lý Tắc giết Lý Khải cho thấy các hào tộc địa phương đã tích cực
tham gia vào các cuộc tranh chấp triều đại tại Trung Quốc. Sau khi giết
Lý Khải, Lý Tắc được nhà Lương phong ngay cho làm Giao Châu thứ sử. Tuy
nhiên dư đảng của Khải vẫn còn và năm 516, Lý Tắc phải đối phó với một
cuộc nổi dậy do Nguyễn Tông Hiếu cầm đầu.
Lý
Tắc có vẻ như có những quan hệ khá thân cận với những họ thế tộc cầm
đầu triều đình Lương. Dưới thời ông những người thuộc các hào tộc địa
phương được khuyến khích lên Kiến Nghiệp cầu công danh. Hai trong số
những người đó là Lý Bí và Tinh Thiều.
Lý Bí và Tinh Thiều
Theo Lương thư,
thì Lý Bí là thổ nhân, tức là người Việt, người châu Giao, nhưng theo
thư tịch Việt Nam, Đại Việt Sử Ký toàn thư thì tổ tiên ông là người Hán,
cuối đời Tây Hán, nhân chạy loạn Vương Mãng lánh sang ở châu Giao, sau
bảy đời trở thành người Việt. Lý Bí là người thuộc giòng giõi hào tộc
của châu Giao. Đến đời Lương, thanh thế của giòng họ ông đã trải rộng ra
trên vùng Vũ Bình phía Bắc sông Hồng. Cần nhắc lại, Vũ Bình là một quận
mới được cắt từ quận Giao Chỉ ra vào thời Tấn để kiểm soát vùng núi
phía Bắc đồng bằng sông Hồng và họ Lý đời đời được coi là một họ vũ
dũng. Theo các thư tịch còn lại, thì ông tài kiêm văn vũ ; lúc nhỏ có
lên kinh đô nhà Lương làm quan, nhưng theo Lương Thư thì chức nhỏ "không
thỏa mãn nỗi ước vọng của ông", thành ra bất đắc chí, bỏ về quê quán.
Sau đó ông giữ một chức quan võ ở Đức Châu (Nghệ An) rồi cũng thất chí
bỏ về. Từ đó, ông ở lại quê, chiêu tập nhân dân và các hào trưởng địa
phương mưu khởi nghĩa chống lại nhà Lương.
Lý
Bí lên kinh đô nhà Lương làm quan thời nào ta không rõ ; nhưng nếu ông
gặp Tinh Thiều trong thời gian ở kinh đô nhà Lương thì có lẽ là trước
năm 521. Tinh Thiều người Giao Châu, nổi tiếng là tài cao học rộng.
Khoảng năm 521, Thiều lên kinh đô Kiến Nghiệp của Lương kiếm một chức
quan. Lại bộ thượng thư nhà Lương là Sài Tổn cho rằng họ Tinh không phải
là vọng tộc nên chỉ cho Tinh Thiều làm chức Quảng Môn Lang tức là chức
gác cổng thành phía Tây của kinh đô Kiến Nghiệp. Tinh Thiều lấy thế làm
hổ thẹn bỏ về Giao Châu, rồi cùng Lý Bí mưu tính việc khởi nghĩa (Lương Thư - Sài Tổn Truyện).
Triệu Túc
Người thứ ba trong số lãnh tụ cuộc khởi nghĩa là Triệu Túc, các thư tịch của Trung Quốc như Lương Thư, Trần Thư,
đều không nhắc nhở gì đến Triệu Túc và con trai của ông, Triệu Quang
Phục cả. Thư tịch của ta chép Triệu Túc là tù trưởng Chu Diên "cảm tài
đức" của Lý Bí mà đem quân đến theo. Như vậy Triệu Túc có lẽ là giòng
dõi Lạc tướng của dân Lạc.
Chu
Diên là một trong những huyện đầu tiên được triều Hán thiết lập tại
đồng bằng sông Hồng. Trong lịch sử, Chu Diên được biết như là quê quán
của Thi Sách, chồng bà Trưng Trắc, của giòng họ Đỗ thời Tấn và của bố
con Triệu Túc và Triệu Quang Phục. Thời Hán, Chu Diên nằm vào khoảng
giữa hai con sông Hồng và sông Đáy, có lẽ là gần vùng Hà Nội hiện nay ;
nhưng càng về các triều đại sau vị trí của Chu Diên càng lùi xuống phía
nam. Đến thời Lý Bí, Chu Diên có lẽ nằm ở vùng đồng lầy chỗ sông Hồng đổ
ra biển. Dưới thời Lương hầu hết vùng này hãy còn là đầm lầy và chưa
được khai thác vì hệ thống đê sông Hồng chưa được xây dựng đến đó. Dân
chúng vì vậy có lẽ ít bị Hán hóa so với những vùng khác và vẫn còn giữ
những truyền thống văn hóa Lạc cổ. Kể từ khi Mê Linh được đổi thành quận
Tân Xương với một đạo quân chiếm đóng thường trực, Chu Diên đã trở
thành trung tâm của nền văn hóa Lạc Việt còn lại và là lãnh đạo của
những người Lạc không chịu thần phục văn hóa Hán. Việc Triệu Túc đi theo
Lý Bí có lẽ đã khiến cho toàn bộ những người Lạc Việt chuyển sang theo
cuộc khởi nghĩa.
Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí
Chính
sách của nhà Lương là đối với những châu lớn và quan trọng như châu
Giao hoặc Quảng là dùng tôn thất làm thứ sử để kiểm soát chặt chẽ tình
hình. Thời bấy giờ thứ sử Giao Châu là Vũ Lâm Hầu Tiêu Tư. Tiêu Tư là
tôn thất nhà Lương. Họ Tiêu là một trong những cự tộc phương Bắc chạy về
nam uy quyền rất lớn. Chính sử Trung Quốc cũng phải thừa nhận rằng Tiêu
Tư là một tên tàn bạo, tham lam làm mất lòng dân. Trần Bá Tiên, tên
tướng Lương về sau này đánh bại Lý Bí cũng nói rõ nguyên nhân những cuộc
"phản loạn" của dân chúng là do "tội của các ông tôn thất".
Sử
liệu không nói rõ cuộc khởi nghĩa của Lý Bí tiến hành như thế nào.
Lương Thư chép : "Lý Bí liên kết với hào kiệt các châu đồng thời làm
phản". Như vậy có nghĩa rằng cuộc nổi dậy không chỉ xảy ra riêng ở châu
Giao không mà thôi mà còn có thể xảy ra tại châu Ái (Thanh Hóa) và châu
Đức (Nghệ An) nữa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào tháng chạp năm Đại Đồng thứ
bảy đời Lương Vũ Đế (tháng giêng năm 542) và đã thành công một cách dễ
dàng. Sử cũ chép rằng khi nghe tin Lý Bí nổi dậy, Tiêu Tư sợ hãi vội đem
của cải vàng bạc đút lót cho Lý Bí rồi chạy trốn về Quảng Châu. (Lương
Thư chép Tiêu Tư trốn về Việt Châu). Chắc hẳn khi Tiêu Tư chạy trốn rồi
thì bọn quan lại nhà Lương kẻ thì đầu hàng quân khởi nghĩa, kẻ thì chạy
trốn về Bắc, không cần phải nhắc đến nữa.
Ba tháng sau đó cuộc phản công của quân Lương đã tiến hành. Lương Thư
chép : "Tháng ba năm Đại Đồng thứ 8 (tức là tháng 4 năm 542) sai thứ sử
Việt Châu là Trần Hầu, thứ sử La Châu là Ninh Cự, thứ sử An Châu là Lý
Trí, thứ sử Ái Châu là Nguyễn Hàn cùng đi đánh Lý Bí tại Giao Châu".
Đoạn văn này của Lương Thư cho thấy, vùng Thanh Hóa (Ái châu)
cũng như vùng duyên hải phía Bắc vịnh Bắc Việt (An Châu bao gồm vùng
Quảng Yên và các đảo vịnh Hạ Long) lúc đó có lẽ vẫn còn nằm trong tầm
kiểm soát của nhà Lương. Như vậy trong ba tháng đầu của cuộc khởi nghĩa
có lẽ Lý Bí mới kiểm soát được vùng châu thổ sông Hồng mà thôi.
Cả Lương Thư
cũng như sử ta đều không chép đến cuộc phản công này ra sao, nhưng ta
có thể chắc chắn rằng cuộc phản công này đã thất bại mau chóng và lực
lượng của Lý Bí đã tràn sang được đến cả Thanh Hóa và Nghệ An (Ái Châu
và Đức Châu) cũng như là vùng An Quảng vì Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
đã chép rằng mùa hè năm 543 khi quân Lâm Ấp sang cướp phá quận Cửu Đức
thì đã bị quân của Lý Bí đánh bại và như ta sẽ thấy về sau này Lý Bí đã
mang quân đánh quân Lương tại Hợp Phố chứ không đợi sang đến nước ta.
Thất
bại trong cuộc tái chinh phục đầu tiên, Lương tổ chức một cuộc tấn công
lần thứ hai vào cuối năm 542. Theo Lương Thư, mùa đông năm Đại Đồng thứ
8 (542) Lương Vũ Đế xuống chiếu cử thứ sử Cao Châu là Tôn Quýnh, thứ sử
Tân Châu là Lư Tử Hùng điều khiển binh mã đi đánh Lý Bí. (Tân Châu và
Cao Châu là những châu nhỏ cắt từ Quảng Châu cũ ra, thuộc tỉnh Quảng Tây
ngày nay).
Khiếp
sợ trước thanh thế quá lớn của Lý Bí, có lẽ vì sự thất bại quá nhanh
của cuộc chinh phục trước, Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đã chần chừ e ngại
không chịu tiến quân. Viện cớ là đã bắt đầu vào múa xuân tại phương Nam,
dịch bệnh bắt đầu hoành hành trong đám quân Bắc, Tôn và Lư dâng biểu
xin hoãn đến mùa thu hãy tiến đánh. Nhưng thứ sử Quảng Châu là Tiêu Ánh
(một tôn thất nữa của nhà Lương) không nghe. Lại thêm Tiêu Tư lúc đó
đang trú ngụ tại Quảng Châu thúc dục thêm nên bọn Tôn, Lư phải tiến
binh.
Quân Lương tới Hợp Phố thì gặp quân của Lý Bí. Truyền thuyết của ta có nói đến một chiến thắng lớn tại Hợp Phố. Lương Thư và Trần Thư
thì không nhắc nhở gì đến, chỉ nói đóng ở Hợp Phố, quân sỹ mười phần
chết tới bảy phần. Bọn sống sót đều sợ binh địch bỏ trốn. Tôn Quýnh và
Lư Tử Hùng phải dẫn tàn quân về Quảng Châu. Tiêu Tư dâng biểu về triều
vu cho Tôn Quýnh, Tử Hùng "giao thông với giặc, dùng dằng không tiến".
Lương Vũ Đế bèn hạ chiếu bắt cả hai rồi xử tử ở Quảng Châu.
Trong
khi đó, tại phía Nam, Lâm Ấp lợi dụng châu Giao có loạn, mang quân đánh
quận Đức Châu. Nhưng tháng 5 năm 543, tức là sau khi phá được quân
Lương rồi, Lý Bí sai tướng là Phạm Tu mang quân đánh Lâm Ấp, phá được
quân của vua Lâm Ấp là Cao Thức Luật Đà La Bạt Ma (Rudravarman) tại Cửu
Đức. Biên giới phía nam từ đó lại yên.
Sự thành lập đất nước Vạn Xuân
Sau
khi đã dẹp yên phương bắc, bình định phưong nam, tháng giêng năm sau
(tháng 2, 544) Lý Bí chính thức lên ngôi hoàng đế, tự xưng là Nam Việt
Đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Đại Việt Sử
Ký Toàn Thư chép rằng sở dĩ đặt tên nước như vậy là vì "Ý mong xã tắc
được bền vững đến muôn đời", định đặt trăm quan, phong Triệu Túc làm
thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ, xây đài Vạn
Xuân để làm nơi triều hội. Tuy nhiên không phải rằng mọi người trong
nước đều quy phục Lý Bí. Ông đã phải đối phó với một số những bộ lạc
thiểu số cũng như là một số hào trưởng địa phương không chịu phục tùng
chính quyền mới. Sự tích bà Triệu có nhắc đến chuyện Lý Nam Đế đánh dẹp
Bình Lâm (Thanh Hóa) được bà Triệu hiển linh hóa phép giúp cho chiến
thắng. Nhân đó, vua mới phong bà là "Bật chính anh liệt hùng tài trinh
nhất phu nhân". Theo Việt Điện U Linh Tập, Lý Bí phong cho Lý
Phục Man chức tướng quân, coi một vùng từ Đỗ Động (Thanh Oai, Hà Đông)
đến Đường Lâm (Phúc thọ, Sơn tây) để phòng ngừa Di, Lão.
Triều
đình Lý Bí đặt ra chắc hẳn cũng giống như là cách tổ chức triều đình
của Trung Quốc. Chúng ta không rõ rằng trong thời gian ngắn ngủi mà ông
làm vua, ông đã làm được những gì, nhưng chắc hẳn điều ông phải quan tâm
nhất là phòng vệ biên giới phía Bắc. Công việc hành chánh, cai trị chắc
hẳn Lý Bí hoàn toàn phó cho Tinh Thiều. Cần chú ý là Triệu Túc được
phong làm thái phó. Chức thái phó đầu tiên xuất hiện vào đời nhà Chu có
nghĩa là thầy của vua. Chức này được Vũ Vương phong cho Khương Thượng và
sau này Thành Vương phong cho Chu Công. Chức này được phong cho Triệu
Túc khiến ta có thể nghĩ rằng đây là một cố gắng để hội nhập xã hội Việt
Hán hóa mà tiêu biểu là Lý Bí với xã hội cổ truyền của dân Lạc tạo ra
một tinh thần dân tộc mới.
Lý
Bí và Tinh Thiều tiêu biểu cho tầng lớp người đã bị Hán hóa. Họ đã lên
tận kinh đô Kiến Nghiệp của Trung Quốc để tìm chức quan. Thất vọng họ đã
trở về để tìm con đường độc lập. Nhưng ý tưởng của họ về độc lập cũng
chỉ là một đế chế Trung Quốc thu nhỏ với tôn hiệu hoàng đế và niên hiệu
như của Trung Quốc vậy. Triệu Túc, trái lại tiêu biểu cho tầng lớp xã
hội cổ truyền Lạc Việt. Không có dấu hiệu gì cho thấy ông đã sang Trung
Quốc để tìm kiếm công danh. Sự hòa hợp giữa hai yếu tố Hán và Lạc trong
thời Lý Bí đã tạo ra một xã hội mới, xã hội Việt, có đủ khả năng dần dà
dành lấy độc lập và gìn giữ được độc lập từ tay người Hán. Với Lý Bí,
Tinh Thiều và Triệu Túc, xã hội Việt đã trưởng thành với một ý thức dân
tộc rõ rệt. Sau Lý Bí, việc Việt Nam tách ra khỏi đế quốc Hán là một
điều tất nhiên và chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.
Trong
lúc Lý Nam Đế ổn định nội bộ ở châu Giao thì bên Trung Quốc lại xảy ra
nhiều biến loạn. Vì vậy nhà Lương phải tổ chức những cuộc bình định tại
châu Quảng trước khi có thể dòm ngó đến châu Giao. Năm Đại Đồng thứ 11
(545) Lương chủ sai Dương Phiêu làm Giao Châu thứ sử, Trần Bá Tiên làm
tư mã tổ chức cuộc tái chiếm. Đất nuớc Vạn Xuân lại sắp sửa rơi vào một
cuộc can qua mới.
6.2. Cuộc chinh phục của Trần Bá Tiên
Sau
cuộc phản công thất bại của Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng, nhà Lương phải mất
hai năm sau mới tổ chức được một cuộc chinh phục mới. Một phần là vì
lúc đó, bên Trung Quốc cũng có loạn khiến cho Lương không rảnh tay để
dòm ngó xuống miền nam. Tại Quảng châu, sau khi Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng
bị giết. Em Tử Hùng là bọn Tử Liệt, Tử Lược cùng bọn gia thuộc ở Giang
Nam là Đỗ Thiên Hợp, Đỗ Tăng Minh cùng với con cháu của Tôn Quýnh đều
nổi lên để báo thù tiến đánh Quảng Châu. Phải mãi đến năm Đại Đồng thứ
10, thứ sử Quảng Châu là Tiêu Ánh mới giết được Đỗ Thiên Hợp, dụ hàng
được Đỗ Tăng Minh và bình định được châu Quảng. Lập được công lớn trong
vụ bình định này là viên tham quân Quảng Châu, Trần Bá Tiên.
Năm
Đại Đồng thứ 11 (545), nhà Lương cho Dương Phiêu làm Giao Châu thứ sử,
Trần Bá Tiên làm Giao Châu tư mã, lãnh thái thú Vũ Bình cùng với Dương
Phiêu lo tổ chức việc chinh phục lại châu Giao. Bá Tiên là một viên
tướng giỏi nhất của triều Lương hồi đó và sau này nhờ vậy đã cướp ngôi
triều Lương lập ra triều đại cuối cùng của Nam triều : triều Trần, nhưng
đó là chuyện về sau. Tại Quảng Châu Bá Tiên tuyển mộ thêm nhiều lính để
sửa soạn việc chinh phục. Trần Thư chép :
"Cao
tổ (chỉ Bá Tiên) tuyển được nhiều người vũ dũng, khí giới sắc bén,
Phiêu mừng nói :"phá được giặc chắc hẳn là Trần tư vũ này".
Rồi
ủy cho Bá Tiên kinh lược mọi chuyện quân sự. Quân sỹ tụ họp ở Phiên
Ngung (thành phố Quảng Châu hiện nay). Bấy giờ thứ sử Định Châu là Tiêu
Bột cũng được lệnh mang quân đến hội cùng đánh Giao Châu. E ngại truớc
cái gương thất bại của bọn Tôn Quýnh và biết binh sỹ mình sợ đi xa, Tiêu
Bột tìm cách thuyết phục Dương Phiêu không nên đánh Giao Châu. Bột bèn
dùng những lời lẽ ngon ngọt dụ dỗ Phiêu. Phiêu bèn tụ tập tất cả các
tướng sỹ lại để bàn tính. Trần Thư chép :
"Cao
tổ đứng lên nói : "Giao Chỉ phản loạn đó là tội của mấy ông tôn thất
nên mới sinh ra mầm loạn nổi lên ở một số châu, tích lũy đến cả mấy năm
nay. Ông Định Châu, muốn kiếm cái lợi ám muội gì mà trước mắt không kể
đến đại kế, Tiết hạ (chỉ Dương Phiêu) đã vâng lệnh phạt tội, cần nên
sống chết vì việc đó, tại sao lại có thể nhát sợ mấy ông tôn thất mà coi
nhẹ phép nước, Nay nếu muốn đoạt người, nhụt chúng thì hà tất phải mang
quân sang Giao chỉ hỏi tội làm gì. Về ngay cũng đã có cớ rồi vậy".
Phiêu
bèn cho Bá Tiên làm tiên phong mang quân đi trước. Tháng sáu năm đó
quân Lương tới Long Biên. Lý Nam Đế mang ba vạn quân ra chống chọi với
quân Lương ở Chu Diên. Quân ta bị thua phải lui về giữ cửa sông Tô Lịch,
dựng thành lũy để chống cự với quân Bá Tiên. Bá Tiên tiến đánh, Lý Nam
Đế lại thua nữa, chạy về giữ thành Gia Ninh. Bá Tiên mang quân tới vây
thành. Dương Phiêu cũng mang đại quân đến tiếp ứng. Hai bên cầm cự nhau
tới mấy tháng. Cuối cùng thành bị phá vào tháng giêng năm sau (546). Như
vậy là từ khi Trần Bá Tiên mang quân vào châu Giao đến khi phá được
thành Gia Ninh là mất tám tháng.
Thua
tại Gia Ninh, Nam Đế chạy vào động Khuất Liêu, liên lạc với các bộ tộc
người Lão (có thể là những sắc tộc gốc Thái hiện nay) ở Tân Xương (tức
vùng Vĩnh Phúc Yên, Phú Thọ hiện nay), tụ tập tàn quân. Đến tháng 10 thu
thập được vài vạn quân, ông lại từ trong động mang quân ra đóng ở hồ
Điển Triệt. Ông cho đóng rất nhiều thuyền bè thả đầy cả một hồ. Khí thế
Nam quân lại thịnh trở lại.
Trước tình thế đó, quân Lương sợ hãi, đóng ở của hồ không dám tiến. Trần Thư kể lại rằng :
"Bí
giữ hồ Điển Triệt, chỗ ranh giới với Khuất Liêu, sai đóng thuyền bè
chứa chật cả hồ. Chúng quân lo sợ, ngừng đóng tại cửa hồ, không dám
tiến. Cao tổ (Bá Tiên) nói với chư tướng rằng :"Quân ta đi đánh đã lâu,
tướng sỹ mỏi mệt, cứ cả năm cầm giữ lẫn nhau như thế này, sợ rằng đó
không phải là kế hay. Vả lại chúng ta, một cánh quân cô độc, viện binh
không có, lại đã vào sâu trong chốn tâm phúc của người ta, nếu như đánh
một trận không thắng thì mong gì sống. Nay nhân chúng thua chạy mấy lần,
nhân tình chưa vững, lại thêm Di Lão là đám quân ô hợp có thể dễ diệt,
chính là lúc nên cùng xuất quân liều chết mà đánh chứ vô cố mà ngừng lại
thì sẽ không còn thời cơ nữa".
Các
tướng của Bá Tiên đều nín lặng không tên nào dám hưởng ứng. Nhưng không
may cho Lý Nam Đế, ngay trong đêm mà Trần Bá Tiên họp các tướng đó,
nước sông đột nhiên dâng cao chẩy ào vào trong hồ. Bá Tiên bèn mang quân
theo dòng nước tiến lên, lợi dụng lợi thế đánh trống hò reo. Quân của
Nam Đế không kịp phòng bị thành ra tan vỡ. Nam Đế lại phải chạy về động
Khuất Liêu rồi hai năm sau chết ở đó (tháng 4 năm 548). Cái chết của Lý
Nam Đế sử ta và sử Trung Quốc chép khác nhau. Theo sử ta thì Lý Nam Đế
chạy vào động Khuất Liêu, trong lúc ông đang tìm cách thu thập tàn quân
và tụ tập những người thiểu số ra đánh nữa thì ông bị bệnh chết, nhưng
Trần Thư nói rằng, ông đã bị những người Lão, nhận hối lộ của quân Lương
giết chết, mang đầu dâng cho Trần Bá Tiên. (Tại Tuyên Quang, cách thị
xã Tuyên Quang khoảng 10 km trên đường đi Yên Báy còn có đền thờ Lý Nam
Đế ở trên núi. Tương truyền đây là nơi mà Lý Nam Đế bị giết).
Căn cứ vào những lời trên của Trần Bá Tiên trong Trần Thư,
ta có thể thấy rằng sự thành công của quân Lương lần này tùy thuộc vào
một người đến mức nào. Thảng như tướng chỉ huy của quân Lương không phải
là Trần Bá Tiên thì cục diện lịch sử nước ta có lẽ đổi khác. Nhận định
của Trần Bá Tiên về sự ủng hộ của dân chúng đối với Lý Nam Đế "nhân tình
chưa vững" cho thấy rằng chính trong hàng ngũ quân đội của Lý Nam Đế có
thể cũng đã có những dao động. Lý Nam Đế mới làm vua chưa đầy một năm
đã phải đối phó với một cuộc xâm lược lớn của quân Lương. Gần một năm
nữa đã trôi qua kể từ khi ông thất bại ở Gia Ninh và phải chạy vào trong
động Khuất Liêu. Tuy nhiên sự kiện này cũng cho thấy tình trạng suy yếu
đến mức nào của đế chế Trung Quốc dưới thời nhà Luơng. Thành ra một khi
Trần Bá Tiên trở về bắc, dẹp loạn Hầu Cảnh rồi cướp ngôi nhà Lương thì
châu Giao lại rơi vào tình trạng cũ.
Sau
khi Lý Nam Đế chết, anh của ông là Lý Thiên Bảo chạy vào được đến Cửu
Chân, rồi cùng với một người là Lý Thiệu Long tập hợp được hai vạn quân
đi đánh Đức Châu giết thứ sử Đức Châu là Trần Văn Giới. Sau đó quân Lý
tiến ra vây Ái châu. Trần Bá Tiên lại tiến quân vào Cửu Chân và đánh tan
nghĩa quân của Lý Thiên Bảo. Bá Tiên được Lương phong làm Chấn Viễn
tướng quân coi binh mã bảy quận, lĩnh chức thái thú Cao Yên. Với thất
bại của Lý Thiên Bảo, đất nước Vạn Xuân non trẻ của Lý Nam Đế cuối cùng
đã bị sụp đổ. Tuy nhiên khi Trần Bá Tiên về bắc, Triệu Quang Phục và Lý
Phật Tử đã nối theo Lý Nam Đế đuổi được quân Trung Quốc và lập lại nhà
nước độc lập tại Việt Nam thêm gần 60 năm nữa cho đến khi cuối cùng nước
ta lại mất vào tay nhà Tùy. Trong giai đoạn này sử ta như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết rất kỹ, trong khi đó sử Trung Quốc lại hầu như không nhắc đến.
Những
tài liệu về nhà Tiền Lý đã được sử Trung Quốc viết tản mạn ở trong
nhiều tiết mục khác nhau trong các bộ sử triều Lương và triều Trần thành
ra có nhiều chỗ khiếm khuyết gây nhiều nghi vấn. Tình trạng này lại
càng rối ren hơn khi nhắc đến những sự kiện xảy ra tại châu Giao sau khi
Lý Nam Đế bại vong. Nhưng ngay cả trong cuộc chiến của Lương chống lại
Lý Nam Đế, vốn đã được viết trong phần đế kỷ của Lương Thư và Trần Thư,
cũng có những sự kiện khiến chúng ta phải thắc mắc. Lấy thí dụ như việc
thứ sử Đức Châu Trần văn Giới bị Lý Thiên Bảo giết. Sự kiện này cho ta
thêm một số dữ liệu về tình hình phân tán thời đó. Đức Châu là vùng cực
nam của nước ta thời đó, Trần Bá Tiên khi còn đang chống nhau với Lý Nam
Đế tại vùng Vĩnh Yên Phú Thọ bây giờ, chắc chắn là không có thể mang
quân vào đến tận Đức Châu để chiếm lại. Lương Thư và Trần Thư khi chép
đến cuộc hành quân của Trần Bá Tiên cũng chỉ nhắc đến Dương Phiêu làm
thứ sử Giao Châu chứ không nói gì đến thứ sử các châu khác. Vả lại chính
Lương Thư cũng chép việc tướng Phạm Tu của Lý Nam Đế phá quân Lâm Ấp
tại Cửu Đức (quận nằm phía nam Đức Châu, nay là Hà Tĩnh) tức là chính
nhà Lương cũng biết rằng Đức Châu nằm trong vòng cai trị của Lý Nam Đế.
Vậy thì phải chăng Trần Văn Giới có thể, hoặc là người của Lý Nam Đế tại
Đức Châu nhưng khi thấy Nam Đế bị thua nên đầu hàng nhà Lương và được
Lương tiếp tục cho giữ Đức Châu, hoặc là quan lại cũ của nhà Lương, sau
khi Tiêu Tư bỏ chạy về Quảng Châu, đã hàng Lý Nam Đế, và sau đó khi Trần
Bá Tiên sang đã phản lại quay trở về với Lương. Dù sao chăng nữa, sự
kiện này cho thấy rằng thế lực của Lý Nam Đế thực tế chỉ bao gồm một số
vùng tại châu thổ sông Hồng và vùng trung du mà thôi. Tại các khu vực
khác uy quyền của Lý Nam Đế có thể không có bao nhiêu và khi ông bị thất
bại trước quân Lương thì hầu hết đã trở giáo quay lại với nhà Lương.
Tình
hình Giao Châu sau khi Trần Bá Tiên đem quân về bắc hầu như không còn
được nhắc tới trong các thư tịch của Trung Quốc nữa ngoại trừ những mẩu
ngắn trong phần liệt truyện của các viên quan lại Trung Quốc có đôi chút
dính líu đến nước ta. Chính vì vậy một số nhà sử học nhất là nước ngoài
đã tỏ ra nghi ngờ về những điều được chép trong chính sử của ta về nhà
Tiền Lý. Người đầu tiên đưa ra những nghi ngờ này là Henry Maspéro.
Trong một bài viết đang trên Tập San, Kỷ Yếu của Viện Viễn Đông Bác Cổ
"La Dynastie des Lý Antérieur" số XVI năm 1916, Maspéro, dựa theo thư
tịch Trung Quốc cho rằng từ năm 541 cho đến năm 602 chỉ có ba cuộc khởi
loạn ngắn :
1. Cuộc khởi loạn của Lý Bí từ 542 đến 547
2. Cuộc khởi loạn của Lý Xuân năm 590
3. Cuộc khởi loạn của Lý Phật Tử năm 602
Maspéro
cho rằng Triệu Quang Phục không phải là một nhân vật có thật vì sử
Trung Quốc không hề nhắc đến tên ông. Dẫn chứng những tài liệu thư tịch
Trung Quốc, Henry Maspéro chỉ ra rằng trong thời gian từ 548 cho đến
602, đã có rất nhiều quan lại Trung Quốc được cử sang cai trị Việt Nam.
Điều Maspéro, vì chỉ trông cậy vào sử liệu Trung Quốc không nhận ra là
điều đó chưa hẳn đã có nghĩa là trong giai đoạn đó Việt Nam thực sự bị
cai trị bởi vì rất có thể các chức quan đó chỉ có danh mà không có thật,
những viên quan được phong đó không hề bước chân đến châu Giao. Trường
hợp điển hình là Trần Bá Tiên được phong làm Giao Châu thứ sử năm 550.
Nhưng lúc ấy Bá Tiên đang đi từ Giang Tây về Kiến Nghiệp và Bá Tiên
không hề trở lại Giao Châu vì chỉ một năm sau đó, Bá Tiên đã làm thứ sử
Giang Châu rồi sau làm thừa tướng và cướp ngôi nhà Lương. Những viên
quan khác mà Maspéro dẫn tên đi sang cai trị Việt Nam từ năm 550 đến 557
cũng ở trong những trường hợp tương tự như vậy ; tỷ như Hoàng Pháp Câu,
được phong làm Giao Châu thứ sử năm 552, nhưng sự thực chỉ ăn lương thứ
sử Giao Châu chứ thực tế vẫn giữ chức huyện lệnh huyện Tân Kim (Giang
Tây). Năm 1944, một học giả Việt Nam, ông Nguyễn Văn Tố đã đăng một loạt
bài trên các báo Tri Tân và Thanh Nghị bác bỏ luận cứ của Henry Maspéro
về vấn đề nhà Tiền Lý.
6.3 Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử
Trong
khoảng 60 năm từ sau khi Lý Bí bại trận cho đến khi nhà Tùy thống nhất
Trung Quốc, tình hình Giao Châu ra sao sử ta và sử Trung Quốc chép rất
khác nhau. Đối với ta, đó là thời kỳ sau của nhà Tiền Lý với Triệu Quang
Phục và Lý Phật Tử, trong khi sử Trung Quốc thì không hề nhắc đến Triệu
Quang Phục mà chỉ nhắc đến Lý Phật Tử vào giai đoạn chót của thời kỳ
này khi nhà Tùy sai Lưu Phương sang chinh phục Giao Châu. Trong khi đó,
sử Trung Quốc lại nhắc đến Lý Hữu Vinh và Lý Xuân là những nhân vật
không hề được sử Việt Nam nhắc đến. Để có thể tìm hiểu sự thật lịch sử,
chúng ta hãy đối chiếu những gì ghi trong sử Việt Nam và sử Trung Quốc
để tìm một cách dung hòa.
Cuộc kháng chiến của Triệu Quang Phục và triều đại Lý Phật Tử theo sử Việt Nam
Theo
chính sử Việt Nam, sau khi thành Gia Ninh bị thất thủ, Lý Nam Đế phải
chạy vào trong động Khuất Liêu (năm 546), ông đã ủy cho đại tướng Triệu
Quang Phục, con quan thái phó Triệu Túc giữ việc chống cự với Trần Bá
Tiên tại đồng bằng sông Hồng.
Thấy quân Bá Tiên quá mạnh, Triệu Quang Phục lui về giữ đầm Dạ Trạch tại Chu Diên. Trần Bá Tiên đánh mãi không được. Lĩnh Nam Chích Quái chép :
"Quang
Phục đem quân nấp ở chầm. Chầm sâu và rộng, lầy lội, tiến binh rất khó.
Quang Phục dùng thuyền độc mộc đột xuất ra đánh cướp lương thực cầm cự
lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi. Trong ba bốn năm không hề đối diện
chiến đấu. Bá Tiên phải than rằng, ngày xưa đây là chầm một đêm bay về
trời nay là chầm một đêm cướp đoạt người".
Sau
khi nghe tin Nam Đế mất (năm 548) Triệu Quang Phục xưng vương hiệu gọi
là Triệu Việt Vương. Bá Tiên rút quân về Bắc dẹp loạn Hầu Cảnh ủy cho tỳ
tướng Dương Sàn thống lãnh sỹ tốt. Quang Phục ăn chay, lập đàn cầu đảo ở
giữa đầm bỗng thấy Chử Đồng Tử cưỡi rồng hiện xuống cho móng rồng gắn
trên mũ đâu mâu, nhờ đó đánh đâu thắng đó giết được Dương Sàn lấy lại
thành Long Biên. Quân Lương thua chạy về bắc. Quang Phục lên làm vua
được tới năm 571.
Trong
khi đó, Lý Thiên Bảo chạy vào động Dã Năng dựng nước ở đó tự xưng là
Đào Lang vương, đến năm 555 thì mất. Tộc tướng là Lý Phật Tử lên thay.
Năm 557, Lý Phật Tử đem quân đánh nhau với Triệu Quang Phục ở Thái Bình
rồi chia đất ở bãi quân thần. Lý Phật Tử cho con trai là Nhã Lang lấy
con gái Quang Phục là Cảo Nương. Nhã Lang lừa Cảo Nương đánh cắp móng
rồng rồi trốn về với cha mưu đem quân đánh Quang Phục. Năm 571, Lý Phật
Tử mang quân đánh úp Triệu Quang Phục chiếm lấy cả nước lại xưng hiệu là
Nam Đế (tức Hậu Lý Nam Đế) đóng đô ở Phong Châu. Được 32 năm thì bị nhà
Tùy diệt (năm 602).
Các
sự kiện được viết trong chính sử Việt Nam như đã vừa kể lại trên, hầu
hết dựa vào các thần tích và truyền thuyết. Chúng có thể có một cốt lõi
sự thật lịch sử, nhưng đã bị bao bọc bởi một lớp huyền thoại và thần
thánh hóa những nhân vật. Chuyện Chử Đồng Tử hạ trần cùng với chuyện Nhã
Lang và Cảo Nương lập lại gần giống hệt như chuyện thần Kim Quy và Mỵ
Châu Trọng Thủy thời An Dương Vương. Quan hệ giữa nước ta và Trung Quốc
cũng như giữa nước ta và Lâm Ấp hầu như không được nói tới trong suốt
giai đoạn trên 50 năm này, mặc dầu Lâm Ấp đang ở giai đoạn cường thịnh
và chắc chắn là đã có những cuộc xâm lược vào miền nam của nước ta thời
đó.
Về phần Trung Quốc lúc đó nhà Trần rất hèn yếu, Tùy Thư chép :
"Đến
đời Trần, đất đai càng thu hẹp, tây mất Thục Hán, bắc mất Hoài Phì, uy
lực không vươn ra khỏi vùng Kinh Dương (tức các vùng Hồ Nam, Hồ Bắc,
Giang Tây, Triết Giang hiện nay)".
Nhưng
tại vùng Lĩnh Nam (các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây), các hào tộc địa
phương cát cứ vẫn có đủ lực lượng để can thiệp vào công việc nội bộ của
ta. Thành ra muốn hiểu rõ thêm sự thực lịch sử ta phải trở lại chính sử
Trung Quốc để tìm thêm những dữ kiện khác bổ túc cho những điều mà sử ta
chỉ chép một cách khái quát.
Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử theo sử Trung Quốc
Giai
đoạn từ 547 cho đến 602 là một giai đoạn đại loạn của lịch sử Trung
Quốc. Chính vì vậy các sử gia chỉ tập trung nói đến chuyện xảy ra tại
Trung Nguyên ; tình hình phương nam, nhất là tại Giao Châu hầu như không
hề được nhắc tới, ngoại trừ khi có những chuyện liên quan trực tiếp đến
tình hình tại Trung Quốc. Chính vì vậy mà những biến loạn sau khi Trần
Bá Tiên trở về không được sử Trung Quốc nhắc đến không phải là đã không
xảy ra.
Ngược
giòng lịch sử, ta thấy, bắt đầu từ năm 547 khi Trần Bá Tiên trở về Bắc
tình hình Trung Quốc luôn luôn rối loạn. Năm 548, Hầu Cảnh nổi loạn,
chiếm kinh đô, giết Lương Vũ Đế. Khi Bá Tiên định dẫn một đội quân bắc
phạt, thứ sử Quảng châu Nguyên Cảnh Trọng âm mưu giết Trần Bá Tiên chạy
theo Hầu Cảnh. Phải đến năm 549 Bá Tiên mới dẹp yên được Nguyên Cảnh
Trọng và mời Tiêu Bột làm thứ sử Quảng Châu. Năm 550, Trần Bá Tiên mang
quân vượt qua Ngũ Lĩnh đánh Hầu Cảnh, để Quảng Châu lại cho Tiêu Bột.
Với vùng trung nguyên trong giai đoạn hỗn loạn, Toàn bộ miền Lĩnh Nam
(Quảng Đông, Quảng Tây và Việt Nam) nằm trong tay cai quản của Tiêu Bột.
Bột không phải là một tên tướng giỏi, và uy quyền của Bột theo như Tư
Mã Quang chép trong Tự trị Thông Giám không vượt quá một khu vực
vuông nghìn dặm (khoảng 500 km hiện nay). Như vậy có thể nói rằng ảnh
hưởng của Bột chỉ nằm chung quanh phạm vi thành phố Quảng Châu hiện nay
mà thôi.
Còn
tình hình tại châu Giao trong giai đoạn đó thì sao ? Chắc hẳn rằng khi
Trần Bá Tiên mang quân về bắc, Dương Phiêu với tư cách là thứ sử Giao
Châu ở lại để tổ chức việc cai trị. Cả hai sách sử Lương thư lẫn Trần thư
đều không có truyện về Dương Phiêu nên ta không biết gì về tên quan
này, nhưng rất có thể là sau khi Trần Bá Tiên mang quân về, Dương Phiêu
đã bị Triệu Quang Phục đánh bại. Sử ta chép rằng Triệu Quang Phục giết
được Dương Sằn, phải chăng Dương Sằn chính là Dương Phiêu chép nhầm ?
Tháng
11 năm 557, Trần Bá Tiên cướp ngôi nhà Lương, lập ra nhà Trần. Toàn bộ
vùng Lĩnh Nam náo loạn, Tiêu Bột, một tôn thất nhà Lương, nổi dậy chống
Trần Bá Tiên. Bột sai Âu Dương Ngủy mang quân lên phía Bắc đánh Tiên,
nhưng quân của Ngủy bị đánh bại, Ngủy bị bắt. Khi tin thất trận được
truyền đến Quảng Châu, đám bộ hạ của Bột đều tìm cách tự bảo vệ lấy thân
và Bột bị một tướng của mình là Trần Pháp Vũ giết chết. Sau khi Bột
chết cả miền nam rơi vào tình trạng hỗn loạn. Biết rằng họ Âu Dương là
một họ có uy tín tại vùng Lĩnh Ngoại, Bá Tiên thả Âu Dương Ngủy ra và
cho xuống chinh phuc vùng Lĩnh Nam. Chính sử Trung Quốc không nói Ngủy
đã làm được những gì. Trần thư chỉ chép vắn tắt : "Ngủy lấy được Quảng
Châu, Lĩnh Nam đều bình định hết". Ngủy được phong làm thứ sử Quảng
Châu, đô đốc binh mả toàn bộ 19 châu thuộc hai châu Giao và Quảng cũ,
tức là cả sáu châu thuộc nước ta.
Chính
giai đoạn này là giai đoạn mà sử ta chép đến cuộc nội chiến giữa Triệu
Quang Phục và Lý Phật Tử. Có thể rằng lúc này Triệu Quang Phục có liên
lạc với Âu Dương Ngủy và chịu sự kiểm soát của Ngủy. Trong thời gian
này, Trần Thư chép, Âu Dương Ngủy nhận được một số vàng lớn từ Viên Đàm
Noãn, thứ sử Giao Châu. Ngủy đã dùng một phần số vàng đó cho tên thái
thú Hợp Phố và chỗ còn lại cho con là Âu Dương Ngột. Đàm Noãn chết, Ngủy
phong cho con là Âu Dương Thịnh làm thứ sứ Giao Châu. Nhưng rõ ràng là
chức thứ sử Giao Châu của Thịnh chỉ là hư vị vì tiểu sử của Thịnh cho
thấy hầu hết các hoạt động của Thịnh nằm ở phía bắc châu Quảng chứ không
liên quan gì đến châu Giao cả. Lý Phật Tử ngược lại có thể có quan hệ
với Vương Lâm. Lâm là một tên tướng của Lương rất có uy thế tại vùng
Quảng Tây hiện nay. Cho đến năm 557 khi Lâm hàng Trần, Lâm và Âu Dương
Ngủy vẫn đối nghịch nhau tại vùng Lĩnh Nam. Việc Vương Lâm nổi lên chống
Trần Bá Tiên có thể là nguyên nhân khiến Lý Phật Tử rời khỏi cơ sở của
mình ở vùng núi mà tìm cách tranh quyền với Triệu Quang Phục tại vùng
đồng bằng ; và khi Vương Lâm đầu hàng Trần Bá Tiên thì có thể là nguyên
nhân khiến Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử giảng hòa và quyết định chia
đôi cai trị.
Năm
563, Âu Dương Ngủy chết, con là Âu Dương Ngột lên thay làm thứ sử Quảng
Châu kiêm tổng đốc binh mã 19 châu. Năm 569 Âu Dương Ngột nổi dậy chống
nhà Trần, nhưng thất bại và bị tiêu diệt. Tình hình vùng Lĩnh Nam rối
ren trở lại. Trong dịp này Trần cử một phái đoàn do Nguyễn Trác cầm đầu
sang Giao Châu. Trần Thư chép :
"Sau
khi dẹp được Âu Dương Ngột, bọn Di Lão ở Giao chỉ thường thường tụ họp
cướp bóc. Nguyễn Trác phụng mệnh đi sứ để chiêu dụ Giao chỉ. Trác đến
Nhật Nam, miền Tượng quận có nhiều vàng, lông chim trả, châu báu, những
sản vật quý lạ. Các sứ giả trước sau thường lấy những đồ đó đem về. Duy
có một mình Trác trần thân mà về, hành trang quần áo không có gì khác
cả".
Chuyến
đi của Nguyễn Trác chính trùng hợp với thời gian Triệu Quang Phục bị
mất nước với Lý Phật Tử. Là đồng minh hay phiên thần của Âu Dương Ngột,
Triệu Quang Phục chắc hẳn phải đối phó với Nguyễn Trác. Có thể rằng Lý
Phật Tử đã liên minh với Trác để đánh Triệu Quang Phục. Tuy nhiên điều
Trần thư nói đến "bọn Di Lão ở Giao chỉ tụ họp cướp bóc" cũng có thể là
một cách ám chỉ Lý Phật Tử, vì Lý Phật Tữ đã cùng với Lý Thiên Bảo chạy
sang lánh nạn tại khu vực của những người Di Lão này và như vậy chuyến
đi của Nguyễn Trác có mục đích giúp cho Triệu Quang Phục hơn là chống
lại ông. Nhưng điều mà ta có thể chắc chắn được là vào thời bấy giờ nước
ta không thể nào có được một chính quyền độc lập hoàn toàn, vì nếu có
thì Nguyễn Trác và những tên sứ khác không thể nào có thể đi chiêu dụ
khắp nơi cho đến Nhật Nam mà không gặp một phản ứng nào, lại càng không
thể nào vơ vét tài sản mang về như Trần Thư đã chép ở trên. Chắc hẳn vào
lúc đó chính quyền địa phương do ta kiểm soát nhưng trên nguyên tắc vẫn
thần phục nhà Trần.
Sau
năm 571, sử ta chỉ chép Lý Phật Tử cai trị xưng là Hậu Lý Nam Đế cho
đến năm 602 thì bị nhà Tùy diệt. Nếu tính về niên kỷ thì Lý Phật Tử đã
trị vì tới 45 năm kể từ khi chia nước với Triệu Quang Phục. Trước đó,
ông chắc hẳn đã theo Lý Bí. Đây là một khoảng thời gian rất dài đối với
tuổi thọ thời đó. Phải chăng danh hiệu Lý Phật Tử là một danh hiệu chung
bao gồm nhiều thế hệ lãnh đạo họ Lý mà vì sự sùng mộ đạo Phật đã cùng
được mệnh danh là Lý Phật Tử ? Nếu điều đó đúng thì nó cũng giải thích
sự xuất hiện của một số nhận vật lãnh đạo châu Giao họ Lý trong thời
gian này. Trần Thư chép năm 583, thứ sử Giao Châu là Lý Hữu Vĩnh dâng
voi làm cống nạp cho nhà Trần. Voi vốn là cống phẩm thường thấy trong
những đồ cống nạp của Lâm Ấp hoặc của các nước phương Nam khác. Việc
xuất hiện voi trong danh sách các đồ cống phẩm của một "thứ sử châu
Giao" bao hàm ý nghĩa rằng vị thứ sử này đã theo các phương thức ngoại
giao của một đất nước phưong Nam chứ không phải theo tập quán của các
quan lại đế chế phương bắc.
Tại
phương Bắc, năm 581, Dương Kiên cướp ngôi nhà Chu lập ra nhà Tùy đóng
đô ở Trường An. Đến năm 589, Tùy sai quân chia làm hai đường vượt Trường
Giang xuống phía nam diệt nhà Trần thống nhất Trung Quốc. Tại vùng Lĩnh
Nam, một số thứ sử, thái thú đầu hàng nhà Tùy, trong khi một số người
khác chống lại. Tùy thư chép :
"Tháng
11 năm Khai Hoàng thứ 10 (590) người Vụ châu là Uông văn Tiến, người
Cối kê là Cao Trí Tuệ, người Tô Châu là Thẩm huyền Khoái đều cử binh làm
phản tự xưng thiên tử, đặt trăm quan. Bọn Sài đạo Nhân ở Lạc An, Lý
Lăng ở Tưởng Sơn, Ngô Đại Hoa ở Nhiêu Châu, Thẩm Hiếu Triệt ở Vĩnh Gia,
Vương Quốc Khánh ở Tuyền Châu, Dương Bảo Anh ở Dư Hàng, Lý Xuân ở Giao
Chỉ, đều tự xưng đại đô đốc đánh phá các châu huyện. Hoàng đế xuống
chiếu cho chức Thượng Trụ Quốc, nội sử lệnh, Viêt Quốc công Dương Tố đi
đánh, dẹp được".
Thực
ra Dương Tố chỉ mới xuống đến vùng Triết Giang, Phúc Kiến mà thôi chứ
chưa từng xuống đến vùng ngoài Ngũ Lĩnh chứ chưa nói đến Việt Nam hiện
nay. Chính sách của nhà Tùy bấy giờ đối với vùng ngoài Ngũ Lĩnh là dung
dưỡng và ràng buộc "thừa chế bổ bọn cừ suý làm thứ sử thái thú" rồi về.
Thành ra ta có thể chắc rằng Lý Xuân vẫn tiếp tục được làm thứ sử Giao
Châu. Nhà Tùy lúc đó chưa nắm hết được miền Lĩnh Nam. Thế lực của Tùy
còn yếu, tình trạng cát cứ còn mạnh, cho nên Tùy bắt buộc phải trao
chính quyền địa phương cho các hào trưởng địa phương, tuy rằng về danh
nghĩa những người này vẫn nhận chức tước ở triều đình trung ương. Thiền Uyển Tập Anh,
truyện "Pháp Sư Đàm Thiên" có nhắc đến lời Tùy Cao Tổ (Dương Kiên) "đất
Giao Châu tuy rằng nội thuộc nhưng chỉ là đất cơ mi (ràng buộc) mà
thôi".
Năm
597, Tùy đặt phủ Tổng quản ở Quế Châu sai Lệnh Hồ Hi làm tổng quản, có
quyền bổ nhiệm từ thứ sử trở xuống. Đến đây nhà Tùy đã kiểm soát thêm
một phần vùng đất Lĩnh Nam. Các hào trưởng cát cứ lần lượt bị gọi vào
triều chầu hoàng đế. Năm 602, Tùy thư chép :
"Lệnh
Hồ Hi phụng chiếu gọi cừ suý Giao Châu là Lý Phật Tử vào triều. Phật Tử
muốn làm loạn, xin đến tháng trọng đông sẽ lên đường. Bàn ý của Lệnh Hồ
Hi cũng chỉ muốn ràng buộc Phật tử nên y theo lời xin của y. Có người
đến cửa khuyết tố cáo Hi ăn hối lộ của Phật Tử. Vua nghe có ý ngờ. Khi
Phật Tử làm phản hỏi đến nơi, vua giận lắm sai bắt Lệnh Hồ Hi đem về
triều. Đến khi tổng quản là Lưu Phương bắt được Phật Tử đem về kinh sư,
nói rằng ở nhà Hi không có tang vật, vua mới tỉnh ngộ".
Tóm
lại trong thời kỳ sử ta chỉ chép đến Lý Phật Tử, sử Trung Quốc nhắc đến
ba người họ Lý : Lý Hữu Vinh, Lý Xuân và Lý Phật Tử. Phải chăng ba
người đó chỉ là một hay là ba thế hệ của một giòng họ Lý cai trị đất
Giao trong gần 50 năm. Đây là một vấn đề mà chúng ta vẫn còn chưa có
bằng chứng giải quyết.
6.4. Cuộc chinh phục của nhà Tùy : đất Việt rơi trở lại tình trạng nội thuộc
Giai
đoạn này, sử ta và sử Trung Quốc chép gần giống nhau. Để đối phó với
nhà Tùy, Lý Phật Tử sai người anh là Lý Đại Quyền giữ thành Long Biên ;
tướng là Lý Phổ Đĩnh giữ thành Ô Diên còn tự mình giữ thành cũ của Việt
Vương (tức thành Cổ Loa).
Tháng
giêng năm 603, nhà Tùy cử Lưu Phương dẫn quân thuộc 27 doanh sang chinh
phục. Lưu Phương chia quân theo đường Vân Nam tiến xuống. Tới núi Đô
Long, gặp quân của Phật Tử. Quân ta thua, quân Tùy kéo thẳng đến chỗ
Phật Tử đóng binh. Lưu Phương sai người dụ Phật Tử ra hàng rồi bắt đem
về Trường An. Thế là nước ta lại rơi trở vào vòng thống trị của Trung
Quốc thêm ba trăm năm nữa.
6.5. Thế kỷ thứ sáu và sự thành hình của dân tộc tính Việt Nam
Trong
suốt thời kỳ Bắc thuộc, có lẽ chỉ trong thế kỷ thứ sáu với nhà Tiền Lý
qua các triều đại của tiền Lý Nam Đế, Triệu Việt vương và hậu Lý Nam Đế
là đất nước ta được hưỏng một thời gian tự trị nhiều nhất, trên 60 năm
nếu kể từ lúc Lý Nam Đế nổi dậy đuổi quân Lương. Chính vì vậy mà thế kỷ
này là lúc thành hình của dân tộc tính Việt Nam, mở đường cho các triều
đại độc lập của các thế kỷ thứ 10 và 11. Một số những phong cách của
thời kỳ này sẽ xuất hiện trong các triều đại độc lập về sau này.
Trong
những phần trước chúng ta đã nói đến sự hình thành và phát triển của
tầng lớp môn phiệt châu Giao. Đến thế kỷ thứ sáu, tầng lớp này đã mạnh
đủ và ý thức đủ để thấy họ bị chèn ép bởi tầng lớp môn phiệt phương Bắc.
Từ đó, ước vọng tách ra thành một đất nước độc lập đã nổi lên dẫn đến
cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế. Lý Nam Đế chính là kết thúc logic của sự
phát triển của tầng lớp này. Vì không có một khuôn mẫu tổ chức xã hội
nào khác để so sánh cho nên họ chỉ có thể thành lập một chính quyền dập
khuôn theo chính quyền của đế chế Trung Quốc. Đó chính là điều mà Lý Bí
đã làm khi ông thành lập một chính quyền mới, tự xưng là Nam Đế, đặt
niên hiệu, lập triều chính rập khuôn theo như những triều đại ở phương
Bắc. Tuy rằng triều đại của ông chỉ ngắn ngủi có vài năm, nhưng nó đã mở
đường, làm một mẫu mực cho các triều đại Việt Nam về sau này.
Tuy
nhiên, bên cạnh truyền thống chính trị du nhập từ phương Bắc vào còn
một truyền thống khác mà ta tạm gọi là truyền thống "vua" của dân Lạc
trái với truyền thống "đế" của Trung Quốc.
Nếu
cuộc khởi nghĩa của Lý Bí hãy còn là một sự kết hợp giữa truyền thống
Lạc và Hán với Triệu Túc đóng vai "thái phó" đại diện cho truyền thống
Lạc trong triều đình của nhà Tiền Lý, thì cuộc chinh phục của Trần Bá
Tiên đã khiến cho hai truyền thống này thể hiện ra riêng rẽ trong phản
ứng kháng chiến chống lại quân xâm lược từ phương Bắc.
Giòng
họ Lý, khởi đầu với Lý Bí và kế tiếp theo đó là Lý Thiên Bảo và Lý Phật
Tử, chạy lên núi và là đại diện cho việc du nhập mô hình "đế" vào trong
hệ thống chính trị Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống lại quân
Trần-Lương, Lý Thiên Bảo chạy lên núi đến động Dã Năng, tự xung là Đào
Lang vương. Việt Điện U Linh Tập dẫn lời Sử Ký của Đổ Thiện chép lại
chuyện Lý Thiên Bảo như sau :
"Thiên
Bảo chạy đến động Dã Năng tại nguồn con sông Đào Giang. Ông thấy vùng
này xinh dẹp, đất đai rộng lớn và mầu mỡ có nhiều sản vật, bèn xây một
cái thành ở lại đây. Dân chúng nghe tiếng quy tụ theo càng ngày càng
đông, đức năng lan ra khắp nơi xa gần. Đất nước Dã Năng từ đó được thành
lập và Thiên Bảo được tôn làm Đào Lang Vương. Khi ông mất không có
người thừa kế, mọi người bèn tôn Lý Phật Tử lên thay. Trần Bá Tiên về
Bắc, Phật Tử mang quân xuống đông. Chúng khuyên Phật Tử hãy tự xưng làm
đế. Phật Tử nghe theo, bèn xưng là Nam Đế".
Động
Dã Năng của Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử trong mô tả như vậy là một cảnh
thiên đường. Ở đầu nguồn sông Đào Giang, nó làm chúng ta nhớ lại câu
chuyện huyền thoại về Đào Nguyên của Đào Uyên Minh đời Tấn. Đào Nguyên
là một nơi giả tưởng, trong đó dân chúng sống chất phác thanh bình. Theo
Đào Uyên Minh, thời Tấn có người tiều phu vào trong núi Thiên Thai kiếm
củi, bị lạc, bèn đi dọc một con suối để tìm đường ra. Hai bên suối
nhiều cây đào mọc hoang nên gọi là Đào Nguyên. Đi một hồi lâu thì thấy
suối đi vào một cái động. Bước vào trong động đi thêm một hồi lâu nữa
thì ra đến một nơi bằng phẳng, đất đai mầu mỡ, cây cỏ tốt tươi, người ở
đông đúc, nhưng phục sức, ngôn ngữ đều khác với người bên ngoài. Tiều
phu hỏi thì nói rằng họ đều là dân chúng chạy loạn thời Tần Hán, vào đến
nơi này ở đã mấy trăm năm, không hề biết bên ngoài thời thế đổi thay đã
bao nhiêu triều rồi. Ở đấy ít lâu, tiều phu nhớ nhà đòi về. Về sau,
tiều phu lại tìm đến nơi Đào Nguyên đó thì chỉ thấy rừng núi mông mê
không làm sao tìm ra đường cũ được.
Ta
không biết huyền thoại Đào Nguyên được chính Lý Phật Tử sử dụng hay là
các sử gia đời sau đưa ra để biện minh cho giai đoạn mà thanh thế họ Lý
xuống đến thấp nhất. Tuy nhiên, đây là một quả là một biện pháp tuyên
truyền rất hay. Chính quyền họ Lý bỏ chạy vào trong núi và mất tích
trong nhiều năm không có liên lạc gì với vùng đồng bằng. Lý Phật Tử vì
vậy phải đưa ra một giải thích nào đó khiến cho dân chúng chấp nhận sự
chính thống của mình. Một nơi như là Đào Nguyên chính là một nơi lý
tưởng, một "thế ngoại chi cảnh" mà khi người ta rời khỏi thì không còn
cách gì tìm ra đường trở lại nữa. Bằng cách mô tả khu động Dã Năng và
huyền thoại Đào Nguyên hầu như giống hệt nhau, Lý Phật Tử đã khẳng định
Dã Năng và Đào Nguyên đều là hai nơi bên ngoài trần thế và vì vậy một
khi rời ra người ta không thể nào quay trở lại được.
Hơn
nữa Đào Nguyên và đất nước Dã Năng của Lý Phật Tử là những huyền thoại
về một chính quyền thời thịnh trị. Điều này không những quảng cáo cho
tài cai trị của họ Lý mà còn có tác dụng hấp dẫn với những người dân ở
đồng bằng chịu sự áp bức và bóc lột của các chính quyền phương Bắc.
Người dân tại Đào Nguyên đã tìm được ra cảnh thiên đường này sau khi
chạy trốn loạn lạc vào cuối đời Tần. Họ không hề biết đến các đời Hán và
những đời sau đó : Họ đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của quan lại triều
đình phương Bắc. Qua việc khẳng định đất nước Dã Năng này với Đào
Nguyên, Lý Phật Tử đã khẳng định sự khác biệt của mình với các triều đại
phương Bắc.
Nếu
Lý Phật Tử dùng những huyền thoại của Trung Quốc để khẳng định sự khác
biệt giữa Nam và Bắc thì Triệu Quang Phục đã dùng những huyền thoại cũ
của chính dân Lạc để khẳng định sự độc lập của dân tộc mình. Sống và
chiến đấu trong vùng đầm lầy ở Chu Diên, giữa những người dân Lạc đã
không bị ảnh hưởng nhiều của văn hóa Trung Quốc, Triệu Quang Phục đã
dùng những hình tượng thể hiện một truyền thống lâu đời của vương quốc
Văn Lang qua đó lấy sự ủng hộ của quần chúng. Chử Đồng Tử cưỡi rồng
giáng thế trao cho Triệu Quang Phục móng rồng là biểu tượng quyền lực
của ông có thể bảo vệ được đất nước. Điều này làm ta nhớ câu chuyện
trong Lĩnh Nam Chích Quái nói về Lạc Long Quân trong đó kể : "Hễ dân có
việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng "Bố ơi, bố ở đâu mà không lại cứu
chúng con". Long Quân tới ngay. Sự linh hiển cảm ứng của Long Quân,
người đời không thể lường nổi".
Tuy
nhiên, sáu thế kỷ dưới sự cai trị của người Hán không thể nào không để
lại những dấu ấn sâu đậm về văn hóa xã hội. Người Việt nay không còn là
người Lạc thời xa xưa nữa. Thành ra, nếu việc bắt chước các hình thức
triều chính của phương Bắc không thỏa mãn được nguyện vọng sâu xa của
dân Việt thì việc trở lại với hình thức xã hội cổ truyền cũng không đáp
ứng được nhu cầu mới của xã hội. Để có thể tách rời vĩnh viễn ra khỏi đế
quốc Trung Hoa xã hội Việt Nam cần có một cái gì hội nhập hai yếu tố
Hán và Lạc để thành một sắc thái mới độc nhất, sắc thái Việt. Yếu tố
tổng hợp đó chính là Phật Giáo. Và tuy rằng phải mất ba thế kỷ nữa, nền
độc lập của Việt Nam mới được vững bền, nhưng những bước đầu của việc
tổng hợp đó chính bắt đầu trong thế kỷ thứ sáu này.
Đến
thế kỷ thứ sáu, Phật Giáo tại Việt Nam đã có một lịch sử trên ba trăm
năm. Phật Giáo Việt Nam trong giai đoạn này phần lớn được du nhập trực
tiếp từ Ấn Độ sang qua ngả đường biển. Thời Nam Tề, Tề Cao Đế (479-482)
khi dự định gởi nhà sư sang châu Giao đã được thiền sư Đàm Thiên khuyên
rằng :
"Giao
Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Phật Giáo vào Trung Quốc, chưa phổ
cập đến Giang Đông mà xứ ấy đã xây ở Liên Lâu hơn 20 bảo tháp, độ được
500 vị tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy đã có đạo Phật
trước ta".
Nhưng
dưới thời Lý Phật Tử, Phật Giáo Việt Nam lần đầu đi vào con đường Việt
Nam hóa và tổng hợp hai giòng Phật Giáo Thiên Trúc và Trung Quốc. Nhà
Tiền Lý rất hâm mộ Phật Giáo. Ngay từ khi lên ngôi, Lý Bí đã cho xây
chùa Vạn Phúc cùng lúc với cung Vạn Thọ để làm nơi thờ Phật. Hiện tại
chùa này còn một pho tượng Phật A Di Đà với nghệ thuật điêu khắc theo
kiểu Long Môn cho thấy đạo Phật lúc đó đã thịnh hành đến mức nào tại
Việt Nam. Phật Giáo trong giai đoạn đầu được phổ biến nhiều trong dân
gian dưới hình thức Tịnh Độ Tông thờ Phật A Di Đà và phối hợp với tục
thờ phủ mẫu (các nữ thần nông nghiệp) vốn có trước đó của dân Lạc. Hiện
khá nhiều chùa chiền miền Bắc Việt Nam còn có hậu điện thờ các vị mẫu
như mẫu Thượng Ngàn, mẫu Thiên Phủ và mẫu Thoải (Thủy). Nhưng phải đến
khi Tì Ni Đa Lưu Chi sang Việt Nam lập ra giòng Thiền đầu tiên của Việt
Nam thì đạo Phật mới xâm nhập nhiều vào giới trí thức.
Theo
truyền thuyết, Thiền Tông bắt đầu từ ngài Ca Diệp tông giả làm tổ thứ
nhất. Đức Phật trong hội Linh Sơn giơ bông hoa trước chúng đệ tử mỉm
cười (niêm hoa vi tiếu). Tất cả đều không hiểu ý, duy có ngài Ca Diệp
mỉm cười lĩnh hội được ý Phật. Đức Phật liền nói :"Ta trao cho ông Diệu
Tâm Niết Bàn". Từ đó Ca Diệp thành sơ tổ của Thiền Tông. Ca Diệp sau
truyền lại cho A Nan làm tổ thứ hai ; cứ như vậy cho đến Đạt Ma là tổ
thứ 28. Đạt Ma sau đó sang Trung Quốc vào khoảng năm 520 đời Lục Triều.
Ông xuống Kiến Nghiệp giảng đạo cho Lương Vũ Đế, rồi lên phía bắc tu tại
chùa Thiếu Lâm ở Hà Nam và truyền bá đạo Thiền cho Trung Quốc. Đạt Ma
truyền cho Tuệ Khả. Tuệ Khả truyền cho Tăng Sán. Trong số các đồ đệ của
Tăng Sán có Tì Ni Đa Lưu Chi, sau này trở thành tổ đầu tiên của Thiền
Tông Việt Nam.
Tì
Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) người Thiên Trúc, sang Trung Quốc theo học
với Tăng Xán, sau khi truyền yếu quyết, Tăng Xán khuyên Tì Ni Đa Lưu Chi
đi về Nam. Năm 580, sư đến Giao Châu và tu ở chùa Pháp Vân, một trong
bốn ngôi chùa chính được xây vào thời Sỹ Nhiếp. Tại đây sư trụ trì cho
đến khi viên tịch vào năm 594 sau khi truyền lại y bát cho Pháp Hiền làm
tổ thứ hai của Thiền Tông Việt Nam. Pháp Hiền sau đó xây một ngôi chùa
mới tại Từ Sơn và truyền dậy đạo Thiền cho hơn ba trăm đệ tử.
Theo
Thiền Uyển Tập Anh, Pháp Hiền người Chu Diên, họ Đỗ. Như vậy chắc hẳn
Pháp Hiền có một quan hệ gì với họ Đỗ vốn đã từng cai trị châu Giao
trong các thế kỷ thứ tư và thứ năm. Trước khi theo học với Tì Ni Đa Lưu
Chi, Pháp Hiền đã học và được nhà sư Quán Duyên ở chùa Pháp Vân độ làm
tăng, nhưng chỉ đạt được yếu quyết về Thiền học khi theo học với thầy
mới.
Sự
phát triển của Thiền Tông Việt Nam kể từ thời Pháp Hiền cho thấy mức độ
ủng hộ của giới quý tộc và có thể của cả chính quyền đối với Phật Giáo
rất là mạnh. Ngay cái tên Lý Phật Tử cũng có thể cho thấy một phần nào
quan hệ của Phật Giáo đối với nhà Tiền Lý này. Chính những sư tăng Thiền
Tông Việt Nam sau này sẽ đóng một vai trò quan trọng trong các chính
quyền độc lập đầu tiên của nước Việt.
Thế
kỷ thứ sáu là một thế kỷ bản lề trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Qua
Triệu Quang Phục, những di sản của thời kỳ Tiền Việt được truyền lại
qua những thế kỷ để đến tay các nhà lãnh đạo đất nước trong những giai
đoạn sắp tới, trong khi những diễn biến chính trị từ Lý Bí qua Triệu
Quang Phục và Lý Phật Tử cũng như sự phát triển mạnh mẽ của Phật Giáo
Thiền Tông là những dấu hiệu sớm báo hiệu phương cách mà dần dà dân tộc
Việt Nam có thể tách ra được khỏi vòng cai trị của đế quốc phương Bắc
trong các thể kỷ thứ 10 và thứ 11.
Chương 7 : Giai đoạn Bắc thuộc lần thứ ba : Từ sự sụp đổ của nhà Tiền Lý cho đến cuối đời Đường
7.1. Việt Nam dưới triều Tùy và Đường
Giống
như nhà Tần trước đó 800 năm, nhà Tùy nổi lên chỉ trong một thời gian
ngắn rồi suy tàn mở đường cho nhà Đường mà sau đó sẽ mang văn minh Trung
Quốc lên đến một đỉnh cao mới. Tuy nhiên trong thời gian ngắn ngủi đó,
Tùy cũng đã làm được một số việc.
Đầu
đời Tùy, vì có hiện tượng quận huyện quá nhiều - dân ít, quan nhiều -
nên năm 583, Tùy đã bỏ tất cả các châu lập thành quận, rồi đến năm 607
đời Tùy Dạng Đế lại bỏ quận lập châu. Cũng năm 607, Tùy dời quận trị
Giao Chỉ từ Long Biên đến Tống Bình (miền Hà Nội) hiện nay. Từ đó vùng
Hà Nội trở thành khu vực trung tâm của miền Bắc nước ta. Dưới thời Tùy
đất nước ta được chia thành các quận sau :
- Giao Chỉ gồm toàn bộ vùng Bắc Bộ hiện nay (30.056 hộ) ;
- Cửu Chân là vùng Thanh Hóa hiện nay (16.135 hộ) ;
- Nhật Nam gồm Nghệ An, Hà Tĩnh hiện nay (9.915 hộ).
Ngoài
ra còn ba quận nhỏ nữa thuộc vùng Bình Trị Thiên là vùng đất mà Tùy
chiếm được của Lâm Ấp. Trong thời gian ngắn ngủi trước khi Trung Quốc
đại loạn trở lại Tùy đã tìm cách làm một số cải tổ như áp dụng chế dộ
"quân điền" cải cách ruộng đất, phát ruộng cho nông dân nghèo để làm
giảm bớt thế lực của các hào tộc. Số lượng hộ khẩu tăng vọt lên vào đời
Tùy có lẽ đã phản ảnh một phần sự thành công của chính sách đó. Tuy
nhiên chẳng bao lâu sau loạn lạc đã trở lại.
Cuối
triều Dạng đế, vì thi hành bạo chính, lại thêm mở các cuộc chiến tranh
xâm lược các lân bang, dân chúng đói khổ nổi lên khắp nơi. Bắt đầu từ
năm 611 khi cuộc đại khởi nghĩa của nông dân bắt đầu bùng lên thì triều
đình Tùy không còn kiểm soát được các địa phương khác nữa. Đất Giao Châu
ở vào vùng cực nam của đế quốc Tùy vì vậy trở nên hoàn toàn cách tuyệt
với Trung Quốc.
Thứ sử Giao Châu lúc đó là Khâu Hòa. Khâu Hòa, người Lạc Dương, Cựu Đường Thư và Tân Đường Thư
đều có truyện, nhà giầu "ngang vương giả", bố làm quan võ. Hòa lúc nhỏ
tập võ, sau lớn lên theo về văn ra làm quan với nhà Bắc Chu. Dưới đời
Tùy, Hòa làm thái thú tại nhiều quận vùng Hoa Bắc và được tiếng là trị
dân tốt, "vỗ về dân chúng hết lòng, miền xa xôi hoang vu trở nên yên
tĩnh" (Cựu Đường Thư). Theo Tùy thư, "vào cuối đời Đại
Nghiệp (605-617) miền Hải Nam bị bọn quan lại nhũng nhiễu, nhân dân óan
hận, nhiều lần nổi lên" Tùy triều, không đủ lực lượng để chinh phục, nên
chỉ còn cách chọn những quan lại thanh liêm, có tài cai trị để làm dịu
lòng dân chúng. Khâu Hòa lúc đó đã ngoài sáu mươi tình nguyện đi Giao
Châu.
Giống
như dưới thời Sỹ Nhiếp và Đỗ Tuệ Độ, trong cuộc loạn cuối đời Tùy, Khâu
Hòa đã giữ được cho đất Giao Châu là một ốc đảo hòa bình trong khi cả
đế quốc Trung Hoa rộng lớn bị rối loạn.
Cựu Đường Thư chép (dưới thời Khâu Hòa) :
"Các
dân man di từ các vương quốc ở vùng biển phía nam, các dân man ở Nam và
Tây Nam châu Giao và các dân sống ở các đảo ngoài khơi đại dương... đi
thuyền đến sau khi vượt qua ngàn dậm biển... mang các hàng hóa đến vào
qua đường Giao Chỉ như họ đã làm trong thời Hán Vũ Đế".
Và khi Khâu Hòa đến Giao Chỉ thì đã :
"Xoa
dịu được các hào tộc địa phương và lấy được sự thần phục của các giống
man di...tất cả các tộc man ở phía Tây Lâm Ấp đã gởi cống Hòa trân châu,
sừng tê, vàng bạc và những đồ trân quý xứng đáng với một bậc vương
hầu".
Sau
khi Lâm Sỹ Hoằng nổi dậy ở Giang Tây, tự xưng là Sở Đế chiếm cứ từ Cửu
Giang (Giang Tây) đến Phiên Ngung (Quảng Đông), Giao Châu hoàn toàn cách
tuyệt với Trung Quốc. Vùng Giang Nam đại loạn. Tiêu Tiễn (một tôn thất
nhà Lương cũ) nổi lên ở Ba Lăng (Hồ Nam) sau đó đánh bại Lâm Sỹ Hoằng
chiếm vùng đất của Hoằng. Thái thú Uất Lâm là Nịnh Trường Chân theo hàng
Tiêu Tiễn. Tiễn nghe tin đất Giao Chỉ giầu có sai Nịnh Trường Chân đem
đánh Hoằng. Hoằng sai trưởng sử là Cao Sỹ Liêm đem quân chống, thắng
được Nịnh Trường Chân. Tuy nhiên sau khi nghe nhà Tùy mất ngôi, Hoằng
cũng theo về hàng Tiêu Tiễn.
Năm
618, cha con Lý Uyên và Lý Thế Dân dựa vào sự giúp đỡ của rợ Đột Quyết,
chiếm kinh thành Tràng An lập ra nhà Đường. Khi Tiêu Tiễn bị Đường
diệt. Hòa hàng Đường và được Đường tiếp tục cho cai trị ở Giao Châu. Thế
là đất ta lại chịu sự cai trị trực tiếp của Trung Quốc. Tân Đường Thư chép :
"Đến đời Vũ Đức (618-627) các đất Ninh Việt, Uất Lâm đầu hàng, bấy giờ mấy châu Giao, Ái mới thông".
Nhà
Đường bãi bỏ các quận do Tùy lập, khôi phục hệ thống các châu nhỏ như
thời Nam Bắc Triều. Năm 622, thời Đường Thái Tông, Đường thành lập hai
phủ Tổng Quản để kiềm chế nước ta. Phủ tổng quản thứ nhất được đặt tại
Tống Bình, cai quản mười châu thuộc đồng bằng sông Hồng và sông Mã. Phủ
tổng quản thứ hai được đặt tại vùng đồng bằng sông Cả, nhằm kiểm soát
biên thùy với Lâm Ấp và các tộc thiểu số thuộc vùng núi. Ái Châu (Thanh
Hóa) nằm trong phủ tổng quản Giao Châu trị sở ở Tống Bình nhưng lại đóng
một vai trò quan trọng trong việc kiềm chế các tỉnh miền Nam.
Năm
628, Đường đổi tên tổng quản phủ thành Đô Hộ phủ, một tổ chức hành
chánh mới đuợc đặt ra nhằm cai trị những dân tộc không phải là dân Trung
Quốc (man di) ở các nơi biên duyên. Giao Châu Đô Hộ Phủ sau nhiều lần
thay đổi, đến năm 679 thì được đổi thành An Nam Đô Hộ Phủ. Vùng đất Việt
bắt đầu được Trung Quốc gọi là An Nam bắt đầu từ đó.
Đối
với các dân tộc thiểu số ở vùng núi thì nhà Đường đặt ra các châu cơ
mi. An Nam Đô Hộ Phủ có 41 châu cơ mi. Châu mục các châu cơ mi này
thường là thủ lĩnh các bộ lạc thiểu số, họ phải nạp cống phú hàng năm.
Đối với những người này, chính sách của nhà Đường là vừa mua chuộc, vừa
nhượng bộ. Một số những thủ lĩnh này được phong làm thứ sử, tỷ như Dương
Thanh là một tù trưởng được phong làm thứ sứ Hoan Châu.
An
Nam Đô Hộ Phủ là một tổ chức chính quyền có tính tự trị cao. Lúc đầu
chính quyền tại đây phụ thuộc trực tiếp vào triều đình trung ương ;
nhưng sau phụ thuộc vào Tiết độ sứ Lĩnh Nam (trị sở tại Phiên Ngung,
Quảng Châu bây giờ)
Đời
Đường. chính quyền đô hộ đã mở rộng được cơ sở thống trị đến tận dưới
cấp huyện. Dưới huyện, Đường chia thành các hương (làng) ; đại hương từ
160 hộ đến 540 hộ ; tiểu hương từ 70 đến 150 hộ. Dưới hương là xã. Tiểu
xã từ 10 đến 30 hộ ; đại xã từ 40 đến 60 hộ.
Nếu
trong những triều đại trước, phương thức cống nạp là phương thức quan
trọng nhất để khai thác tiềm năng kinh tế Việt Nam, thì dưới triều
Đường, cống nạp trở thành thứ yếu và chỉ có tính cách tượng trưng.
Phương thức khai thác quan trọng nhất là tô thuế. Thuế đánh quan trọng
nhất là vào ruộng lúa, sau đó là nghề dệt. Theo phép tô dung điệu thời
Sơ Đường (tô tức là thuế ruộng lúa ; điệu tức là thuế đánh vào nghề dệt ;
và dung tức là thuế hoặc sưu dịch cá nhân). Trong những năm đầu đời
Đưòng vì Giao Châu là vùng xa xôi nên các thuế này chỉ đánh nặng bằng
nửa số tô thuế tại Trung Quốc. Cựu Đường Thư viết :
"Các
châu ở Lĩnh Nam thì số gạo nộp thuế quy định như sau : thượng hộ, một
thạch hai đấu ; trung hộ, tám đấu, hạ hộ sáu đấu. Các hộ Di Lão thì nộp
một nửa".
Đặc
biệt là số tô điệu ở An Nam không dùng thóc gạo mà căn cứ vào trị giá
để đổi ra tơ đem nộp cho triều đình. Ngoài các hình thức thuế chính
trên, dân chúng còn phải nộp các loại thuế đay, gai, bông, vân vân..
Phương
pháp cống nạp vẫn được duy trì, tuy rằng ở mức tượng trưng. Theo quy
định của nhà Đường, mỗi quận hàng năm phải đem cống một số sản phẩm
tương đương với 50 tấm lụa. Đồ cống vật bao gồm những sản phẩm địa
phương. Theo sách Thông Điển hàng năm An Nam Đô Hộ Phủ phải nạp 10 tấm
vải tơ chuối, 2000 quả cau, 20 cân da cá, 20 cái mật trăn, 200 cặp lông
trả. Quận Nhật Nam phải cống 2 ngà voi, 4 sừng tê, 20 cân trầm hương 4
thạch vàng thiếp vàng quý. Sắt và muối là độc quyền buôn bán của triều
đình. Chính quyền đặt chức Diêm Thiết quan để quản lý việc buôn bán các
sản phẩm này. Theo Thái Bình Hoàn Vũ Ký, nhân dân châu Lục (vùng Thái
Bình hiện nay) thuộc An Nam chủ yếu sống bằng nghề là muối và mò ngọc
châu hàng năm phải nộp một số thuế cố định là 100 hộc gạo mỗi hộ.
Những
năm đầu triều Đường, tình hình tương đối yên ổn. Phú thuế vừa phải cho
nên dân chúng bắt đầu phục hồi. Trong giai đoạn này đất ta cũng nhận
được một số lượng quan trọng các di dân từ phương Bắc xuống, đặc biệt là
tại vùng đồng bằng sông Hồng. Tầm mức quan trọng của số lượng di dân
này đã được thể hiện trong những thống kê về nhân hô khẩu thực hiện dưới
triều Đường. So sánh hai cuộc kiểm tra hộ khẩu tại châu Giao vào đầu
thế kỷ thứ 8, ta thấy số hộ gia tăng nhanh gấp ba lần số nhân khẩu làm
giảm mạnh số nhân khẩu trung bình trong mỗi hộ. Điều này phù hợp với
cung cách di dân của Trung Quốc.
Hầu
hết những người Hoa sang định cư tại Việt Nam đều hoặc là thương gia
hoặc là binh sỹ. Nếu có mang gia đình thì họ chỉ mang theo một số người
thân rất nhỏ mà thôi. Những thành phần quan lại hoặc nho sỹ bị lưu đầy
cũng vậy. Hình thức di dân này đã dẫn đến việc giảm số lượng nhân khẩu
trung bình cho mỗi hộ.
Về
thành phần, những người di dân này thuộc đủ mọi loại, nhưng một bộ phận
quan trọng là thành phần những quan chức, nho sỹ triều Đường có tội bị
đầy sang Giao Châu. Trong những biến động vào sau thời Cao Tông khi Vũ
Hậu lâm triều, rất nhiều những bậc đại thần đã bị biếm đầy đi sang vùng
Lĩnh Nam trong đó có Việt Nam. Một điển hình là Chử Toại Lương, một
trong những khai quốc công thần thời Sơ Đường. Năm 657, Toại Lương bị tố
cáo là âm mưu phản nghịch và bị đổi đi làm thứ sử Ái Châu. Toại Lưong
chết tại Ái Châu vào năm 658. Hai người con Toại Lương theo cha sang Ái
Châu cũng bị giết sau khi cha chết. Đa số những người bị lưu đày này là
những bậc túc nho. Vì vậy, khi bị lưu đầy sang châu Giao những người này
đã có ảnh hưởng rất lớn trong việc phát triển giáo dục và nâng cao cuộc
sống văn hóa tại đây. Một trong những nhân vật điển hình là Vương Phúc
Thì, thuộc một gia đình văn học lâu đời ở Sơn Tây. Dưới thời Cao Tông,
Vương bị biếm làm một chức huyện lệnh tại Giao Chỉ. Con của Vương Phúc
Thì là Vương Bột, một trong tứ kiệt đời Sơ Đường. Chính trong lúc đi
thăm cha ở Giao Chỉ, Vương Bột đã làm bài "Đằng Vương Các" tự, một trong
những tuyệt tác của văn học sử Trung Quốc.
Những
người di dân thuộc tầng lớp quý tộc này hội nhập với những hào tộc bổn
xứ tạo ra một tầng lớp lãnh đạo mới càng ngày càng có ảnh hưởng thêm ở
địa phương. Nếu trước đây, các chính quyền trung ương chỉ coi họ là "thổ
hào", "man hào" nhất loạt xem là hàn tộc, không được giữ những chức vụ
quan trọng trong triều đình thì dưới triều Đường và chế độ khoa cử đặt
ra, nhiều người trong bọn họ đã có những cơ hội vượt qua được giới hạn
đó. Con cái của họ được đi học càng ngày càng đông và có người đã đỗ đến
tiến sỹ, khoa thị có danh vọng nhất đời Đường. Tại Ái Châu, gia đình họ
Khương, Khương Thần Châu, Khương Công Phụ, Khương Công Phục đều đã đỗ
đại khoa làm những chức quan tại Trung Nguyên. Đặc biệt Khương Công Phụ
đã làm đến chức tể tướng, đồng bình chương sự. Đỗ Anh Sách, "thổ hào ở
khê động" đời Đường Đức Tông làm quan đến An Nam phó đô hộ. Nhiều nam
hào, khê động hào khác như Vương Quý Nguyên, Đỗ Tồn Thành, Phạm Đình Chi
đã làm những tướng lãnh trong quân đội Đường.
Mặc
dầu vậy, kể từ sau đời Cao Tông, nhiều cuộc khởi nghĩa đã bùng lên.
Càng ngày giai cấp quý tộc Việt Nam càng cảm thấy họ khác biệt với Trung
Quốc. Và với khoảng trung diệp đời Đường khi đế chế suy thoái ngoài
không đủ sức bảo vệ cho dân chúng chống lại ngoại xâm ; trong không đủ
sức ngăn chặn những tham quan ô lại hút máu dân chúng thì phong trào đấu
tranh của nhân dân Việt Nam đã càng nổi lên mạnh để đến khi nhà Đường
diệt vong, đất Giao đã có đủ sức mạnh để dành độc lập, hoàn toàn tách ra
khỏi đế chế phương Bắc.
7.2. Cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Mai Thúc Loan
Trong
những năm đầu dưới sự thống trị của nhà Đường, sử sách Trung Quốc không
ghi chép một cuộc bạo động nào tại Giao Châu cả, ngoại trừ một cuộc nổi
dậy của dân Lão ở Minh Châu năm 638. Cuộc bạo động này sau đó đã được
Đô Hộ Lý Đạo Ngạn vỗ về dẹp yên. Minh Châu sau đó được sáp nhập vào Hoan
Châu. Tuy nhiên với thời gian, triều chính Đường bắt đầu hủ hóa, nhất
là tại các vùng biên duyên nơi sự kiềm chế của các chức năng như ngự sử
đài không được chặt chẽ. Và khi chính quyền bắt đầu trở nên hà khắc, bóc
lột dân chúng quá mức, tự nhiên nhân dân có những phản ứng chống lại.
Vào
khoảng giữa thế kỷ thứ bảy, sau khi Đường Cao Tông băng hà, hoàng hậu
Vũ Tắc Thiên lâm triều âm mưu chiếm đoạt giang sơn họ Lý, sát hại nhiều
công thần, lại dùng bọn Lai Tuấn Thần tố cáo dò xét các quan lại gây ra
một bầu không khí bất an trong toàn bộ hệ thống quan lại sỹ phu Đường
triều. Các đại thần lo thủ thân, hoặc hùa theo hoặc mặc cho quan lại cấp
dưới vơ vét bóc lột nhân dân.
Năm
684, thứ sử Dương châu là Từ Kính Nghiệp, cháu của Từ Tích, một trong
những khai quốc công thần của Đường Triều nổi lên chống lại Vũ hậu. Sau
khi Kính Nghiệp thất bại, tất cả những quan lại nào trước kia có quan hệ
với gia đình Từ Tích đều bị thanh trừng. Một số bị giết, một số khác bị
lưu đầy. Trong số bị lưu đầy này có Lưu Diên Hựu bị biếm làm An Nam Đô
Hộ.
Cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên
Cho
đến khi Diên Hựu sang làm An Nam Đô Hộ, thuế phú tại An Nam được đánh
nhẹ bằng nửa thuế phú tại Trung Nguyên. Nhà Đường sở dĩ làm vậy vì biết
rõ những khó khăn trong việc cai trị một tộc dân không phải là người
Hán. Diên Hựu sang, lập tức tăng thuế lên gấp đôi. Điều này đã khiến
quần chúng căm giận nỗi lên khởi nghĩa.
Thay
vì tìm cách thuyết phục và giải tỏa bằng cách giảm nhẹ thuế như các
quan lại Đường trước đó đã làm, Diên Hựu đã làm cho cuộc khởi nghĩa nổ
bùng ra lớn hơn khi giết Lý Tự Tiên người lãnh đạo cuộc nổi dậy này. Mặc
dầu Tự Tiên bị giết, nhưng dân chúng dưới sự lãnh đạo của Đinh Kiến
tiếp tục nổi dậy tiến vào bao vây phủ thành Tống Bình trị sở của phủ Đô
Hộ. Quân Đường trong thành ít ỏi không đủ sức chống cự nổi nghĩa quân
chỉ đắp lũy cầm cự chờ quân cứu viện. Triều Đường ra lệnh cho thứ sử
Quảng Châu là Phùng Nguyên Thường đem quân sang cứu Diên Hựu. Muốn lợi
dụng việc này để gây ảnh hưởng tại An Nam, Nguyên Thường dẫn một đạo
quân đi thuyền từ Quảng Châu sang An Nam xây đồn đắp lũy rồi cho người
thuyết phục Đinh Kiến chứ không chịu giải vây cho Diên Hựu vốn đang bị
nguy cấp trong thành.
Mùa
hè năm 687, nghĩa quân phá thành Tống Bình và giết Diên Hựu. Thấy thế
Nguyên Thường mang quân chạy về Quảng Châu. Phải mãi sau này khi triều
Đường sai tư mã Quế Châu là Tào Huyền Tĩnh mang quân sang đàn áp, Đinh
Kiến bị giết chết thì cuộc nổi dậy mới bị tan vỡ.
Cuộc
khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến có một số điểm hoàn toàn khác
với các cuộc khởi nghĩa trước đây tại nước ta. Đây là một cuộc khởi
nghĩa của nông dân cầm đầu bởi những người mà ta không biết gì hơn ngoài
cái tên của họ và việc họ thuộc thành phần giai cấp thấp hèn của xã hội
An Nam thời đó. Truyện Lưu Diên Hựu trong Tân Đường Thư chép rằng Lý Tử Tiên và Đinh Kiến là "lệ hộ" (giai cấp cùng đinh).
Một
điều đáng chú ý nữa là cuộc khởi nghĩa này là phản ứng với một quyết
định hành chánh đơn thuần : việc tăng tô thuế gấp đôi của Lưu Diên Hựu.
Điều này chứng tỏ khả năng của Đường Triều trong việc kiểm soát xã hội
An Nam thời đó đến mức nào. Một quyết định hành chánh đơn thuần không
thể tạo ra một phản ứng bạo động như vậy nếu nó không bị người ta coi
như là một đe dọa lớn lao và trực tiếp đến đời sống. Việc tăng thuế gấp
đôi chỉ có ý nghĩa đe dọa như vậy nếu chính quyền có khả năng thiết thực
ép buộc nông dân phải đóng những món thuế đó. Sự vắng mặt của tầng lớn
môn phiệt, các hào tộc trong cuộc khởi nghĩa cùng với việc dân chúng nổi
lên chỉ vì việc tăng thuế gấp đôi này cho thấy thời Sơ Đường, chính
quyền đã thành công trong việc thu hút các tầng lớp "lãnh đạo" của nước
ta vào trong hệ thống cai trị của Đường triều.
Chính
sách này được chính thức hóa bằng một chiếu chỉ đưa ra vào năm 676
xuống các châu Quảng (Quảng Đông), Quế (Quảng Tây) và Giao (Việt Nam) ra
lệnh cho các quan lại người Hán phải tổ chức lựa chọn những người địa
phương vào các chức vụ cai trị. Cứ bốn năm một lần, các thứ sử phải tiến
lên triều đình danh sách những người lãnh đạo địa phương (tù trưởng Ly,
Lão) để giữ những chức vụ từ ngũ phẩm trở xuống (theo pháp chế nhà
đường, chức tư mã hoặc trưởng sử chỉ ngũ phẩm ; huyện lệnh, lục phẩm).
Phải
đến khi nhà Đường suy vi, đất An Nam bị Lâm Ấp rồi Nam Chiếu xâm lược,
giai cấp lãnh đạo nước ta mới bắt đầu trở lại với những tham vọng độc
lập mới. Nhưng cuộc khởi nghĩa này cho thấy sau hơn 60 năm dưới sự cai
trị của triều đường, mặc dầu sự phản bội của tầng lớp lãnh đạo, xã hội
cổ truyền của Việt Nam vẫn có thể nổi dậy và chiến thắng chính quyền cai
trị của Đường dù là trong một thời gian ngắn. Điều đó báo hiệu cho
những thành công trong việc dành độc lập về sau này.
Cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan
Trong
khoảng ba mươi lăm năm từ cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến
đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, chính sử Trung Quốc không cho ta
biết bao nhiêu về tình hình tại An Nam. Tuy nhiên tình hình tại Trung
Quốc bước vào một giai đoạn suy thoái tạm. Năm 690, Vũ Hậu Tắc Thiên phế
bỏ nhà Đường lập ra nhà Châu. Tắc Thiên giữ quyền cai trị đến năm 705
mới bị truất phế. Nhà Đường trung hưng. Nhưng trong thời gian này, toàn
bộ đế quốc Đường ở vào trong tình bất ổn. Tinh thần quan lại đi xuống,
tình trạng tham nhũng tràn lan. Tại những vùng biên duyên như đất An
Nam, các quan lại lại càng mặc sức tham nhũng, bóc lột nhân dân. Tình
trạng sa đọa của các quan lại thời đó xuống đến nỗi, trong thời Trung
Tông (705-709) viên An Nam Đô Hộ là Khúc Lãm đã bị chính một thuộc viên
của y giết chết vì quá tham lam và tàn ác.
Trong
những năm này vì vậy sự cai trị của nhà Đường tại nước ta, hoàn toàn
dựa trên vũ lực và sự đàn áp. Đến năm 722, tình hình đã chín mùi cho một
cuộc khởi nghĩa mới. Cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan tại Hoan Châu
(Nghệ An).
Trái
với cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, vốn là một cuộc khởi
nghĩa thuần túy của nông dân Lạc Việt, cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan
có liên hệ nhiều với những diễn biến xảy ra tại các vùng khác của Đông
Nam Á. Để có thể hiểu thêm về cuộc khởi nghĩa này ta cần phải nhìn lại
những chuyện gì xảy ra ở phía Nam đất An Nam thời đó.
Trong
những thế kỷ từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 6, đế quốc Phù Nam cực kỳ
hưng thịnh đã giữ yên ổn con đường hàng hải ở phía Nam biển Đông. Trong
giai đoạn này, đạo Phật tại Phù Nam hưng thịnh đến nỗi vào năm 535, một
phái bộ của Trung Quốc đã đến Phù Nam để xin kinh Phật cũng như xin gởi
tăng lữ sang Trung Quốc để giảng dạy kinh Phật. Nhưng đến cuối thế kỷ
thứ 6 (khoảng năm 598), Phù Nam bị một vương quốc mới nổi lên, vương
quốc Chân Lạp chinh phục. Đế quốc Phù Nam sụp đổ để một khoảng trống
quyền lực trong vùng này. Trong suốt thế kỷ thứ bảy, vùng hạ lưu sông Mê
Kông và các hải đảo rơi vào tình trạng phân hóa và hỗn loạn. Trên đại
lục, Chân Lạp phát triển cả sang phía Bắc và phía Tây và dưới thời vua
Isanavarman đã thần phục được cả Lâm Ấp, sửa soạn cho giai đoạn Angkor
vinh quang của đế quốc Khmer vào thế kỷ thứ 9. Trong khi đó ngoài hải
đảo, tại Java và Sumatra, các vương triều mới lập sau sự sụp đổ của đế
quốc Phù Nam đấu tranh với nhau để dành quyền bá chủ trên biển.
Cũng
trong thời gian đó vương quốc Lâm Ấp ở phía nam nước ta cũng rơi vào
tình trạng khủng hoảng. Năm 645, vua Lâm Ấp là Phạm Chấn Long bị bầy tôi
là Mahaman Đa Gia Đốc giết chết, cùng với cả họ. Họ Phạm tuyệt diệt từ
đó. Dân trong nước lập Bhadresavarman con của em gái Chấn Long với người
chồng Bà La Môn lên làm vua, nhưng ít lâu sau lại phế bỏ Bhadresavarman
mà lập cháu họ của Chấn Long làm vua vào năm 653, lấy hiệu là
Vikrantavarman. Chính trong giai đoạn này, sách sử Trung Quốc không thấy
nhắc đến tên Lâm Ấp nữa mà đưa ra một tên mới là Hoàn Vương. Trung tâm
chính trị của Lâm Ấp cũng chuyển về phía nam, từ khu vực My Sơn - Trà
Kiệu hiện nay chuyển xuống vùng Phan Rang-Nha Trang.
Sang
thế kỷ thứ 8, vương quốc Sumatra, Srijivaya đánh bại được các vương
quốc cạnh tranh và nắm quyền kiểm soát mặt bể. Thuyền của Srijivaya đi
đánh phá khắp nơi, có lần đổ bộ lên cả miền Bắc nước ta cướp phá, sử
Trung Quốc gọi là giặc Chà Và.
Tình
trạng rối loạn tại Lâm Ấp và các nước phía Nam đã đẩy nhiều loạt người
tỵ nạn chạy sang vùng phía Nam của An Nam sinh sống, đặc biệt là tại
châu Hoan (Nghệ An) Điều tra nhân hộ khẩu triều Đường cho thấy giữa hai
kỳ kiểm tra vào năm 700 và 742 số hộ khẩu đăng ký tại Hoan Châu đã gia
tăng 46 phần trăm trong khi số nhân khẩu tăng 200 phần trăm. Nếu so sánh
số nhân khẩu trung bình trong mỗi hộ, ta thấy tỷ số này cũng tăng gấp
đôi, chứng tỏ rằng những người di cư mới đi chạy sang An Nam mang theo
cả đại gia đình và giòng họ chứ không phải kiểu cá nhân như trường hợp
di dân Trung Quốc tại miền Bắc.
Chính
trong hoàn cảnh quốc tế và quốc nội đó, Mai Thúc Loan đã dựng cờ khởi
nghĩa tại châu Hoan. Theo sử ta, Mai Thúc Loan, người Thiên Lộc (nay là
Can Lộc, Hà Tĩnh) có sức khoẻ, da đen, nổi dậy chiếm miền trung lưu sông
Lam xây thành đắp lũy trên núi Hùng Sơn (Nam Đàn, Nghệ An) chống lại
quân Đường tự xưng hoàng đế, tục gọi là Mai Hắc Đế. Sau Hắc Đế liên kết
được với dân thuộc 32 châu lại kết giao với Lâm Ấp ở phía Nam, Chân Lạp ở
phía Tây và nước Kim Lân (có thể là Sumatra hay một nước thuộc Mã Lai)
mang quân ra bắc đánh chiếm phủ thành. Đô Hộ là Quang Sở Khách phải bỏ
thành chạy. Mai Hắc Đế làm chủ nước nam, quân đội đông đến 40 vạn. Đường
sai Tả Giám Môn Vệ Tướng quân là Dương Tư Húc sang đánh. Tư Húc chiêu
mộ được hơn 10 vạn quân, cùng Quang Sở Khách mang quân đi theo đường cũ
của Mã Viện ven theo bờ biển, xuất kỳ bất ý tiến đánh Hắc Đế. Hắc Đế
không kịp đối phó, bị thua to, phải trốn chạy rồi chết. Tư Húc tàn sát
quân nổi dậy, chôn xác thành một cái gò cao rồi về.
Ba
mươi hai châu mà Mai Hắc Đế liên kết được chắc hẳn là những châu cơ mi.
Nhà Đường đặt nhiều châu cơ mi để ràng buộc những dân thiểu số miền
núi. Đã có thời có đến 27 châu cơ mi nằm trong sự kiểm soát của Phong
Châu và khoảng một chục châu nằm trong sự kiểm soát của Hoan Châu. Như
vậy ta có thể thấy những thành phần đi theo Mai Hắc Đế rất là phức tạp.
Họ bao gồm những đám quân nước ngoài (Lâm Ấp, Chân Lạp, Sumatra), dân
thiểu số miền núi cùng với nông dân vùng đồng bằng. Chính nguồn gốc Hắc
Đế cũng có nhiều điều không rõ. Xuất thân từ một làng nghèo ven biển,
nước da đen của ông có thể là một dấu hiệu ông có giòng máu Lâm Ấp hoặc
Mã Lai trong người.
Đạo
quân 40 vạn người của Mai Hắc Đế chắc chắn là một đạo quân ô hợp ; có
lẽ bao gồm nhiều nhóm khác nhau. Khó có thể tưởng tượng một sự hòa hợp
giữa những đội dân quân của nông dân, nổi lên chống lại sự áp bức của
quan lại Đường với những đám quân Lâm Ấp, Chân Lạp mà mục tiêu tham gia
vào chỉ cốt để cướp bóc. Có lẽ vì vậy mà ông đã thất bại mau chóng trước
một số quân Đường ít hơn. Điều chắc chắn là các sử gia Việt Nam đã
không coi trọng Mai Hắc Đế bằng bà Trưng, bà Triệu hoặc Lý Bí những
người đã nổi lên chống đế quốc Trung Quốc trước ông, hoặc Phùng Hưng,
người đi sau ông. Có thể rằng Mai Hắc Đế quá đặc biệt. Ông có thể bị coi
là đại biểu cho một cố gắng của nền văn minh Nam Phương theo Ấn Độ tấn
công vào tiền đồn của văn minh Bắc Phương theo Trung Hoa và đã bị bác bỏ
vì dù muốn dù không, xã hội Việt Nam lúc đó đã lựa chọn theo con đường
phương bắc rồi.
7.3 Cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng
An Nam Đô Hộ Phủ và cuộc khủng hoảng thời Trung Đường
Kỷ
nguyên Khai Nguyên và Thiên Bảo đưới thời Đường Huyền Tông được coi như
là thời đại hoàng kim của triều Đường cũng như là của lịch sử Trung
Quốc. Trong giai đoạn này, kinh tế phát triển, văn học nghệ thuật, nhất
là thơ văn đạt đến một đỉnh cao mà sau này không còn đạt tới được. Tuy
nhiên bắt đầu tử nửa sau của thế kỷ thứ 8, Đường triều bắt đầu suy
thoái. Huyền Tông, sau những năm đầu chăm lo triều chính, càng về già
càng trở nên hoang dâm vô độ, đam mê Dương Thái Chân, vốn là vợ chưa
cưới của Thọ Vương con mình, cướp về phong làm Quý Phi và trọng dụng
thân tộc họ Dương. Anh Dương Thái Chân là Dương Quốc Trung được phong
làm tể tướng. Ba người chị của Dương Thái Chân đều được phong làm "quốc
phu nhân".
Quốc
Trung làm tể tướng, "cùng binh độc vũ", gây chiến liên miên với các
nước bên ngoài nhằm làm quên đi những khó khăn trong nước. Tuy nhiên vào
lúc này, binh lực nhà Đường đã yếu không còn đủ sức để thôn tính thêm
nữa. Năm 749, quân Đường đánh Thổ Phồn (Tây Tạng) ở Thạch Bảo Thành, đại
bại quân sỹ bị thương vong rất nhiều. Năm 751, là năm đánh dấu sự suy
thoái về quân sự của triều Đuờng. Phía Đông Bắc An Lộc Sơn đánh Khiết
Đan, đại bại trở về quân lính chết hơn hai vạn người ; phía Nam Kiếm Nam
tiết độ sứ Thuần Vu Trọng đánh Nam Chiếu cũng đại bại, quân lính chết
trên một vạn người. Phía Tây, Đường đụng với đế quốc Arab của các giáo
chủ Abbasid tại Baghdad. Trong một trận đánh tại gần Samarkand, quân
Đường cũng bị đại bại trước liên quân Arab và Đại Thực (Thổ Nhĩ Kỳ).
Đằng
sau những thất bại đó là tình trạng một chính quyền trung ương ngày
càng yếu đi. Các phiên trấn trở nên mạnh lên và không theo lệnh của
chính quyền trung ương nữa. Miền biên cương của đế quốc Đường nằm trong
tay các tiết độ sứ. Lúc đầu các tiết độ sứ chỉ nắm việc quân, nhưng sau
các tiết độ sứ kiêm luôn cả việc cai trị và tài chính trở thành một
quyền lực chúa tể trong khu vực mình. Năm Thiên Bảo thứ 14 (755), An Lộc
Sơn, một trong những tiết độ sứ đó khởi loạn chiếm hai kinh Trường An
và Lạc Dương. Đường Huyền Tông phải chạy vào Thục. Đế quốc Đường lâm vào
cảnh nội chiến. Giai đoạn mà sử Trung Quốc gọi là "loạn An - Sử"
(755-763) đã đánh cho triều Đường một đòn chí mạng khiến đế quốc Đường
không bao giờ vực lại được như trước nữa.
Trong
khoảng nửa thế kỷ sau đó, miền Hoa Bắc bị tàn phá bởi những cuộc nổi
loạn liên miên của các phiên trấn, trong khi tại miền Tây, các tộc Thổ
Phồn (Tây Tạng) và Hồi Hột (Uygurs) trở nên cường thịnh và tiến vào cướp
phá có khi đến tận kinh đô Lạc Dương.
Sự
suy thoái của quyền lực đế chế có ảnh hưởng ngay đến phương nam.Từ đời
Chí Đức (757) trở đi đất An Nam cũng được đặt dưới quyền một tiết độ sứ.
Tuy nhiên khi quân đội trú đóng của Đường triều được rút về Bắc để giúp
quân triều đình chống lại những cuộc ngoại xâm, nội loạn, những tộc Sơn
Việt ở vùng Quế (Bắc Quảng Tây), Dung (nam Quảng Đông), Uất (Tây Quảng
Tây) đã nổi dậy, đuổi quân Đường đi và thành lập ít nhất là bảy vương
quốc độc lập, cắt đứt mọi liên lạc bằng đường bộ giữa An Nam và Trung
Nguyên. Phải hai năm sau, vào năm 758, Đường mới phản công, nhưng cũng
chỉ thành công được một phần trong việc bình định vùng này. Chính vào
năm đó Đường đổi tên An Nam thành Trấn Nam. Đất Nam nay không còn yên
nữa !
Tuy
nhiên so với vùng Lưỡng Quảng thì Việt Nam hãy còn yên lắm. Một phần có
lẽ vì việc đàn áp đẫm máu cuộc nổi dậy của Mai Thúc Loan đã làm mất đi
một số những người có thể nổi dậy tại Việt Nam. Một phần khác có thể vì
những biện pháp sau đó của triều Đường nhằm xoa dịu những bất bình của
dân chúng cũng đã có ảnh hưởng. Phải đến năm 767 khi xảy ra cuộc xâm
lăng của những tộc người từ Indonesia lên, thì sự kiểm soát của triều
Đường đối với đất An Nam mới tan rã và mở đầu cho một nửa thế kỷ đấu
tranh mới.
Giặc Chà Và
Năm
761, một người Nhật tên là Abe No Nakamaro (tên Hán là Triêu Hành) được
bổ làm Trấn Nam Đô Hộ. Nakamaro sang Đường du học từ năm 717 khi mới 19
tuổi. Năm 753, Nakamaro về Nhật, nhưng thuyền ông gặp bão và sau nhiều
ngày lênh đênh bị dạt vào châu Hoan. Nakamaro ngay sau đó trở về lại
Trường An, nhưng chỉ mấy năm sau lại được bổ nhiệm trở về An Nam. Trong
thời Nakamura làm đô hộ này, vùng Hà Tĩnh hiện nay lần đầu tiên được
tách ra khỏi Hoan Châu lập thành một châu mới gọi là Diễn Châu. Tên Diễn
Châu bắt đầu có từ thời đó.
Năm
767 Nakamura được Trương Bá Nghi thay thế. Dưới thời Trương Bá Nghi,
một tai vạ lớn xảy ra cho đất Việt thời đó mà hậu quả khiến cho sự cai
trị của Đường triều bị lung lay tới tận gốc rễ, không bao giờ hồi phục
được như trước nữa : cuộc xâm lược của Java.
Bắt
đầu từ giữa thế kỷ thứ tám, một vương triều mới nổi lên tại vùng trung
Java của Indonesia. Vương triều mới này gọi là vương triều Çailendra
(đọc là Sailendra) mà người ta thấy lần đầu xuất hiện trong một tấm bia
đào được tại miền trung Java có niên đại là 732. Quan hệ giữa Çailendra
và Srijivaya ra sao ta không rõ. Có thể lúc đầu Çailendra thần phục
Srijivaya nhưng dần dà đã nổi lên đánh bại Srijivaya để dành quyền bá
chủ vùng biển phía Nam. Một tấm bia đào được tại phần cuối của bán đảo
Mã Lai gần Singapore có niên đại 775 đã nhắc đến cả Çailendra lẫn
Srijivaya.
Çailendra
cường thịnh lên đã tìm cách lập lại uy thế của Phù Nam cũ (ghi chú :
Çailendra tiếng Mã Lai có nghĩa là vua núi. Nó là dịch nghĩa của chữ Phù
Nam cũng là núi. Phù Nam là âm Hán phiên âm của chữ Phnom hiện vẫn còn
là núi trong tiếng Khmer). Các vua Çailendra đã tổ chức nhiều cuộc xâm
lược các quốc gia tại bán đảo Đông Dương. Họ đã tấn công Chân Lạp, bắt
Chân Lạp phải thần phục và nhiều lần tấn công Lâm Ấp. Một tấm bia bằng
tiếng Phạn đào được tại Nha Trang có niên đại 774 kể lại một cuộc tấn
công của Çailendra như sau :
- Môt
bọn người ngoại quốc sống bằng những thức ăn ghê tởm hơn xác chết, đáng
sợ, đen thui và gầy guộc, khủng khiếp và dữ tợn như thần chết, đã đi
thuyền tới đốt phá đền thờ Po Nagar và cướp đi mất chiếc linga thiêng
liêng.
Cũng
trong giai đoạn này, kể từ năm Chí Đức (756), thư tịch Trung Quốc đã
không nhắc tới tên Lâm Ấp nữa. Một tên mới xuất hiện : Hoàn Vương với
trung tâm quyền lực chuyển từ vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi (kinh đô tại
vùng Trà Kiệu) về Nha Trang, Phan Rang.
Năm
Đại Lịch thứ hai đời Đường Đại Tông (767) Çailendra mở cuộc đại tấn
công vào miền Bắc Việt Nam, mở đầu là vùng duyên hải, sau tiến lên vây
hãm phủ thành Tống Bình (Hà Nội hiện nay). Đô hộ Trương Bá Nghi chống cự
không nổi phải cầu viện Cao Chính Bình, hiệu úy châu Vũ Định. Chính
Bình mang quân xuống và cuối cùng phá được quân Çailendra tại Chu Diên,
giải vây cho Bá Nghi.
Thấy
phủ thành Tống Bình cũ đã bị tàn phá quá nhiều, Bá Nghi bỏ thành cũ,
xây thành mới gần đó, ngay tại khu vực Hà Nội hiện nay gọi là La Thành.
Cùng với việc xây dựng La Thành, chính quyền Đường lúc đó cố gắng tìm
cách phục hồi lại tình trạng cũ như trước loạn An Sử. Năm 768 một chỉ dụ
mới, bỏ tên Trấn Nam, phục hồi lại tên An Nam cũ.
Tuy
nhiên những cố gắng đó chỉ phục hồi lại cái vỏ bề ngoài mà thôi. Cuộc
xâm lược của Çailendra mặc dầu ngắn ngủi nhưng là một bước ngoặt trong
quan hệ của Đường triều với vùng đất An Nam. Việc Trương Bá Nghi phải bỏ
thành cũ xây thành mới là một bằng chứng cho thấy sự tàn phá dữ dội của
quân Chà Và đối với vùng Giao Châu. Sự kiện Cao Chính Bình mang quân
tiếp viện cho Trương Bá Nghi cho ta thấy hai điều. Thứ nhất lực luợng
Đường triều tại An Nam lúc đó đã kiệt quệ không còn sức chống cự với lại
quân Chà Và ; thứ hai, triều Đường đã không đủ sức để gởi viện quân ;
các địa phương chỉ có cách tự thương lượng để cứu vớt lẫn nhau mà thôi.
Cuộc xâm lược của Çailendra đã mở đầu cho sự suy sụp của đế quốc Đường
tại Việt Nam. Nếu trong những năm trước đó, An Nam là một ốc đảo yên
tĩnh giữa một đế quốc Đường xáo trộn thì một phần tư thế kỷ sau của thế
kỷ thứ 8 là một thời kỳ nhiều biến động, trong đó người Việt lại một lần
nữa tìm cách thoát ra khỏi sự đô hộ của Trung Quốc.
Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng
Sự
sụp đổ của chính quyền Đường khởi đầu với việc chính quyền dân sự không
còn kiểm soát được quân đội nữa. Năm 782, Tư Mã Diễn châu là Lý Ích Thu
và thứ sử Phong châu là Lý Bì Ngạn nổi loạn tự xưng là Tiết Độ sứ. Cả
hai đều bị Tiết độ sứ Phủ Lương Giao bắt giết. Ít lâu sau đó, sau khi đô
hộ Trương Ứng chết, trưởng sử Lý Nguyên Độ nổi loạn, nhưng cuối cùng bị
tướng Đường là Lý Phục bắt giết. Những cuộc nổi loạn liên miên này đã
làm suy thoái trầm trọng sự kiểm soát của Đường triều với dân chúng, mở
đường cho cuộc nổi dậy của Phùng Hưng.
Phùng
Hưng là hào trưởng đất Đường Lâm. Theo sử ta, ông người Lạc, đời đời
làm quan lang. Đường Lâm thuộc về Phong Châu ở hữu ngạn sông Hồng ngay
dưới chân núi Tản Viên vốn là nơi cội nguồn của dân Lạc Việt. Hai Bà
Trưng cũng phát tích từ nơi này và kinh đô cũ của các vua Hùng cũng ở
gần đó.
Lúc này, Cao Chính Bình, nhân có công phá giặc Chà Và tại Chu Diên, được cử làm đô hộ An Nam. Cao Chính Bình theo Tân Đường Thư là một người tham lam, đánh thuế rất nặng (Tân Đường Thư
viết "trọng phú liễm") khiến không những nhân dân oán ghét mà ngay cả
những hào tộc cũng bất bình. Chính vì vậy, nhân cuộc nổi dậy của Lý
Nguyện Độ, Phùng Hưng đã cùng với em là Phùng Hải nổi lên đánh chiếm
Đường Lâm và các vùng chung quanh, làm chủ một vùng rộng lớn tại Phong
châu. Hưng xưng là "Đô Quân", Hải xưng là "Đô Bảo" cát cứ tự thủ chống
lại chính quyền Đường. Năm 791, Hưng lãnh đạo quần chúng tiến xuống phủ
thành đô hộ chống lại Cao Chính Bình.
Khởi
đầu Phùng Hưng đánh mãi không thắng. Sau nhân được Đỗ Anh Hàn, một
người đồng hương và là lãnh tụ của nhân dân Lão giúp sức (Tân Đường Thư
chép Đỗ Anh Hàn là "quân man tù trưởng" thủ lãnh dân Lão) bày mưu đánh
bại Cao Chính Bình. Chính Bình thua chạy về thành Đại La. Phùng Hưng
mang quân vây phủ thành, Chính Bình lo sợ quá sinh bệnh mà chết. Chính
Bình chết rồi, dư chúng mở cửa thành ra hàng.
Phùng Hưng vào thành, tổ chức việc chính trị, mong xây dựng quyền lực được lâu dài, nhưng theo Việt Điện U Linh Tập - dẫn Giao Châu Ký,
một cuốn sách đã thất truyền - thì ông chỉ cầm quyền được bảy năm thì
mất. Khi ông mất, nhân dân lập đền thờ và tôn là Bố Cái Đại Vương. Phùng
Hưng chết, nội bộ chính quyền phân rẽ. Tướng của Phùng Hưng là Bồ Phá
Lặc ủng hộ cho con Phùng Hưng là Phùng An lên thay, đem quân đánh Phùng
Hải. Phùng Hải trốn chạy vào núi, sau không biết ra sao. Sau nhà Đường
sai Triệu Xương sang làm đô hộ An Nam. Xương sai sứ dụ Phùng An. An liệu
thế không chống nổi, bèn đầu hàng Triệu Xương. Đất nước ta lại rơi vào
tình trạng đô hộ của Trung Quốc.
Cuộc
nổi dậy của Phùng Hưng nằm trong truyền thống của dân Lạc Việt cổ.
Giống như Triệu Quang Phục, ông cũng xuất thân từ thành phần quý tộc của
xã hội Lạc Việt và cai trị theo tinh trần truyền thống của dân Lạc Việc
chứ không phải Hán. Việc dân chúng tôn ông làm Bố Cái Đại Vương là một
bằng chứng rõ rệt. Vua (chữ nôm cổ đọc là bua, là một cách phát âm trệch
của từ bố). Nó cũng được thể hiện một cách rõ rệt qua việc chiết tự.
Chữ "vua" theo chữ nôm được viết một bên là chữ "vương" và một bên là
chữ "bố". Đó chính là khái niệm chính trị cơ bản của dân Lạc về một
người cai trị, phải chăm lo cho dân như con đỏ. Dân Lạc thời xưa gọi Lạc
Long Quân bằng bố là vậy. Cuộc khởi nghĩa của ông thành công trong khi
những cuộc nổi dậy khác như của Lý Nguyên Độ thất bại là vì ông đại biểu
cho một phong trào rộng lớn có cỗi rễ ăn sâu trong xã hội dân Lạc Việt.
Tục thờ phụng ông trong những thế kỷ sau này cho thấy ảnh hưởng của
Phùng Hưng ăn sâu như thế nào trong lòng dân tộc. Nhưng trái với những
cuộc khởi nghĩa trước, Phùng Hưng không phải là một nhà lãnh đạo quân
sự, ông dùng người khác để chỉ huy quân đội. Xã hội Lạc Việt đến thời
này đã phức tạp đủ để có thêm nhiều đòi hỏi khác mà chỉ một tài năng
quân sự không không đủ. Ngoài ra, Triệu Quang Phục còn phải cần dùng đến
hiện tượng "móng rồng" để động viên dân Lạc Việt, nhưng đến Phùng Hưng
thì sự nhờ cậy vào huyền thoại cũ đã không còn cần thiết nữa. Xã hội Lạc
Việt đã tiến bộ đủ để có thể không còn phải dựa vào huyền thoại. Tình
hình đã chín mùi để dân lạc Việt có thể tách ra khỏi đế quốc Trung Hoa
dành lại độc lập. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu đó, còn phải mất trên
một trăm năm nữa.
7.4. Dương Thanh và Vô Ngôn Thông
Triệu
Xương sang Việt Nam vào lúc nhà Đường bắt đầu phục hồi lại phần nào sau
gần nửa thế kỷ loạn lạc, cát cứ. Xương cai trị An Nam Đô Hộ Phủ mười
lăm năm. Trong thời gian này, thay vì tìm cách đàn áp những cố gắng tự
tìm ra một bản sắc dân tộc mới của dân Lạc Việt, Xương có vẻ đã chiều
theo những cố gắng đó để chính thống hóa sự cai trị của mình. Theo Việt Điện U Linh Tập,
Xương đã đi đến các xóm làng, tìm hiểu về các tín ngưỡng và tập tục của
dân Lạc Việt. Xuơng thu thập những truyền thuyết và dã sử Việt Nam
thành ra một tập sách có tên là Giao Châu Ký. Bộ sách này nay đã thất truyền, chỉ còn lại một phần được ghi lại trong Việt Điện U Linh Tập.
Đây là tài liệu độc nhất còn lại nói chuyện về Phùng Hưng. Xương xây
dựng lại La Thành, mở rộng và đắp thành cao lên. Dưới thời Xương, tình
hình An Nam Đô Hộ Phủ nói chung là thái bình ổn định.
Năm
802, Xương cáo là có bệnh xin về Bắc. Triều Đường cử Bùi Thái sang làm
đô hộ. Thái sang, thay đổi các chính sách cũ của Xương. Thấy nhân dân
"rất hung tợn", lại sai đắp và mở rộng thêm La Thành cũng như bắt dân
xây thêm hai thành Hoan và Ái. Trước tình thế đó, nhân dân Lạc Việt nổi
lên chống Thái. Hoàn Vương, Côn Lôn cũng nhân vậy mang quân xâm lược.
Cuối năm 802, Hoàn Vương đánh chiếm hai châu Hoan và Ái. Hai tháng sau,
An Nam tướng là Vưong Quý Nguyên nổi dậy, chiếm La Thành. Bùi Thái phải
chạy trốn về Trung Quốc. Rúng động trước tình trạng này, Đường Đức Tông
phải gởi Triệu Xương sang An Nam lần nữa. Các cuộc nổi dậy mới dần lắng
xuống.
Sau
Triệu Xương, những đô hộ khác, như Trương Chu, Mã Tổng cũng đều áp dụng
những chính sách mềm dẻo thỏa hiệp với các lực lượng địa phương cho nên
tình hình tương đối yên ổn. Tình hình bắt đầu thay đổi vào khoảng những
năm 820 sau cái chết của Đường Hiến Tông khi triều Đường bắt đầu một
cuộc suy thoái dài hạn dần dà dẫn đến việc diệt vong của triều đại. Đô
Hộ An Nam lúc đó là Lý Tượng Cổ, một tôn thất nhà Đường. Theo Tân Đường Thư,
Tượng Cổ là một con người "khắc nghiệt, hung bạo, mất lòng mọi người".
Tượng Cổ vì vậy bị nhân dân oán ghét và tính chuyện nổi loạn. Lúc đó,
tại Hoan Châu có người hào trưởng tên là Dương Thanh, được coi như là
một tay kiệt hiệt và có uy thế trong vùng. Tiên tổ Dương Thanh có người
đã làm thứ sử châu Hoan trong thời Khai Nguyên (713-741). E ngại trước
thanh thế của Dương Thanh, Tượng Cổ cho vời Dương Thanh làm nha môn
tướng giữ ở La Thành để kiềm chế.
Trước
tình thế đó, Thanh càng ngày càng sinh bất mãn và bắt đầu âm mưu nổi
dậy chống lại Tượng Cổ. Cơ hội đến với Thanh vào năm 819 khi người Man
Hoàng động (một dân tộc thiểu số tại vùng Quảng Tây, nay là người
Choang) nổi dậy. Quân Đường dưới sự chỉ huy của Bùi Hành Lập đánh mãi
không thắng. Tượng Cổ phát khí giới và trao cho Thanh ba ngàn quân đi
giúp Hành Lập. Có phương tiện trong tay, Thanh cùng con là Chí Liệt và
người thân là Đỗ Sỹ Giao nửa đêm quay trở lại tập kích phủ đô hộ. Sau
vài ngày quân nổi dậy của Thanh giết chết được Tượng Cổ cùng hơn một
ngàn gia thuộc bộ hạ của Tượng Cổ, chiếm lấy phủ thành.
Đường
triều, lúc đó đã suy yếu, biết rõ những khó khăn tổ chức một cuộc chinh
phục quân sự để chiếm lại vùng đất An Nam bèn dùng thủ đoạn mua chuộc.
Vua Đường xuống chiếu "tha tội" cho Dương Thanh và cử Thanh làm thứ sử
Qùynh Châu (nay thuộc đảo Hải Nam) và cử Quế Trọng Vũ sang làm đô hộ An
Nam. Nhưng Thanh không chịu và khi Quế Trọng Vũ sang đến nơi, Thanh cho
quân chặn ở biên giới. Trọng Vũ phải dừng lại ở Hải Môn.
Không
có binh lực trong tay, Quế Trọng Vũ dùng kế ly gián Dương Thanh với các
thuộc hạ. Thủ đoạn này bình thường có lẽ đã không thành công nếu Trọng
Vũ không nhờ được chính bản chất con người Dương Thanh giúp cho công
việc trở nên dễ dàng hơn. Sử chép rằng Dương Thanh không được lòng người
theo phục và có những hành động tàn bạo khiến nhiều người chống đối. Sự
thật ra sao, chúng ta khó có thể biết được vì đây là những lời nhận
định của các đối thủ ông. Tuy nhiên sự kiện xảy ra là sau vài tháng, Quế
Trọng Vũ đã thu thập được sự ủng hộ của các hào trưởng bản xứ, chiêu dụ
những người cầm đầu và binh lính trong quân đội của Dương Thanh. Thanh
bị cô lập. Sau chính những bộ hạ của Dương Thanh nổi dậy, chiếm La
Thành. Thanh và con là Chí Trinh bị giết. Chí Liệt và Đỗ Sỹ Giai chạy về
giữ Trường Châu (Ninh Bình) sau cùng cũng phải đầu hàng Quế Trọng Vũ.
Quế
Trọng Vũ dùng cách gì để ly gián Dương Thanh hiện không có tài liệu nào
nhắc đến vì vậy không có thể xác minh được. Nhưng có triển vọng rằng
Trọng Vũ đã dùng một số những tăng lữ Phật Giáo để vận động các tín đồ
Phật Giáo Lạc Việt đi theo mình để lật đổ Dương Thanh. Việc sử dụng Phật
giáo vào những ý đồ chính trị là một chuyện không phải là không có.
Trong những thế kỷ trước, đế quốc Kushana tại Trung Á đã gởi những nhà
truyền giáo đạo Phật đi phổ biến Phật Giáo nhằm mở mang ảnh hưởng của họ
và bảo đảm quyền kiểm soát hai con đường thương mại buôn bán với Trung
Quốc. Chính vì vậy, một sự trùng hợp giữa việc xuất hiện một môn phái
Thiền Tông mới và những sự kiện của năm 820 khiến chúng ta phải suy
nghĩ. Nếu sự trùng hợp này không phải là ngẫu nhiên, người sáng lập ra
môn phái Thiền Tông thứ nhì tại Việt Nam có thể là do Quế Trọng Vũ gởi
sang.
Năm
820, có một nhà sư già từ Trung Quốc sang An Nam. Sư họ Trịnh người
Quảng Châu, không rõ tên là gì chỉ biết đạo hiệu mà các đệ tử truyền lại
là Vô Ngôn Thông. Đầu tiên sư tu ở chùa Song Lâm tại Triết Giang, sau
đó lên Giang Tây học với thiền sư Mã Tổ. Mã Tổ chính là đệ tử của Huệ
Năng người sáng lập ra Thiền Tông nam phái tại Trung Quốc. Sau khi Mã Tổ
viên tịch, Vô Ngôn Thông tiếp tục học với Hoài Hải, người truyền nhân
của Mã Tổ. Hoài Hải viên tịch vào năm 814, Vô Ngôn Thông trở về tu ở
Quảng Châu. Tại Quảng Châu, sư cùng với sư Huệ Tịch lập ra phái Thiền
Quế Dương, một phái Thiền nhỏ bị tịch diệt vào cuối đời Đường.
Sang
Việt Nam, sư gặp sư Cẩm Thành đón về tu ở chùa Kiến Sơ, thuộc hương Phù
Đổng (Tiên Du, Bắc Ninh) và truyền bí quyết của Thiền Quan Bích cho Cẩm
Thành. Sư viên tịch vào năm 826. Cẩm Thành sau đó viên tịch vào năm
860. Khi sang An Nam vào năm 820, Vô Ngôn Thông đã già lắm rồi. Sư chắc
hẳn không sang Việt Nam để kiếm một người thầy hay đệ tử, và lại càng
không phải để kiếm một nơi an bình để tu luyện.
Vô
Ngôn Thông sang Việt Nam đúng vào lúc đang xảy ra những biến loạn sâu
sắc nhất. Vào lúc đó, khi các phe phái đang đấu tranh dành quyền lực tại
Đại La và điệp viên của Quế Trọng Vũ đang đi về mua chuộc những thế lực
địa phương ủng hộ cho việc trở lại của Đường triều thì sự hiện diện của
một môn phái Phật Giáo mới từ Trung Quốc sang hẳn phải có một ý nghĩa
chính trị nào đó. Có thể rằng Vô Ngôn Thông sang Việt Nam là nhằm động
viên các cộng đồng Phật Giáo Lạc Việt lúc đó nổi lên ủng hộ Đường triều.
Cần lưu ý là Thiền Tông thời đó có ảnh hưởng quan trọng trong giới quý
tộc và tầng lớp lãnh đạo Lạc Việt thời đó. Nhiều gia đình hào tộc đã có
con em đi tu và lập chùa trên đất của mình. Chùa Kiến Sơ mà Vô Ngôn
Thông tu, khi mới sang An Nam là một bằng chứng. Chùa này được dựng lên
khi họ Nguyễn, một hào tộc ở hương Phù Đổng, chuyển tư đệ của mình làm
chùa và mời sư Cẩm Thành về trụ trì. Cẩm Thành chắc hẳn có một quan hệ
nào đó với họ Nguyễn đó.
Sự
suy thoái của triều Đường vào những năm cuối của thế kỷ thứ tám đã
khiến cho các chùa chiền và điền trang của họ trở thành những thế lực
quan trong tại các địa phương ảnh hưởng đến quần chúng chung quanh đó.
Cần nhớ, xã hội Lạc Việt thời đó là một xã hội mà đại đa số dân chúng
còn chưa biết đọc biết viết. Số người có văn hóa chỉ giới hạn trong một
thiểu số những con em các đại tộc được đi học và trong giới tăng lữ mà
thôi. Tiến trình học tập đã khiến những người này thấm nhuần văn hóa
Trung Quốc dẫn đến việc họ có quan điểm cảm tình nhiều với Đường Triều.
Việc nổi dậy của Dương Thanh có thể đã khiến cho cộng đồng Phật Giáo ở
đây e ngại và đứng lên ủng hộ cho Quế Trọng Vũ chống lại Dương Thanh
chăng ?
Tuy
nhiên, nếu không có những mâu thuẫn căn bản trong nội bộ cộng đồng Lạc
Việt thời đó thì mọi cố gắng ly gián của Quế Trọng Vũ đều sẽ vô hiệu.
Vậy thì những nguyên nhân nào đã dẫn đến sự thất bại của Dương Thanh ?
Nhà
Tùy và trong những năm đầu đời Đường áp dụng chính sách ba thuế, "tô,
dụng, điệu". Các phép này đều thu thuế dựa trên xuất đinh. Về binh chế,
Đường áp dụng chính sách phủ vệ, bắt lính từ các tráng đinh có đóng
thuế. Khi một nông dân nghèo quá phải đi làm nô tỳ cho những nhà giầu có
thì chính quyền mất đi một xuất thuế và xuất binh vì vậy Đường đã áp
dụng chính sách quân điền, bảo đảm cho mỗi người nông dân có một thửa
ruộng để sinh sống ngăn chặn những tầng lớp môn phiệt phát triển không
cho lũng đoạn xã hội. Tại Việt Nam, chế độ quân điền này cũng được áp
dụng và đã có tác động làm giảm thế lực của những đại tộc. Chính vì vậy,
trong hai thế kỷ thứ bảy và thứ tám, ta không thấy nhắc nhở gì nhiều
đến những giòng họ như họ Đỗ hoặc họ Lý vốn vẫn chi phối tình hình chính
trị trong những thế kỷ trước. Có thể rằng những giòng họ này đã bị thu
hút vào trong chính quyền của Đường triều.
Tuy
nhiên kể từ những năm giữa của thế kỷ thứ 8, những cuộc chiến tranh
liên miên, đầu tiên là chống với những lân bang ở phía Tây và phía Bắc,
sau đó là nội chiến cát cứ, nông dân ly tán chạy vào nương tựa những nhà
quyền quý. Để có đủ lính, Đường bỏ chế độ phủ binh, áp dụng chính sách
lính mộ. Song song với việc bỏ phủ binh, Đường cũng bỏ chính sách quân
điền và áp dụng một chính sách thuế khác. Năm 780, Đường bỏ chế độ tô
dụng điệu và thay vào đó một chết độ thuế mới gọi là chính sách "lưỡng
phú". Chính sách thuế mới này không dựa trên xuất đinh mà dựa trên diện
tích ruộng. Chế độ quân điền bị bãi bỏ. Viẹc bãi bỏ chế độ quân điền tạo
điều kiện cho sự nổi lên của một tầng lớp môn phiệt mới, đặc biệt là
tại các vùng biên duyên của Giao Châu, (các vùng như Hoan, Ái, Phong,
vân vân) nơi mà đất đai còn rộng rãi để cho các nhà có thế lực chiếm
hữu.
Những
đại gia này sẽ đóng một vai trò quan trọng trong trường chính trị Lạc
Việt của các thế kỷ sau. Dương Thanh chính là điển hình của một trong
những đại tộc mới đó. Sử chép tổ tiên Dương Thanh đã từng làm thứ sử
Hoan Châu thời Khai Nguyên. Như vậy có thể tổ tiên Dương Thanh ở trong
đoàn quân sang Lạc Việt vào thời Mai Thúc Loan và định cư ở đó.
Dương
Thanh là người châu Hoan là một lý do nữa để cho giới hào tộc ở châu
Giao chống đối. Đến cuối thế kỷ thứ tám, sự khác biệt giữa châu Giao và
những châu khác trong An Nam Đô Hộ phủ đã trở nên khá rõ. Tại Giao (vùng
đồng bằng sông Hồng chung quanh khu vực Hà Nội), nông nghiệp ổn định,
trù phú ; tình trạng Hán hóa khá cao trong khi các vùng khác hãy còn
chậm tiến hơn và hãy còn giữ lại rất nhiều yếu tố của một nên văn hóa
biên cương. Điều đó không có nghĩa là dân chúng châu Giao không thèm
khát việc dành quyền độc lập với đế chế Đường triều so với dân chúng các
châu khác như Phong, Ái, Hoan. Nhưng sự kiện là tất cả lãnh tụ các cuộc
nổi dậy của dân Lạc Việt trong thế kỷ thứ 9 đều xuất phát từ các châu
khác ngoài châu Giao là một điều đáng để ta suy nghĩ. Kinh tế và nông
nghiệp phát triển đã buộc Đường triều phải mở rộng nền hành chánh tuyển
dụng những người địa phương vào các chức vụ cai trị cấp thấp. Những
người này, chắc hẳn hầu hết là người châu Giao, tạo ra một tầng lớp thư
lại mới mà cảm thấy quyền lợi của họ bị đe dọa khi Dương Thanh nổi lên
và trao quyền lại cho những người vùng khác. Tất cả những yếu tố đó
khiến cho cuộc khởi nghĩa của Dương Thanh trở thành cuộc khởi nghĩa đầu
tiên bị thất bại không phải vì thua một đạo quân phương Bắc mà vì phân
hóa nội bộ. Nó đã vạch rõ những mâu thuẫn trong xã hội Lạc Việt trước
hai con đường : "đế chế" và "độc lập" mà chỉ sau một thế kỷ nữa, với
những thảm trạng của ngoại xâm mới hòan toàn được giải quyết.
7.5. Cao Biền và cuộc chiến chống Nam Chiếu
Nam
Chiếu là một đất nước của những người thuộc sắc tôc Tầy-Thái ở vùng Vân
Nam. Quý Châu hiện nay. Thoạt kỳ thủy, đây là một liên minh bộ lạc ;
chiếu là tên họ gọi quân trưởng của bộ lạc. Có tất cả sáu chiếu lớn là :
Mông Tủy, Việt Tích, Lãng Khung, Đặng Thiểm, Thi Lãng và Mông Xá. Chiếu
Mông Xá ở xa về phía nam nhất nên gọi là Nam Chiếu. Cương Vực của những
chiếu này theo Cựu Đường Thư thì :"khoảng giữa quận Vĩnh Xương
và Diên châu bên Nam Thiết Kiều. Đông giáp Thoán Châu, đông nam giáp
Giao Chỉ, tây giáp nước Ma Già Đà (Magadha, tên một nước cổ nằm trên
sông Hằng, Ấn Độ), nam giáp nước Nữ Vương, tây nam giáp nước Phiếu (Miến
Điện cổ đại) bắc giáp châu Ích, đông bắc giáp châu Kiềm cả quận Vu".
Tóm lại tức là toàn bộ tỉnh Vân Nam và môt phần tỉnh Quý châu hiện nay.
Cuối
đời Khai Nguyên, quân trưởng Nam Chiếu là Bì la cáp cường thịnh, năm
chiếu kia suy nhược, Bì La cáp bèn hối lộ cho Tiết độ sứ Kiếm Nam của
Đường xin sáp nhập sáu chiếu làm một, dựng thành một nước lớn. Đường
phong Bì La cáp làm Vân Nam vương, dựng đô ở thành Đại Lý (phía tây Côn
Minh). Năm 757-763, Nam Chiếu hàng phục được nước Phiếu mở đưòng thông
với phương Tây. Thoạt đầu Nam Chiếu thần phục nhà Đường, nhưng sau này
khi cường thịnh lên, nhất là khi nhà Đường bị loạn An Sử, Nam Chiếu đã
thừa cơ đánh chiếm Tủy Châu (nay thuộc Tứ Xuyên) rồi từ đó khi thì hàng
phục, khi thì liên kết với Thổ Phồn chống lại Đường triều. Sang thế kỷ
thứ 9, khi nhà Đường ngày một suy yếu thì Nam Chiếu lại càng mở rộng
những cuộc tấn công vào vùng biên duyên của đế quốc Đường. Năm 829, đời
Phong Hựu, Nam Chiếu đã tấn công vào đến tận Thành Đô (thủ phủ Tứ Xuyên)
cướp bách mang đi. Về mặt Đông Nam, Nam Chiếu cũng thừa việc nhà Đường
suy yếu tấn công xâm lược. Tuy nhiên những cuộc xâm lược này chỉ có được
một mức độ to lớn vào giữa thế kỷ thứ 9 khi tình hình An Nam có những
biến động.
An Nam Đô Hộ Phủ vào giữa thế kỷ thứ 9
Cuộc
nổi loạn của Dương Thanh tuy không thành công, nhưng đã cho thấy thế
lực triều đình nhà Đường lúc đó ở phương nam suy yếu thế nào. Tuy rằng
Quế Trọng Vũ đã dùng kế lý gián giết được Dương Thanh, nhưng những người
theo Dương Thanh đã chạy lên các vùng núi liên kết với các sắc tộc
thiểu số (người Lão) và luôn luôn quấy rối khu vựa Giao Châu. Các đô hộ
của Đường gởi sang An Nam sau này, hầu hết đều phải dựa vào những hào
tộc địa phương mới có thể giữ vững thế lực, tuy rằng tình hình cũng
không lúc nào được yên.
Năm
823, đô hộ An Nam là Lý Nguyên Hỉ báo về với triều đình rằng dân Lão đã
tấn công và cướp bóc Lục Châu. Năm 824, giặc "Hoàng Động Man" phối hợp
cùng với Hoàn Vương từ ngoài biển vào đã tấn công cướp phá, và chiếm Lục
châu, giết thử sử châu này. Theo tờ trình của Lý Nguyên Hỉ thì những vụ
này là do tàn dư của Dương Thanh mời đến. Trong những năm sau đó giặc
giã và các vụ nổi loạn xảy ra liên miên. Năm 828, thứ sử Phong châu là
Vương Thăng Triều nổi dậy, bị Đô Hộ Hàn Ước giết chết. Nhưng cũng chính
năm đó, Hàn Ước vì tham ô tàn bạo, bóc lột dân chúng nhiều quá, bị quân
lính của chính mình nổi lên, phải chạy về bắc.
Trước
tình thế đó, triều Đường phải thay đổi chính sách, nhân nhượng đối với
dân chúng. Tháng 4 năm 836, vua Đường đưa ra một sắc chỉ miễn thuế cho
vùng đất An Nam. Đô hộ Điền Tảo được lệnh phải đi các nơi công bố sắc
chỉ này để trấn an dân chúng. Đồng thời Đường cũng gởi Mã Thực sang thay
Điền Tảo làm đô hộ.
Mã Thực là một trong những viên quan giỏi của triều Đường thời đó. Tân Đường thư
khen là Mã Thực sang An Nam áp dụng những chính sách "thanh tĩnh, không
phiền khiến cho dân Di liền yên". Một trong những chính sách mà Mã Thực
dùng để vỗ yên dân chúng là tìm cách mua chuộc những thủ lĩnh người
Việt đưa họ thành trảo nha cho nhà Đường. Năm 838, Mã Thực tậu lên vua
Đường rằng :
"Thủ
lĩnh các châu cơ mi hoặc giữ sào huyệt cố thủ, hoặc bị Nam Man (Nam
Chiếu) dụ dỗ, không thể chiêu dụ được, việc thật đáng lo. Tôi từ khi đến
trấn trị đến nay, dụ bảo việc nghịch thuận, Từ đó các thủ lĩnh đất cơ
mi đều đến nạp khoản sai con em đến phủ xin chịu phú tô ước thúc" (Tân
Đường Thư - Mã Thực truyện)".
Mã
Thực mang lại một sự ổn định tạm thời cho vùng đất An Nam, nhưng sau
khi Mã Thực đi thì tình hình biến động trở lại. Sau Mã Thực là Vũ Hồn.
Vũ Hồn, theo như trong bộ Công Dư Tiệp Ký của Vũ Phương Đề, một
hậu duệ của ông viết vào thế kỷ 18, thì đã mê phong thổ Giao Châu đến
nỗi sang định cư tại làng Mộ Trạch làm thủy tổ họ Vũ ở đó. Nhưng chắc
hẳn là Vũ Hồn đã quay trở lại An Nam về sau này, vì năm 843, khi Hồn bắt
dân chúng xây lại La Thành, quân đội đã nổi dậy, đốt cháy thành và đuổi
Vũ Hồn về Bắc. Đến khi Lý Trác trở thành kinh lược sứ An Nam thì tình
hình trở thành tồi tệ hơn nữa.
Lý Trác là một tên tham quan tàn bạo nhất mà triều Đường gởi qua An Nam. Chính Tân Đường Thư
đã phải viết :" Đời Đại Trung (847-860), Lý Trác làm kinh lược sứ An
Nam, hà khắc tham lam, đem mỗi đấu muối đổi lấy một con trâu, người An
Nam không chịu được" Sử Đường cũng coi Lý Trác là người đã gây ra cuộc
chiến với Nam Chiếu tại An Nam. Bất mãn trước sự bóc lột trắng trợn của
Lý Trác, thổ nhân Tây Bắc liên minh với tướng Nam Chiếu là Đoàn Tú Thiên
nổi dậy, mang quân vây phủ đô hộ. Lý Trác cho quân đàn áp, nhưng không
được. Vào lúc đó thử sử Ái châu là Đỗ Tồn Thành cũng nổi lên chống lại
Lý Trác. Theo Đường thư, Đỗ Tồn Thành thuộc giòng họ Đỗ đã nổi tiếng ở
An Nam từ thời Tề, Lương và rất có uy tín với dân chúng. Tuy Lý Trác
giết được Đỗ Tồn Thành, nhưng truyện đó chỉ làm cho ngọn lửa chống đối
tiếp tục nổ ra thêm mà thôi.
Không
những vậy, Lý Trác còn có những quyết định tự chặt vây cánh của mình
nữa. Từ trước, tù trưởng Lý Do Độc của động Thất Oản của châu Lâm Tây
(Hưng Hóa) vẫn chỉ huy một đội quân của Đường gọi là "quân mùa đông",
phòng chống ở biên giới chống lại Nam Chiếu. Lý Trác tâu với vua Đường
cho bãi bỏ "quân mùa đông" nói rằng một mình quân của Lý Do Độc cũng đủ
sức canh phòng quân Nam Chiếu được rồi. Sau vua Nam Chiếu gả con gái cho
con trai của Do Độc. Do Độc mang cả động Thất Oản ra hàng. Thế là thế
lực Nam Chiếu vươn tới sát phủ thành An Nam. Lúc đó là năm 854, tình thế
đã sẵn sàng cho một cuộc xâm lược lớn của Nam Chiếu vào đất An Nam.
Cuộc xâm Lược của Nam Chiếu
Năm
858, triều Đường cử Lý Hộ sang làm đô hộ An Nam. Lý Hộ mới đến An Nam
đã giết Đỗ Thủ Trừng, con của Đỗ Tồn Thành. Họ Đỗ căm tức, cùng người
Nam Chiếu kéo xuống đánh phá phủ thành An Nam, Lý Hộ phải chạy về Bắc.
Lúc bấy giờ vua Nam Chiếu là Phong Hựu đã chết, Đoàn Tú Long lên thay.
Tú Long tự xưng là hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Lý và mang quân quấy
phá biên cương của Đường.
Đầu
năm 861, được Đường viện binh thêm quân Ung, Quảng và động viên thêm
quân các đạo lân cận, Lý Hộ mang quân từ Vũ Châu sang đánh Nam Chiếu
chiếm lại được phủ thành. Tuy nhiên biết rằng thế lực họ Đỗ rất mạnh,
Đường triều đổi chính sách, tìm cách mua chuộc. Lý Hộ bị giáng chức đầy
ra đảo Hải Nam, Vương Khoan được cử sang thay, mang sắc chỉ xin lỗi họ
Đỗ về việc giết nhầm Đỗ Tồn Thành và Đỗ Thủ Trừng cùng truy phong Đỗ Tồn
Thành chức Kim Ngô tướng quân.
Năm
862, Nam Chiếu mở một cuộc đại tấn công vào An Nam. Vương Khoan chống
cự không nổi phải cáo cấp về với Đường triều. Triều Dương cử Thái Tập
sang làm An Nam kinh lược chiêu thảo sứ. Thái Tập điều động ba vạn quân ở
các đạo Hứa, Hoạ, Từ, biện, Kinh Tương, Đàm, Ngạc sang, lập đồn phòng
thủ chống giữ, Nam Chiếu phải lui quân. Nhưng tiết độ sứ Lĩnh Nam tây
đạo là Thái Kinh thấy Thái Tập chống Nam Chiếu thành công, sợ rằng Tập
có thể lập nhiều công át được mình, mới tâu với vua Đường xin rút các
thú binh về để đỡ tốn. Thái Tập xin để lại 5 ngàn quân cũng không được
triều Đường phê chuẩn. Đến tháng 11 năm đó, Nam Chiếu lại mang ba mươi
vạn quân sang đánh An Nam. Thái Tập cầu xin quân cứu viện. Đường triều
cho quân sang cứu, nhưng tiết độ sứ Lĩnh nam đông đạo là Vi Trụ sợ quân
Nam Chiếu tiến đánh vùng Ung Quảng nên xin với vua Đường để quân lại giữ
vùng này, bỏ mặc cho An Nam chống cự với Nam Chiếu.
Không
có viện quân, Thái Tập chống giữ không nổi. Năm 863, quân Nam Chiếu phá
thành Đại La, Thái Tập nhảy xuống sông tự tử. Quân Nam Chiếu chia nhau
đóng giữ các nơi, đốt phá nhà cửa, giết hại nhân dân. Theo Tự trị Thông Giám
"Nam Chiếu hai lần đánh hãm Giao Chỉ giết và cướp bắt đến 15 vạn
người". Sau đó Nam Chiếu để lại hai vạn quân trấn giữ An Nam sai Dương
Tư Tấn đóng tại phủ thành đô hộ. Vua Nam Chiếu sai Đoàn Tú Thiên giữ
chức An Nam đô hộ, Phạm Nế Ta làm An Nam đô thống, và Triệu Nặc Mỵ làm
Phù Da đô thống cùng chia nhau trấn giữ An Nam.
Cao Biền phá quân Nam Chiếu
Tháng
8 năm Hàm Thông thứ 5 (864), nhà Đường phong Kiêu Vệ tướng quân Cao
Biền làm An Nam Đô Hộ Bản Quản Kinh Lược Chiêu Thảo Sứ với trách nhiệm
chiếm lại An Nam. Biền luyện quân ở Hải Môn chưa tiến quân ngay. Mãi tới
tháng 8 năm Hàm Thông thứ 6(865), sau khi tập luyện quân sỹ một năm tại
Hải Môn, Biền mới đem 5000 quân vượt biển sang Giao Châu. Tháng chín,
Biền đến huyện Nam Định đúng vào lúc quân Nam Chiếu đang tụ họp cướp gặt
lúa của dân. Biền tập kích, đại phá quân giặc, cướp được lúa nuôi quân
rồi thừa thế tiến đánh Long châu (Long Biên). Nam Chiếu đốt hết của cải
và súc vật rồi bỏ chạy. Nhưng khi tin thắng trận của Cao Biền được báo
về Hải Môn, giám quân là Lý Duy Chu dìm đi không báo về triều. Sau mấy
tháng không thấy tin tức gì, triều đình xét hỏi Lý Duy Chu báo là Cao
Biền đóng quân tại Phong Châu không chịu tiến binh. Vua Đường liền sai
Hữu Vũ tướng quân là Vương Án Quyền sang thay Cao Biền và triệu Biền về
triều hỏi tội.
Trong
khi đó Biền nhận được thêm bảy ngàn quân của Vi Trọng Tể sang tiếp viện
đã bao vây được quân Nam Chiếu trong thành Đại La. Cũng vào lúc ấy,
Biền biết được tin của Lý Duy Chu muốn hãm hại mình bèn sai Vương Huệ
Tân và Tăng Cổn đem tờ biểu cáo tiệp về triều. Trên đường về Vương và
Tăng phải trốn ở một hòn đảo trên vịnh Hạ Long để tránh đội thuyền của
Lý Duy Chu và Vương Án Quyền. Biền vây thành Đại La được mười ngày thì
được tin Duy Chu và Án Quyền đến. Biền bèn giao binh quyền lại cho Vi
Trọng Tể rồi chỉ đem theo một trăm tùy tùng trở về Bắc. Nhờ Vương Huệ
Tân và Tăng Cổn mang được biểu cáo tiệp về triều trước, vua Đường biết
được rõ tình hình An Nam nên khi về triều Biền được thăng kiểm hiệu công
bộ thượng thư và lại trở về trấn giữ An Nam. Trong khi Biền đi vắng
tướng sỹ không phục Lý Duy Chu và Vương Án Quyền nên mở vòng vây thành
Đại La, quân Nam Chiếu trốn được quá nửa. Biền trở lại đốc thúc quân sỹ
phá được phủ thành. Biền sau đó đem quân đánh thành Bá Phong, tướng Nam
Chiếu là Dương tập Tư ra đánh bị thua. Quân Biền nhảy vào thành giết
chết đô hộ An Nam của Nam Chiếu là Đoàn Tú Thiên, các tướng là Phạm Tế
Na, Triệu Nặc Mỵ và hơn ba vạn quân Nam Chiếu. Nhà Đường từ đó lại chiếm
giữ được An Nam. Tuy sau này, Nam Chiếu còn một đôi lần mang quân xuống
quấy phá, nhưng không bao giờ còn nghiêm trọng được như lần này.
Cuộc
xâm lược của Nam Chiếu có một ý nghĩa quan trọng trong việc tạo thành
dân tộc Việt. Với hầu hết những dân tộc thiểu số miền núi tham gia vào
phía Nam Chiếu, sự phân cách giữa những người Việt ở miền xuôi và miền
núi đã hoàn tất. Có lẽ giai đoạn này là giai đoạn kết thúc việc phân
cách xã hội Lạc cổ đại thành ra Việt và Mường vốn đã bắt đầu từ mấy trăm
năm trước. Các bằng chứng về ngôn ngữ cho thấy tiếng Việt và tiếng
Muờng chỉ bắt đầu tách rời nhau và phát triển theo các chiều hướng khác
nhau kể từ cuối thế kỷ thứ 9. Một số những giòng họ, như họ Đỗ, vốn đóng
những vai trò quan trọng trong chính trường An Nam trong những thế kỷ
trước trở nên suy thoái và hầu như không còn can dự vào chính sự Đại
Việt trong những thế kỷ sau. Quan trọng hơn, cuộc xâm lược của Nam Chiếu
đã cho nhân dân Lạc Việt thấy rõ rằng không thể trông cậy vào bên ngoài
để bảo vệ hay tranh đấu thay cho mình. Những người Việt chống Đường lúc
đầu đã hoan nghênh cuộc tiến công của Nam Chiếu, nhưng họ đã bị đẩy ra
ngoài khi Nam Chiếu chiếm được đất An Nam. Quân chiếm đóng Nam Chiếu
chia nhau cướp phá, tàn sát nhân dân. Cựu Đường Thư kể lại :
"Dân
chúng trốn nạn ra ở tại các hang động khe núi. Số quan lại văn vũ chạy
loạn đến Hải Môn cũng không nhỏ.. nhưng một số hào kiệt đã xuất hiện
trong đám lưu dân. Những người này được dân chúng ủng hộ và bảo vệ cho
dân chống lại sự cướp phá của giặc".
Đoạn văn ngắn ngủi này của Cựu Đường Thư
cho thấy ảnh hưởng của cuộc xâm lược của Nam Chiếu đối với đất An Nam.
Đối với giai cấp lãnh đạo, đây là một lúc thật là đau đớn. Phe chống
Đường thì thấy rõ là đã bị đồng minh của mình là Nam Chiếu lợi dụng
trong khi phe thân Đường thì cũng thấy bị triều Đường bỏ mặc. Với nhận
thức đó, bình minh của thời kỳ độc lập đã ló dạng với dân tộc Việt.
An Nam Đô Hộ Phủ sau cuộc xâm lược của Nam chiếu - Tăng Cổn
Năm
Hàm Thông thứ 7 (866) nhà Đường đổi An Nam Đô Hộ phủ thành Tĩnh Hải
Quân Tiết Trấn phong Cao Biền làm tiết độ sứ. Biền cho tổ chức lại chính
quyền cai trị đồng thời chấn chỉnh lại tình hình trong nước. Hiện không
rõ cơ cấu chính quyền Cao Biền thành lập sau khi đánh bại quân Nam
Chiếu ra sao, nhưng chắc hẳn chính quyền mới mà Biền thành lập phải dựa
nhiều vào những thế lực địa phương vì vào thời bấy giờ nhà Đường đã suy
vi, không đủ thế lực để còn chi phối các địa phương nữa.
Về
việc tái thiết, trước hết Biền cho xây đắp lại phủ thành đô hộ, thường
gọi là Đại La Thành mở mang cho quy mô rộng lớn hơn trước nhiều. Theo
các tài liệu để lại, thành có chu vi dài 1982 trượng (khoảng trên 7 cây
số), cao hai trượng sáu thước (10 mét), chân thành rộng hai trượng năm
thước (khoảng 10m), nữ tường (tường nhỏ bên trong) bốn mặt cao 5 thước
ba tấc (2m). Phía ngoài thành còn có một lũy bảo vệ. Chung quanh thành
đặt vọng lâu, trong thành có cống thoát nước. Theo Tư Mã Quang trong Tự Trị thông giám,
trong thành Cao Biền còn xây nhà đủ cho khoảng 40 vạn người ở (Hà Nội
trước năm 1940 chỉ có khoảng 20 vạn người). Dấu vết thành Đại La nay còn
tồn tại ở ngoại ô thành phố Hà Nội hiện nay. Sau này đời Lý, Lý Công
Uẩn dời đô đến đây và đổi tên là Thăng Long.
Sau
nhiều năm loạn lạc, lại bị quân Nam Chiếu cướp phá, dân chúng ly tán
khắp nơi, thành ra một trong những việc đầu tiên Biền phải làm là tụ họp
những người đào vong cho họ định cư trở lại thành những xóm làng mới
khai khẩn những đất ruộng bị bỏ hoang. Ngoài ra Biền cũng có thể cho
tướng sỹ khẩn hoang lập đồn điền và tạo ra những hương ấp mới. Việc này
được xác định, hương ước của nhiều làng tại miền Bắc và miền Bắc Trung
Bộ hiện nay của Việt Nam còn ghi rõ rằng những làng đó do Cao Biền sáng
lập. Theo An Nam Chí Nguyên, "Cao Biền chia đặt hương thuộc ở An Nam lên đến 159 hương".
Trong
thời gian chiến tranh với Nam Chiếu sổ sách giấy tờ của chính quyền cai
trị đã bị mất mát gần hết - Khi quân Nam Chiếu chiếm được phủ thành đô
hộ, chỉ có một viên lại của Thái Tập là Phàn Xước mang được ấn của Thái
Tập qua sông chạy trốn về bắc. Cao Biền cho tiến hành lập lại sổ sách,
chỉnh đốn công thuế.
Sử
chép rằng Cao Biền đào sông, khơi ngòi, mở đường lộ, lập quán trọ cho
khách đi đường trên khắp đất An Nam. Nhiều đoạn đê, nhất là đoạn đê trên
vùng gần Hà Nội hiện nay được đắp để chống lụt lội. Để củng cố đường
giao thông bể giữa Ung châu, Quảng châu với An Nam, Cao Biền mộ thợ đục
phá những đá ngầm dưới bể, đào thành ghềnh Bắc Thú ở Hải Môn gọi là cảng
Thiên Uy, khiến thuyền bè vận chuyển quân đội, lương thực từ Ung, Quảng
sang An Nam được dễ dàng hơn. Trong những năm đầu các hoạt động kinh tế
sản xuất còn chưa hồi phục, để đảm bảo cho dân chúng không bị đói khổ
nổi lên làm loạn, chính quyền không những không thu được phú thuế mà còn
phải mang tiếp tế từ phương bắc xuống. An Nam Chí Lược của Lê
Tắc đã trích lại một tấm bia dựng năm 870 nói về công lao của Cao Biền
tại đất An Nam đã nhắc nhở đến việc vận chuyển tiếp tế từ bên Trung Quốc
sang để cứu đói.
Để
ngăn trước các cuộc tấn công của Nam Chiếu, Cao Biền mang quân đánh các
thủ lãnh các tộc người ở vùng Tây Bắc trước đây theo Nam Chiếu, giết
chết tù trưởng hai động bắt hàng 17 ngàn người. Sau đó, Biền định rõ
biên giới An Nam đặt thú binh tại những nơi biên ải để phòng chống lại
các cuộc xâm lược của Nam Chiếu và Chiêm Thành. Vùng đất An Nam nhờ đó
mà được yên ổn trong mấy chục năm sau đó.
Giai
đoạn cuối thế kỷ thứ 9, mở đầu với Cao Biền này được ghi nhớ là một
giai đoạn phồn vinh của đất An Nam. Nhưng để đạt được như vậy, Cao Biền
đã phải nhượng bộ nhiều cho tinh thần độc lập của dân tộc Lạc Việt.
Trong
những năm nằm dưới sự cai trị của Nam Chiếu, khi mà tình hình kinh tế
chính trị bị suy thoái, dân chúng tan tác khắp nơi, thì dân Lạc Việt
cũng có một sự phục hưng những truyền thuyết và những giá trị tinh thần
có từ thời Hùng Vương về trước. Người ta trông cậy vào nhũng truyền
thống và những giá trị đó để tồn tại, để vượt qua những nỗi tuyệt vọng
của hiện tại. Để thắng quân Nam Chiếu, Cao Biền đã phải dựa vào những
truyền thuyết đó, để động viên dân Lạc Việt theo mình. Theo Việt Điện U Linh tập,
sau khi sang đến An Nam, Cao Biền đã dựng một đàn tế kêu gọi các hạo
khí anh linh địa phương hiển linh để giúp mình. Sau đó, Biền đã được Lý
Ông Trọng hiển linh giúp đỡ, nhờ đó đánh đuổi được quân Nam Chiếu.
Lý
Ông Trọng là một hình tượng đặc biệt hay được các quan lại Trung Quốc
sử dụng trong cố gáng nhằm làm cho dân Việt chấp nhận sự cai trị của
phương Bắc. Trước Cao Biền, Triệu Xưong cũng đã từng nói là mộng thấy Lý
Ông Trọng, cùng nhau đàm luận kinh Xuân Thu và cho lập đền thờ. Theo Lĩnh Nam Chích Quái,
Lý Ông Trọng là một người khổng lồ sống vào cuối đời Hùng Vương. Sau
đến thời An Dương Vương, nhân Tần Thủy Hoàng muốn mang quân sang xâm
lược, An Dương Vương bèn mang ông sang cống nhà Tần. Thủy Hoàng mừng lắm
phong ông làm chức Tư Lệ Hiệu Úy. Tần thôn tính thiên hạ, ông được Thủy
Hoàng sai mang quân trấn đất Lâm Thao, uy danh lừng lẫy, Hung Nô không
dám xâm phạm. Sau ông cáo lão về lại đất nam. Hung Nô lại xâm phạm, Thủy
Hoàng cho người vời ông, ông không chịu trốn vào rừng. Thủy Hoàng cho
đúc đồng dựng tượng của ông ở ngoài cửa Kim Mã, kinh thành Hàm Dương,
trong bụng có chỗ trống, chứa được mấy chục người để làm chân tay cử
động. Hung Nô trong thấy tưởng ông còn sống, không dám phạm cõi Tần nữa.
Với
tư cách là một anh hùng địa phương, nhưng cuộc đời toàn bộ dùng để bảo
vệ cho đế chế, Lý Ông Trọng là nhân vật lý tưởng cho một cố gắng hòa hợp
Đường Việt. Theo Việt Điện U Linh Tập, Biền cho sửa sang lại đền
thờ của Lý Ông Trọng, tạc gỗ làm đền gọi là đền Lý Hiệu Úy. Đền này nay
thuộc huyện Từ Liêm, gần thủ đô Hà Nội. Một nhân vật khác được Cao Biền
cho thờ phụng là Cao Lỗ. Theo Việt Điện U Linh Tập, một đêm Cao
Biền nằm mông thấy Cao Lỗ, người đã làm ra nỏ thần cho An Dương Vương,
đến nói chuyện. Biết rằng Cao Lỗ bị các Lạc tướng dèm pha nên bị An
Dương Vương giết, Biền hỏi Cao Lỗ vì sao lại bị các Lạc tướng thù ghét
đến như vậy, thì được Lỗ cho biết chỉ vì ông ta là người phương bắc cho
nên không được các Lạc tướng chấp nhận.
Cuộc
đối thoại giữa Cao Biền và Cao Lỗ cho thấy rõ mặc dầu những cố gắng của
Cao Biền, nhưng xã hội Lạc Việt lúc đó đã vượt qua khỏi giai đoạn mà có
thể có được một sự hòa hợp giữ đất An Nam nằm trong đế quốc Trung Hoa
rồi. Chính vì vậy, mặc dầu dân Lạc Việt có ghi ơn Cao Biền, gọi Cao Biền
là Cao vương, và giữ một hồi ức về một thời kỳ phồn vinh trong mấy năm
dưới sự cai trị của Biền đến nỗi, trong bài chiếu dời đô, Lý Công Uẩn
phải nhắc đến với những giòng chữ trân trọng, nhưng những cố gắng của
Biền nhằm kết hợp các hạo khí anh linh của nước ta vào mục tiêu bảo vệ
đế chế đã bị dân chúng chế diễu. Các truyền thuyết như Cao Biền yểm âm
binh, âm binh dậy non, Cao Biền cưỡi diều giấy đi tuần hành các nơi
trong nước, tìm các huyệt đế vương để yểm đã được lưu hành rộng rãi
trong dân gian là những bằng chứng cụ thể cho sự thất bại đó của Biền.
Giả sử như những quan lại Trung Quốc áp dụng những chính sách đó của Cao
Biền trước đó vài trăm năm thì có thể rằng cục diện sẽ đổi khác. Nhưng
đến thời Cao Biền thì đã quá muộn, hai bên đã bước đi sâu vào hai con
đường khác nhau, và việc ly dị chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi.
Truyện
thần sông Tô Lịch giải thích việc Cao Biền rời khỏi đất An Nam là bằng
chứng rõ nhất chứng tỏ sự thất bại trong chính sách của Biền. Theo Lĩnh Nam Trích Quái và Việt Điện U Linh Tập,
một buổi sáng, Biền ra đứng trên thành, nhìn ra sông thấy một trận gió
lớn nổi lên, sóng nước cuồn cuộn, mây trời mờ mịt, có một dị nhân đứng
trên mặt nước, mình cao hai trượng, mặc áo vàng, đội mũ tía tay cầm hốt
vàng rực rỡ trên một khoảng trời, chập chờn lên xuống trong không gian.
Mặt trời lên đến ba con sào, khí mây vẫn còn chưa tan. Biền rất kinh dị,
muốn yểm thần. Đêm nằm mộng thấy thần đến bảo rằng :
"Chớ
yểm ta, ta là tinh Long Đỗ đứng đầu các địa linh, ông xây thành ở đây,
ta chưa được gặp nên tới xem đó thôi, ta có sợ gì bùa phép".
Biền
kinh hãi. Sáng hôm sau, cho lập đàn, niệm chú, lấy kim đồng thiết phù
để yểm. Đêm hôm đó sấm động ầm ầm, gío mưa dầm dập, đất trời u ám, thần
tướng hò reo, kinh thiên động địa. Trong khoảnh khắc, kim đồng thiết phù
bắn ra khỏi mặt đất biến thành tro, bay tan trong không.
Biền kinh hãi nói rằng : "Xứ này có thần linh dị, ở lâu chắc chuốc lấy tai vạ".
Năm
868, Cao Biền được triều Đường đổi đi làm tiết độ sứ Thiên Bình. Biền
dâng biểu tiến cử cháu họ mình là Cao Tầm vốn làm tướng tiên phong dưới
quyền mình lên thay chức Tĩnh Hải tiết độ sứ. Năm 878 Tăng Cổn lại thay
Cao Tầm làm tiết độ sứ. Cổn chính là tiểu hiệu trước của Cao Biền trong
cuộc chiến chống Nam Chiếu. Cao Tầm và Tăng Cổn tiếp tục chính sách của
Cao Biền, cho nên trong khi trung nguyên rối loạn thì tại An Nam được
yên ổn, các mặt kinh tế văn hóa đều phát triển. Các khai quật khảo cổ
cho thấy về kiến trúc, cái gọi là "phong cách Đại La" mà đã trở thành
điển hình trong kiến trúc Việt Nam bắt đầu từ thời này.
Tăng Cổn làm tiết độ sứ được 14 năm. Trong thời gian này Cổn có soạn sách Giao Châu Ký
nay đã thất truyền. Tuy nhiên cuốn sách này đã được dùng làm cơ sở cho
một số những tác phẩm của các tác giả Đại Việt sau này, quan trọng nhất
là các cuốn Việt Điện U Linh Tập và Lĩnh Nam Trích Quái qua đó, ta có thể tạo lại một phần những gì Cổn viết trong Giao Châu Ký.
Căn cứ vào những gì còn lại, ta thấy Tăng Cổn là một trong những người
đầu tiên viết lại về cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. Cổn cũng ghi
lại khá chi tiết về cách cai trị của các vua Hùng trong đó mọi quyết
định vua làm đều phải tham khảo ý kiến của các Lạc hầu, Lạc tướng. Tuy
nhiên điều này chưa chắc đã tin được vì nó có thể chỉ phản ảnh những gì
xảy ra trong thời Tăng Cổn mà thôi. Trong thời gian này, triều đình
trung ương rối loạn vì các cuộc khởi nghĩa nông dân lớn, đặc biệt là
cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào. Chính quyền Đường triều không còn có một
khả năng nào để có thể can thiệp vào nội bộ An Nam, và Tăng Cổn chỉ có
thể ngồi yên được ghế Tiết Độ Sứ nếu có sự ủng hộ của tầng lớp hào tộc
lãnh đạo địa phương vốn không những nắm về hành chánh mà còn cả trong
quân đội nữa, vì phần lớn quân đội Đường tại An Nam lúc này đều là những
dân địa phương được tuyển tại chỗ. Có lẽ vì vậy mà Tăng Cổn được dân
chúng khen là "Tăng thượng thư" (thượng thư hiền lành như sư tăng).
Cũng
như hầu hết các quan lại thời Đường, Tăng Cổn cũng là một nhà thơ. Một
số những bài thơ của Tăng Cổn để lại đã phản ảnh rõ một tinh thần mới
trong những quan lại nhà Đường gởi sang An Nam. Sau gần một nghìn năm bị
nội thuộc vào các đế quốc phương Bắc, dân Lạc Việt vẫn còn giữ được cá
tính riêng biệt, và các quan lại Đường tại đây vẫn còn có cảm giác là
những kẻ ngoại lai, tỷ như hai câu đầu một bài thơ của Tăng Cổn được ghi
lại trong Việt Điện U Linh Tập :"Giang sơn đất Việt có tự nghìn
xưa, Đường triều nhân sỹ chỉ là những người mới". Hai câu này cho thấy,
trong buổi hoàng hôn của Đường triều, Tăng Cổn đã nhận thấy rằng dù rằng
các triều đại lên xuống thay nhau, các truyền thống của một dân tộc có
gốc rễ bền chặt từ bao nhiêu đời là những cái gì vĩnh viễn trường tồn.
Năm
892 Chu Toàn Dục sang thay Tăng Cổn làm tiết độ sứ. Toàn Dục là anh của
Chu Toàn Trung, người sau này sẽ cướp ngôi nhà Đường. Sau Toàn Dục là
Độc Cô Tổn, tuy nhiên những người này chưa chắc đã đến được An Nam bởi
vì từ sau năm 780 cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào đã lan rộng ra khắp cả
Trung Quốc. Cơ hội cuối cùng đã đến để dân Lạc Việt tách khỏi đế quốc
phương Bắc đi theo con đường của mình
Chương 8 Độc lập : Họ Khúc và Ngô Quyền
8.1. Sự sụp đổ của nhà Đường
Bắt
đầu từ cuối những năm 860, nhà Đường đi vào giai đoạn cuối cùng của sự
suy thoái, chuẩn bị đi vào diệt vong. Năm 868, lính thú các vùng Từ, Tứ
bị đi đóng ở Quế Châu nổi loạn, bắc tiến vào Hồ Nam, Triết Tây, Hoài Nam
rồi tấn công và chiếm đóng phủ thành Từ châu. Quân Đường không đẹp nổi,
Đường triều phải mượn quân Hồi Hột vào đàn áp khởi nghĩa. Lãnh tụ nghĩa
quân là Bàng Tích tử trận, nhưng dư chúng phân tán mỏng để sau này tham
gia các cuộc khởi nghĩa khác.
Năm
874, nhân vùng quan đông liên tiếp mấy năm bị thiên tai, hết lụt đến
hạn, bách tính cơ cực, lưu vong rất nhiều, Vương Tiên Chi nhân vậy khởi
nghĩa ở đất Bộc đánh chiếm lấy đất Tào và Bộc, tự xưng là Thiên Phủ Bình
Quân đại tướng quân. Nhân vậy, người Tào Châu là Hoàng Sào cũng đứng
lên khởi nghĩa hưởng ứng. Cả vùng Sơn Đông đại loạn. Tiên Chi tử trận,
Hoàng Sào đứng ra một mình lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tự xưng là Thiên Đại
tướng quân. Hoàng Sào phát triển thế lực từ Sơn Đông ra khắp các địa
hạt của năm tiết trấn, Hoài Nam, Trung Vũ (Trần, Hứa châu), Tuyên Vũ
(Tống, Bạc, Dĩnh châu) Nghĩa Thành (Vệ, Hoặc châu) và Thiên Bình (Vân,
Tào, Bộc châu) đi đến đâu dân cũng hưởng ứng hàng loạt. Sào tụ tập quân
lên đến hàng mấy chục vạn. Năm 878, Sào mang quân xuống nam, vượt Trường
Giang chiếm Triết Đông, vào Phúc Kiến. Năm 879, Sào đánh chiếm Quảng
Châu và làm cỏ nhân dân trong thành. Tiết Độ Sứ Lý Thiệu bị Sào bắt phải
dâng biểu xin triều đình cho Hoàng Sào cai trị cả miền Nam, kể cả An
Nam. Triều Đường từ chối và Thiệu bị Sào giết. Năm sau 880, một trận
dịch lớn xảy ra giết hại đến trên 40 phần trăm quân của Hoàng Sào khiến
Sào phải mang quân về Bắc, đánh chiếm Quế Châu, Hồ Nam, An Huy sau đó hạ
được cả Lạc Dương và kinh đô Trường An, Đường Hi Tông phải chạy vào
Thục. Chiếm được Trường An, Sào tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu là Tề.
Nhưng sau đó, bọn quan lại địa chủ tổ chức quân Cần Vương từ khắp nơi
kéo lại. Đại tướng của Sào là Chu Ôn (tức Chu Toàn Trung) phản Sào đầu
hàng Đường khiến cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào bị suy yếu dần. Năm 884,
Hoàng Sào tự sát.
Cuộc
khởi nghĩa của Hoàng Sào tuy thất bại, nhưng chế độ nhà Đường cũng bị
lung đến tận gốc. Vùng Hoa Bắc, chẳng bao lâu rơi vào tay những sứ quân
mà dần dà sẽ tiếm quyền của Đường triều thành lập cục diện Ngũ Đại Thập
Quốc. Vùng Hoa Nam tuy không đến nỗi náo loạn như vùng Hoa Bắc và tuy bề
ngoài vẫn còn giữ một sự thần phục biểu kiến với triều Đường, nhưng bên
trong cũng hoàn toàn do các thế lực địa phương nắm giữ.
Nam Hán cát cứ Quảng Châu
Có
quan hệ mật thiết nhất với đất An Nam là tiết trấn Lĩnh Nam Đông Đạo có
trị sở ở Quảng Châu. Tiết độ sứ trấn này là Lưu Ẩn. Ẩn đầu tiên giữ
chức Tiết độ phó sứ giữ quyền lưu hậu ở Quảng châu. Sau khi Hoàng Sào
mang quân về Bắc, Họ Lưu đã chiếm cứ Quảng Châu coi như là lãnh địa
riêng của mình. Năm 897, Lưu Ẩn đã dẹp được một cuộc nổi loạn bên trong
tiết trấn và đến năm 898 Ẩn đã đánh bại Tăng Cổn, khi đó làm thứ sử Quế
Châu trong việc tranh dành quyền kiểm soát vùng Lĩnh Nam. Năm 904, Đường
triều cử Thôi Viễn làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam, nhưng Ẩn từ chối không nhận
Viễn. Thấy vậy Viễn không dám xuống Quảng Châu và triều Đường cũng phải
chịu, rút Viễn về. Ẩn sau đó cho người mang đồ hối lộ cho Chu Toàn
Trung đang nắm triều chính nhà Đường. Nhờ đó Trung phong cho Ẩn chính
thức làm Tiết độ sứ. Đến năm 908, khi Chu Toàn Trung cướp ngôi nhà
Đường, lập ra nhà Hậu Lương thì lại phong thêm cho Lưu Ẩn làm Tĩnh Hải
Quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ. Lưu Ẩn dòm ngó đất An Nam từ đó. Năm 911,
Lưu Ẩn chết, em là Lưu Nghiễm (sau đổi tên là Lưu Yểm, sau nữa đổi tên
là Lưu Cung) lên thay. Được sự giúp đỡ của các sĩ nhân trung nguyên lánh
nạn xuống nam, lại thấy tình hình miền Bắc phân hóa, các địa phương tự
lập, Nghiễm cũng tự xưng là hoàng đế đặt quốc hiệu là Đại Việt, niên
hiệu là Càn Hanh. Tuy nhiên đến năm sau lại đổi quốc hiệu là Hán, tức là
nhà Nam Hán, một trong thập quốc thời Ngũ Đại.
Họ Khúc dấy nghiệp
Tăng
Cổn hết làm An Nam Đô hộ vào năm 791. Trong mười năm sau đó, sử Trung
Quốc không nhắc nhở gì đến ai thay thế cho Tăng Cổn cả. Trong thời kỳ
này, chúng ta có thể đoán được rằng thế lực của Đường tại An Nam không
còn gì. Ngay cả quân trú đóng của Đường tại An Nam có lẽ cũng đã rút về
nước hết trong giai đoạn biến loạn thời Hoàng Sào và sau đó. Từ 901 cho
đến 905, Đường Thư chép tên ba người làm An Nam Đô Hộ, nhưng có
nhiều lý do khiến ta có thể nghi rằng những người này tuy được phong như
vậy nhưng không hề bước chân tới đất An Nam. Ba người này là Tôn Đức
Chiêu, Chu Toàn Dục và Độc Cô Tổn. Vậy trong thời gian này ai cai trị
đất nước An Nam ? Cai trị An Nam lúc đó có lẽ là họ Khúc mà người đầu
tiên là Khúc Thừa Dụ.
Đường thư và Ngũ Đại sử không chép đến tên Khúc Thừa Dụ, tuy rằng Ngũ Đại sử (Nam Hán thế gia) có chép đến Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ. Tên Khúc Thừa Dụ chỉ được ghi lại trong Tự Trị Thông Giám
của Tư Mã Quang đời Tống, chép rằng "năm Thiên Hựu thứ 3 (906), mùa
xuân tháng giêng phong cho Tĩnh Hải tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ chức Đồng
Bình Chương sự" và chua thêm rằng "Khúc Thừa Dụ thừa lúc loạn lạc, chiếm
cứ An Nam". Như vậy có triển vọng rằng sau khi Tăng Cổn và những toán
quân trú đóng của Đường triều về Bắc, Khúc Thừa Dụ đã thừa cơ An Nam
không ai cai quản đứng lên lãnh đạo đất nước. Tự Trị Thông Giám chép :
"Họ
Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu, Thừa Dụ tính khoan hòa, hay
thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh
là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là tiết độ sứ và xin mệnh lệnh của
nhà Đường".
Làm
cách nào họ Khúc chiếm được chính quyền tại An Nam, sử cũ không nói rõ,
nhưng hầu như chắc chắn việc chiếm giữ chính quyền này xảy ra một cách
hòa bình. Hồng Châu hiện nay là vùng đất thuộc huyện Ninh Giang, Hải
Dương, chính là nơi Vũ Hồn, An Nam đô hộ trước đó mấy chục năm đến lập
nghiệp. Vùng này như vậy đã bị Hán hóa khá nhiều thành ra có thể rằng
sau khi quân Đường rút hết về Bắc, chính các quan lại địa phương đã mời
Thừa Dụ lên nắm lấy quyền chính để ngăn chặn cho đất nước An Nam không
rơi vào tình trạng hỗn loạn.
Chính
quyền mà Khúc Thừa Dụ dựng lên chắc chắn là không phải chỉ bắt đầu từ
năm 906 khi chính quyền phương Bắc bị buộc phải công nhận Thừa Dụ có
toàn quyền chính trị trong vùng (Đồng Bình chương sự). Khúc Thừa Dụ chết
vào năm 907, con là Khúc Hạo lên thay cũng xưng là tiết độ sứ. Lúc này
nhà Đường đã mất, nhà Hậu Lương thay thế cũng công nhận Khúc Hạo làm
tiết độ sứ, nhưng một năm sau (908) lại phong cho Lưu Ẩn kiêm nhiệm
"Tĩnh Hải Quân tiết độ, An Nam đô hộ". Mầm xung đột giữa họ Khúc và Nam
Hán đã bắt đầu từ đó.
Khúc
Hạo lên làm tiết độ sứ đã tiến hành một số cải tổ hành chánh. Trước
kia, dưới triều Đường, An Nam đô hộ phủ được chia thành 12 châu, 59
huyện công thêm 41 châu cơ my tức là những nơi có nhiều dân tộc thiểu số
sinh sống chỉ phụ thuộc nhẹ nhàng vào triều Đường. Nhằm xây dựng một
lãnh thổ thống nhất, độc lập tách ra khỏi phạm vi thế lực của chính
quyền phương Bắc, Khúc Hạo chia lại toàn xứ thành các lộ, phủ, châu, xã.
Các lộ, phủ, châu mà Khúc Hạo chia đặt đến nay, ta không rõ là như thé
nào. Theo An Nam Chí Nguyên, Khúc Hạo "đổi các hương thành giáp,
đặt một người quản giáp, một người phó tri giáp coi việc đóng thuế". Ở
xã, Khúc Hạo cũng đặt chức quan, mỗi xã có một người chánh lệnh trưởng
và một người tá lệnh trưởng. Về kinh tế tài chánh, Khúc Hạo đã sửa lại
chế độ điền tô và phú dịch. Sử chép rằng Khúc Hạo "bình quân thuế
ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ tịch ghi rõ họ tên, quê quán giao cho
giáp trưởng trông coi. Chính sự cốt trọng khoan dung, giản dị. Nhân dân
đều được yên vui".
Xem
như vậy ta có thể thấy rằng chính quyền Khúc Hạo đã vươn tới tận địa
vực làng xã, là những vùng từ trước tới nay vẫn còn tự trị chỉ chịu sự
kiềm tỏa bên ngoài của chính quyền trung ương. Chế độ công xã nguyên
thủy thịnh hành từ thời Hùng Vương trong xã hội ta, đến thời Khúc Hạo có
thể nói là đã cáo chung. Những tàn dư của chế độ này, hình thức lang,
đạo, sau này chỉ còn tồn tại trong xã hội Mường mà thôi. Cũng chính dưới
thời Khúc Hạo và con là Khúc Thừa Mỹ, giai cấp địa chủ Việt Nam đã
trưởng thành và trở thành một giai cấp phong kiến. Chế độ điền trang,
nông nô, nô tỳ hoàn thành dưới thời này sẽ trở thành một đặc trưng của
xã hội Việt Nam trong sơ kỳ thời độc lập và chỉ tàn lụi sau khi họ Hồ
thất bại vào thế kỷ thứ 15.
Khúc Thừa Mỹ và cuộc xâm lược của Nam Hán
Khúc
Hạo chết, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay. Vào lúc này, Quảng Châu dưới sự
cai quản của anh em Lưu Ẩn đã mở rộng ra ngoài lãnh thổ Lĩnh Nam Đông
Đạo đầu tiên của mình. Phía đông đánh chiếm vùng Triều Châu và Thiều
Châu, phía Tây mở ra đến đất Dung, Ung, Quế và Quản. Năm 908. Lưu Ẩn tuy
được Lương phong cho làm "Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ" nhưng
thấy thế lực hãy còn chưa đủ không dám mang quân sang xâm lược Việt
Nam. Khúc Hạo cũng biết âm mưu của họ Lưu nên sai con là Khúc Thừa Mỹ
làm "khuyến hiếu sứ" sang ở triều đình Nam Hán để xem xét tình hình hư
thực.
Thừa
Mỹ sau khi sang sứ bên Quảng châu về thay cha làm tiết độ sứ, thấy thế
lực họ Lưu mạnh mẽ e sợ sức mình không đủ chống cự nên sai sứ sang nạp
cống cho triều đình Hậu Lương, hy vọng rằng có thể nhờ sức Hậu Lương mà
ngăn chặn Nam Hán. Tuy nhiên Hậu Luơng thực tế cũng không giúp gì hơn
cho Thừa Mỹ ngoài việc lấy lại chức "Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ" từ trong
tay Lưu Yểm và phong lại cho Thừa Mỹ. Thế lực thật sự ngăn chặn Nam Hán
sang xâm lược Việt Nam là liên minh giữa Thừa Mỹ và Vương Thẩm Trí người
chiếm giữ vùng Phúc Kiến hiện nay. Thẩm Trí và Thừa Mỹ đều quan ngại về
sức mạnh của Nam Hán và vì vậy hai bên kết giao thành một liên minh tạm
thời. Cả hai cũng đều dựa vào Hậu Lương để kiềm chế Nam Hán bành
trướng.
Tuy
nhiên Hậu Lương không phải là một cây cột vững chắc gì để có thể dựa
được. Năm 923, nhà Hậu Lương sụp đổ. Trung Quốc chia làm tám nước cát
cứ, nước nào cũng xưng đế. Tại miền Lĩnh Nam, cha con họ Lưu, nay đã
chiếm toàn bộ lưu vực sông Tây Giang muốn bành trướng thế lực sang An
Nam để lập lại toàn bộ đế quốc cũ của Triệu Đà. Một cuộc chiến giữa họ
Khúc và Nam Hán là không thể nào tránh khỏi.
Nhưng
ngay sau khi Hậu Lương sụp đổ, Nam Hán cũng chưa thể tính đến việc tiến
đánh An Nam được vì còn Vương Thẩm Trí ở Phúc Kiến và còn bị đe dọa của
nước Sở mới thành lập tại Hồ Nam. Năm 928, Nam Hán đánh bại được một
cuộc xâm lược của Sở. Sau đó hai bên thông hiếu, Nam Hán lập con gái của
Sở Vương Mã Ân làm hoàng hậu. Biên thùy phía tây bắc của Nam Hán như
thế là yên.
Cơ
hội cho Nam Hán tấn công An Nam cuối cùng đã đến khi vào năm 929, Vương
Thẩm Trí chết. Trong hai năm 930 và 931, đất nước của Thẩm Trí bị tan
rã vì nội chiến. Nhân cơ hội này, năm 930, Lưu Yểm sai tướng là Lý Thủ
Dung và Lương Khắc Trinh đem quân sang đánh Khúc Thừa Mỹ. Quân Nam Hán
tiến vào Giao Châu, Thừa Mỹ chống cự không nổi bị bắt sống đem về Quảng
Châu. Ngũ Đại Sử chép rằng, "khi Thừa Mỹ bị bắt mang về đến Nam
Hải, Lưu Yểm lên lầu Nghi Phượng nhận tù, nói với Thừa Mỹ rằng : ‘Ông
thường bảo ta là ngụy đình, nay lại bị trói quặt tay lại là làm sao ?’
Thừa Mỹ cúi đầu nhận tội. Yểm bèn tha tội cho".
Sau
khi chiếm được Giao Châu, Lương Khắc Trinh mang quân vào miền nam (Ái,
Hoan) rồi vượt qua Hoành Sơn đánh vào Chiêm Thành cướp rất nhiều báu vật
rồi về. Nam Hán sau đó cử Lý Tiến sang làm thứ sử Giao Châu cùng Khắc
Trinh giữ thành Đại La.
Họ
Khúc đã mang lại cho dân Việt gần một nửa thế kỷ bình yên và thịnh
vượng. Những di tích khảo cổ của thời kỳ này cho thấy văn hóa và kinh tế
đều phát triển. Nhưng là một ốc đảo bình yên đã khiến giới lãnh đạo
Việt Nam thời đó quên việc vũ bị mà chỉ trông cậy vào sự yểm trợ của bên
ngoài. Đó chính là lý do họ Khúc thất bại. Tuy nhiên chính trong giai
đoạn này mà dân tộc tính Việt Nam đã được hình thành với một sự khẳng
định : "Ta không phải là Hán, ta là Việt". Sự khẳng định này sẽ là chủ
đề trong suốt thời kỳ độc lập về sau này.
8.2. Dương Diên Nghệ và Ngô Quyền
Mặc
dầu Nam Hán đã chiếm đuợc An Nam và bắt được Khúc Thừa Mỹ, nhưng chúa
tôi Nam Hán cũng biết rằng họ không đủ sức để kiểm soát được toàn bộ
vùng đất này. Chính chúa Nam Hán Lưu Yểm đã nói với tả hữu rằng "Dân Giao Châu chỉ có thể ràng buộc được mà thôi" (Ngũ Đại Sử - Nam Hán thế gia).
Vì vậy sau khi diệt được họ Khúc, Nam Hán chỉ cử Lý Tiến làm Giao Châu
thứ sử, lo chiếm cứ vùng đồng bằng sông Hồng phì nhiêu và giầu có nhất
của đất Việt mà thôi, còn những vùng khác thì Nam Hán tìm cách chiêu dụ
những quan lại cũ của họ Khúc hoặc những thổ hào địa phương, để cho họ
tự trị, không can thiệp vào. Một trong những người đó là Dương Diên
Nghệ.
Dương
Diên Nghệ xuất thân từ một hào tộc vùng Ái Châu. Sử chép họ Dương nuôi
ba nghìn con nuôi chứng tỏ rằng đây là một thế lực rất mạnh. Từ con nuôi
ở đây được dùng để chỉ những thực khách và có thể quân lính riêng của
họ Dương. Dương Diên Nghệ được họ Khúc trao cho cai trị hai châu Hoan và
Ái. Quan hệ giữa Dương Diên Nghệ và gia đình họ Khúc hiện không được
biết rõ. Có thể Dương Diên Nghệ, cũng như các giới quý tộc cát cứ tại
châu Âu thời Trung Cổ, chỉ công nhận họ Khúc như là một cấp chỉ huy tối
cao, trong khi vẫn giữ quyền tự trị trong khu vực mình. Điều này cũng
thể hiện qua việc, sau khi quân Nam Hán bắt được Khúc Thừa Mỹ rồi, tướng
Nam Hán là Lương Khắc Trinh mang quân qua Ái và Hoan đánh Chiêm Thành,
vào kinh đô của Chiêm, cướp bóc một số bảo vật rồi về. Trong cuộc viễn
chinh này không thấy nhắc nhở gì đến việc đụng độ với quân của Dương
Diên Nghệ.
Để
mua chuộc Dương Diên Nghệ, Nam Hán phong cho Nghệ làm thứ sử Hoan Châu
và Ái Châu hy vọng rằng giữ được sự hợp tác của Nghệ với triều đình Nam
Hán. Khác với Khúc Thừa Mỹ vốn xuất thân từ châu Giao vùng bị Hán hóa
nặng nhất thành ra quá sợ hãi trước thanh thế của phương Bắc, Dương Diên
Nghệ là người Ái Châu vì vậy ít bị Hán hóa hơn và còn gần gũi với văn
hóa và truyền thống cổ truyền của dân Lạc Việt cũ. Không trông đợi vào
một triều đình Hậu Lương ở quá xa và không có thế lực gì để có thể áp
lực được với Nam Hán, Dương Nghệ bắt đầu tuyển mộ và tập hợp một đạo
quân để đánh lấy lại đất nước. Lý Tiến thấy Dương Nghệ chiêu mộ binh
lính, bèn cho người đem tiền của đút lót cho Diên Nghệ để Nghệ giải tán
quân đội, nhưng Nghệ không chịu.
Cuối
năm 931, Dương Diên Nghệ mang quân từ Ái châu ra vây thành Đại La. Hán
chủ biết tin, sai chức thừa chỉ là Trình Bảo mang quân sang tiếp viện
cho bọn Lý Tiến và Lương Khắc Trinh, nhưng Trình Bảo chưa tới nơi thì
Diên Nghệ đã chiếm được thành. Lý Tiến và Lương Khắc Trinh chạy trốn về
Quảng Châu. Trình Bảo đem quân đến Giao Châu, tiến tới thành Đại La.
Diên Nghệ đem quân ra ngoài thành chiến đấu, chém Trình Bảo tại trận
tiền. Thế là chỉ chưa đầy một năm chính quyền thống trị của Nam Hán tại
Giao Châu đã bị lật đổ. Đánh bại xong quân Nam Hán, Dương Diên Nghệ tự
xưng là tiết độ sứ, phân phong các tướng sỹ thân tín trấn trị các châu
trong vùng Tĩnh Hải. Đinh Công Trứ (bố của Đinh Bộ Lĩnh) được coi giữ
Hoan châu ; Ngô Quyền được phong giữ Ái châu và được Dương Diên Nghệ gả
con gái cho. Sử sách không thấy nhắc đến những châu khác như Phong,
Trường hoặc Lục, nhưng có lẽ ngoại trừ Giao Châu mà Dương Diên Nghệ cai
trị trực tiếp và Hoan, Ái là hai nơi mà ông khởi nghiệp, các châu khác
vẫn giao cho các hào tộc địa phương cai trị với một quan hệ tương đối
lỏng lẻo đối với chính quyền trung ương.
Dương
Diên Nghệ cai trị đất An Nam được sáu năm. Tình hình nước ta ra sao
trong thời gian sáu năm đó không thấy được nhắc đến trong các thư tịch
của Trung Quốc cũng như của ta, nhưng căn cứ trên những sự kiện xảy ra
về sau này, ta có thể đoán lúc đó là một thời kỳ rối loạn. Diên Nghệ đã
từ châu Ái ra và đuổi quân Nam Hán về nước, những người đã cộng tác với
Nam Hán chắc hẳn bị trừng trị, hoặc bị giết, hoặc bị tịch thu tài sản,
hoặc lưu đày. Nhưng có thể nói rằng những thành phần có cảm tình với Nam
Hán chiếm một số lượng không nhỏ trong xã hội Việt Nam thời đó, nhất là
trong giới quý tộc của châu Giao. Họ bao gồm những thành phần sỹ phu
Trung Quốc trốn tránh cảnh hỗn loạn tại Trung Nguyên về cuối triều Đường
sang Giao Châu định cư lập nghiệp đến những gia đình hào tộc Hán hóa và
vẫn còn tin tưởng vào một sự phục hồi của đế chế. Những người đó chắc
hẳn đã không phục Dương Diên Nghệ, coi ông là một người nhà quê từ một
vùng biên cương nổi lên đánh cướp lấy chính quyền chính thống của Nam
Hán. Trong thời Dương Diên Nghệ cai trị, chắc hẳn đã có nhiều âm mưu
giết ông để chiếm lấy chính quyền.
Những
âm mưu này cuối cùng đã thành công. Tháng ba năm 937 Dương Diên Nghệ bị
hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiện giết, đoạt chức tiết độ sứ.
Kiều Công Tiện là đại biểu cho các thành phần thân Hán trong xã hội An
Nam thời đó. Kiều Công Tiện giết Dương Diên Nghệ rồi, châu Giao yên
tĩnh, chứng tỏ rằng hầu hết các đại tộc ở đây đều, nếu không ủng hộ Kiều
Công Tiện thì cũng không chống đối ông. Tuy nhiên điều đó không có
nghĩa là đa số dân chúng châu Giao ủng hộ Kiều Công Tiện. Đối đầu trước
đạo quân của Ngô Quyền từ Ái Châu ra, Kiều Công Tiện phải cầu cứu với
Nam Hán chứng tỏ rằng Kiều Công Tiện không động viên được người dân
thường của châu Giao, những người mà phải cầm giáo mang tên ra chiến
trường chiến đấu, ủng hộ cho mình.
Mặc
dầu Dương Diên Nghệ chỉ xuất hiện một cách ngắn ngủi trong lịch sử Việt
Nam nhưng có thể nói ông đã đóng một vai trò rất quan trọng trong xã
hội Lạc Việt thời đó, và mặc dầu ông đã chết, nhưng gia đình ông vẫn
tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong đời sống chính trị nước Việt.
Như chúng ta sẽ thấy ở những phần sau, con ông, Dương Tam Kha sau này
đã tìm cách cai trị nước Việt khi Ngô vương băng hà, một giai đoạn mà
nước Việt đang bị tan rã thành các mảnh vụn, mỗi mảnh do một sứ quân
chiếm đóng. Điều đáng chú ý hơn nữa là trong suốt gần một trăm năm sau
đó, việc lấy con gái họ Dương được coi như là một điều kiện không thể
thiếu cho ngai vàng nước Việt. Ba triều đại thành lập sau khi Dương Diên
Nghệ chết đều lập con gái họ Dương làm hoàng hậu trong đó hai triều
đại, Đinh và Lê, lập cùng một người. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng đối
với dân Việt ở thế kỷ thứ 10, Dương Diên Nghệ là người đã khởi đầu cho
truyền thống độc lập của dân tộc, và vì vậy, một cuộc hôn nhân với họ
Dương là hình thức để chính thống hóa quyền cai trị trước con mắt của
nhân dân.
8.3. Ngô Quyền phá quân Nam Hán
Nghe
tin Dương Diên Nghệ bị giết, Ngô Quyền con rể Dương Diên Nghệ mang quân
từ Ái Châu ra đánh Kiều Công Tiện. Ngô Quyền là người Phong Châu. Thân
phụ ông Ngô Mân từng làm chức huyện lệnh tại vùng này. Phong Châu là
vùng đất tổ của dân Lạc. Hùng Vương đã đóng đô tại đây. Vào cuối thế kỷ
thứ 8, người anh hùng dân tộc Phùng Hưng, Bố Cái Đại Vương cũng xuất
phát từ vùng này. Đây là một vùng mà truyền thống dân tộc Lạc vẫn còn
rất mạnh và nhiều đời sản xuất ra những lãnh tụ trong các cuộc chiến
chống lại phương Bắc. Kiều Công Tiện tuy cũng người đất Phong nhưng có
vẻ đã đi theo đường khác.
Tục
truyền, khi Ngô Quyền sinh ra một luồng hào quang đã xuất hiện bao phủ
khắp người ông và trên lưng ông xuất hiện ba cái nốt ruồi. Những chuyện
đó được coi như là báo hiệu rằng ông sẽ có một sự nghiệp vĩ đại về sau
này, thành ra bố mẹ mới đặt tên là Quyền. Lớn lên ông nổi tiếng khắp nơi
về tài trí, dũng lực và lòng can đảm. Sau Ngô Quyền đi theo Dương Diên
Nghệ. Năm 931 khi Dương Diên Nghệ phá quân Nam Hán ông vừa ba mươi ba
tuổi. Sau khi thành công, Diên Nghệ gả con gái cho ông và giao cho ông
trần thủ Ái Châu. Ái Châu là quê hương và là căn cứ địa của Dương Diên
Nghệ. Việc Ngô Quyền được giao cho trấn thủ đất này là một bằng chứng
cho thấy khả năng cũng như là sự trung thành của Ngô Quyền đối với họ
Dương. Chính vì vậy khi Dương Diên Nghệ bị giết ông bèn mang quân ra
Giao Châu phục thù cho chủ tướng.
Thấy
Ngô Quyền đem quân ra đánh, Kiều Công Tiện vội vã cho người mang của
cải sang đút lót Nam Hán để cầu xin cứu viện. Lúc bấy giờ chúa Nam Hán
là Lưu Yểm vẫn chưa từ bỏ ý định xâm lược nước ta, muốn nhân việc này để
đánh cướp lấy Giao Châu. Lưu Yểm phong con là Lưu Hồng Thao làm Tĩnh
Hải Tiết Độ sứ, tước Giao vương ý muốn sau khi cướp được nước ta thì lấy
châu Giao cho Hồng Thao làm phong ấp, chỉ huy một đạo quân mang tiếng
là giúp Kiều Công Tiện chống lại Ngô Quyền đi đường thủy sang nước ta.
Còn chính Lưu Yểm cũng chỉ huy một đạo quân khác đóng tại Hải Môn trấn
làm hậu bị. Tham chiếm nước ta, Lưu Yểm đã bất chấp cả lời khuyên của
quần thần. Ngũ Đại Sử - Nam Hán thế gia chép :
"Trước
tác tá lang Hầu là Dung khuyên Lưu Yểm thôi binh để cho dân nghỉ ngơi,
Yểm không nghe. Yểm lại hỏi Sùng Văn Sứ Tiến Ích về mưu kế. Ích nói rằng
: "Nay mưa dầm hàng tuần, đường bể hiểm trở xa xôi ; Ngô Quyền lại là
một người kiệt hiệt chớ nên coi thường. Đại quân nên cẩn thận giữ gìn,
dùng nhiều kẻ dẫn đường rồi sau hãy tiến. Lưu Yểm không nghe lời Tiến
Ích cứ cho tiến quân sang gấp. Hồng Thao thống lĩnh thủy quân, đem chiến
thuyền men theo bờ bể Đông Bắc do cửa sông Bạch Đằng tiến vào Giao
Châu".
Khi
thủy quân của Hồng Thao đến Giao Châu thì Ngô Quyền đã giết được Kiều
Công Tiện, làm chủ toàn bộ Giao Châu và sửa soạn chống lại quân Nam Hán.
Chiến lược của Hồng Thao là mang quân vào sông Bạch Đằng đi ngược lên
đến vùng Tiên Du là nơi Nam Hán hy vọng có nhiều thành phần ủng hộ mình
trước khi đổ quân xuống băng qua sông Đuống tiến về thành Đại La.
Nhưng
Ngô Quyền đã đoán trước chiến lược này nên đem quân chặn ngay tại cửa
sông Bạch Đằng. Trước hết ông cho người cắm cọc lớn ở cửa bể, đầu cọc
vót nhọn bọc sắt. Khi nước triều lên, đầu cọc chìm dưới nước không ai
trông thấy. Chỉ khi nước triều xuống cọc mới nổi lên mà thôi. Khi chiến
thuyền của Hồng Thao xuất hiện, Quyền sai những thuyền nhẹ nhân nước
triều lên ra khiêu chiến thủy quân của Hồng Thao rồi giả vờ trốn chạy.
Hồng Thao thúc thủy quân đuổi theo. Khi nước triều xuống, các chiến
thuyền của Nam Hán mắc phải cọc không di động được. Đại quân của Ngô
Quyền đổ ra tấn công. Chiến thuyền của Nam Hán bị đắm rất nhiều, quá nửa
quân giặc bị chết đuối. Hồng Thao cũng bị giết chết. Khi tàn quân Nam
Hán chạy về tới Hải Môn báo tin thất trận Bạch Đằng, Lưu Yểm chúa Nam
Hán khóc lóc thương xót con và thu thập tàn binh rút về Quảng Châu. Nam
Hán không bao giờ giám tấn công Việt Nam nữa.
Truyền thuyết Việt Nam cho chiến thắng sông Bạch Đằng này được nhờ vào sự giúp đỡ của thần linh. Theo Việt Điện U Linh tập,
trong lúc sửa soạn cuộc kháng chiến chống lại quân xâm lược Nam Hán,
Ngô Quyền nằm mộng thấy một ông già tự xưng là Phùng Hưng đến nói tự
mình sẽ dẫn một vạn thần binh đến giúp cho Ngô Quyền chống lại quân Nam
Hán. Khi trận chiến Bạch Đằng xảy ra, theo Việt Điện U Linh tập,
người ta có thể nghe được trên không trung có tiếng ngựa hí người reo.
Với truyền thuyết về trợ giúp của Phùng Hưng, Ngô Quyền đã nối lại được
với truyền thống vương quyền cổ của dân Lạc Việt trước khi bị người Hán
cai trị. Ông đã mở đầu cho một truyền thống vương triều Việt kéo dài đến
mấy trăm năm cho đến khi những thay đổi của thời Hậu Lê mới hết.
Chiến
thắng Bạch Đằng xảy ra vào mùa thu năm 938 và được dân Việt Nam coi như
là một mốc lịch sử trong tiến trình độc lập của dân tộc. Với chiến
thắng này, dân Việt Nam đã chứng tỏ khả năng tự chủ của mình sau hơn một
nghìn năm bị đô hộ bởi các triều đại phong kiến phương Bắc. Kể từ chiến
thắng này về sau, các triều đại Trung Quốc không bao giờ còn có thể cai
trị đất Việt nửa. Một vận hội mới đã mở ra cho dân Việt.
Chương 9 : Nhìn lại một ngàn năm Bắc thuộc : Tại sao dân Việt không bị đồng hóa ?
Kể
từ khi Triệu Đà đánh chiếm nước Âu Lạc vào khoảng năm 179 Trước Công
nguyên cho đến khi Ngô Quyền phá quân Nam Hán trong trận chiến Bạch Đằng
thời Bắc thuộc đã kéo dài 1.117 năm. Trong khoảng trên một ngàn năm
này, tuy có những lúc Việt Nam dành được quyền tự chủ trong một thời
gian nào đó, đặc biệt là vào giai đoạn chót, chính quyền của họ Khúc và
Dương Diên Nghệ đã kéo dài được đến gần một trăm năm, nhưng trong chuỗi
thời gian còn lại, dân tộc Việt chịu sự thống trị trực tiếp và một sức
ép nặng nề của triều đình phương Bắc.
Hầu
hết những dân tộc chịu những áp lực đó, Việt, Ngô, Sở, Nam Chiếu, cho
đến Liêu, Hạ, Thổ Phồn, Hồi Hột, Mông, Mãn đều hoặc là đã bị Hán hóa,
trở thành dân Hán, hoặc nếu còn giữ lại dân tộc tính của mình thì họ
cũng chỉ là những tộc thiểu số trong đất nước Trung Hoa rộng lớn ngày
nay. Chỉ có Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản là những dân tộc độc nhất
chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa mà vẫn còn giữ được bản sắc dân
tộc và độc lập tự chủ của quốc gia mình. Tuy nhiên so với Hàn Quốc và
Nhật Bản, Việt Nam chịu áp lực mạnh hơn nhiều. Hàn Quốc và Nhật chưa bao
giờ chịu sự thống trị của triều đình Trung Hoa, văn hóa Trung Hoa du
nhập vào những nước này có tính gián tiếp và vì vậy được chọn lọc trong
khi Việt Nam không có được cái may mắn đó.
Chúng
ta tự hào rằng đã giữ được bản chất người Việt và giữ được sự tự chủ
cho đất nước của mình, nhưng thiết tưởng cũng nên tìm hiểu xem những yếu
tố gì giữ cho chúng ta không bị đồng hóa thành người Hán.
Rõ
ràng là dân Lạc cổ, tổ tiên của dân tộc ta không muốn trở thành người
Hán. Đó có lẽ là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất khiến cho dân tộc ta
vẫn còn giữ được bản sắc và bảo vệ được tự chủ. So với những tộc người
chung quanh, Trung Quốc dựng nước sớm hơn và trong thời kỳ cổ đại đã đạt
được một nền văn minh cao. Nền văn minh nông nghiệp xuất phát từ nông
nghiệp trồng khô dựa trên vùng đất hoàng thổ của vùng trung du Hoàng Hà
đã phát triển rất mau và ảnh hưởng đến các dân tộc quanh đó.
Hào
quang của nền văn minh này chính là yếu tố hấp dẫn những dân tộc đầu
tiên mà nền văn hóa Hán tộc tiếp xúc khi họ bắt đầu phát triển xuống nam
vào đầu đời Đông Chu. Sở là nước đầu tiên chịu Hán hóa sau đó là đến
Ngô và Việt. Cho đến thế kỷ thứ tư trước Công nguyên, những nước này đã
bị Hán hóa hầu như không còn phân biệt được với vùng Trung Nguyên nữa.
Những khai quật khảo cổ tại vùng Hoa Nam cho thấy ngay từ hậu kỳ của
thời đá mới, miền Nam Trung Quốc hiện nay đã có nhiều di tích mang nặng
ảnh hưởng của miền Trung Nguyên. Sang đến thời đại đồng thau và sắt thì
miền Hoa Nam đã hầu như bị sáp nhập vào văn hóa Hán. Ảnh hưởng của văn
hóa Hán này bắt đầu từ thời Ân, Chu ; các đồ gốm đào được tại vùng Hoa
Nam có niên đại vào thời đó có các loại hoa văn phản ảnh những mô-típ
của trung nguyên như hồi văn, lôi văn, qùy văn, văn chữ mễ, văn ô vuông
vân vân..Các nhà khảo cổ học Trung Quốc, căn cứ vào những khai quật thu
lượm được đã kết luận rằng những tầng văn hóa độc lập với Hán đã mai một
vào khoảng cuối thời Tần Hán tại Hoa Nam. Điều này đã chứng tỏ rằng
ngay trước khi nhà Tần diệt Sở và tấn công vào vùng Bách Việt, những dân
tộc này đã chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa Hán tộc và đang trên đà bị
đồng hóa. Trong khi đó, văn hóa Đông Sơn của dân Lạc đã phát triển độc
lập và tồn tại đến hơn 200 năm sau khi đất nước Âu Lạc bị sáp nhập vào
với Trung Quốc. Điều đó đã chứng tỏ sức mạnh về văn hóa của dân Lạc
trong việc chống lại với áp lực đồng hóa của phương bắc. Ngoài ra, khác
với vùng Hoa Nam, Việt Nam nằm ở biên giới giữa thế giới Trung Hoa và
thế giới Đông Nam Á. Qua việc tiếp xúc với những nền văn minh Chàm và
Khmer, người Lạc Việt đã thấy có những nền văn minh khác với văn minh
Hoa Hạ. Điều này không những đã củng cố thêm cho cá tính riêng của dân
Lạc Việt mà còn giúp giới lãnh đạo xã hội Lạc Việt có một tầm nhìn rộng
rãi hơn không hoàn toàn thần phục vào đế chế phương Bắc.
Tuy
nhiên sức mạnh văn hóa này cũng không giúp tổ tiên chúng ta cưỡng lại
được những áp lực đồng hóa của phương bắc nếu như phải đối phó với một
làn sóng người di cư từ phương Bắc xuống. Trường hợp những người thổ dân
Bắc Mỹ trước những đợt di cư của người da trắng từ châu Âu sang ; hoặc
những người Celt bản xứ tại Anh trước cuộc di cư của những người Anglo
Saxon là những trường hợp điển hình. Tổ tiên chúng ta rất có thể bị đẩy
lên những vùng núi cao để trở thành những dân tộc thiểu số trên chính
đất nước của mình như những người Chuang ở Quảng Tây hiện nay vốn là
giòng dõi các tộc Bách Việt trước đây hoặc là những người Bạch ở Vân Nam
hậu duệ của vương quốc Đại Lý.
Tại
sao những chuyện ấy không xảy ra cho Việt Nam ? Khác với Nam Chiếu ở
Vân Nam, và các quốc gia thiểu số bên lề đế quốc Trung Hoa khác, dân Lạc
Việt ngay từ đầu đã tập trung mạnh mẽ tại các vùng đồng bằng với một
nền kinh tế căn bản dựa trên việc trồng cây lúa nước. Ngoài ra khác với
vùng Ba Thục, quê hương của các dân Ba và dân Thục nay chỉ còn lại một
thiểu số rất nhỏ, vùng đất của dân ta nằm cách xa trung tâm quyền lực và
dân cư của Trung Quốc.
Kiểm
tra nhân hộ khẩu do nhà Hán thực hiện cho thấy dân cư quận Giao Chỉ
đông nhất trong bẩy quận của Giao Châu thời đó, nhiều gấp 7 lần số dân
tại Quảng Đông hiện nay. Bảng kiểm tra nhân hộ khẩu tại Giao Châu dưới
hai thời Tây Hán và Đông Hán dưới đây cho thấy rõ tình hình dân số giữa
Việt Nam hiện nay và vùng Nam Hoa trong thế kỷ thứ nhất và những biến
động trong dân số này do di dân tạo ra :
Quận | Tiền Hán (kiểm tra năm Công nguyên 2) | Hậu Hán (kiểm tra năm Công nguyên140) | ||
Tại Hoa Nam | Hộ | Nhân Khẩu | Hộ | Nhân Khẩu |
Nam Hải | 19.613 | 94.253 | 71.477 | 250.282 |
Thương Ngô | 24.379 | 148.160 | 111.395 | 466.975 |
Uất Lâm | 12.415 | 71.162 | ... | ... |
Hợp Phố | 15.398 | 78.980 | 23.121 | 86.617 |
Tổng cộng | 71.805 | 390.555 | ||
Tại Việt Nam | ||||
Giao Chỉ | 92.440 | 746.237 | ... | .... |
Cửu Chân | 35.743 | 166.013 | 46.513 | 209.894 |
Nhật Nam | 18.263 | 100.676 | ||
Tổng Cộng | 143.643 | 981.755 |
(Số liệu : Hán Thư và Hậu Hán Thư - Quận Quốc Chí)
So
sánh hai cuộc kiểm kê nhân hộ khẩu cách nhau trên một trăm năm trên, ta
có thể thấy ngay mức độ gia tăng dân số tại những quận thuộc vùng Hoa
Nam là dựa trên di dân rất nhiều. Trong vòng trên một trăm năm, số nhân
khẩu tại Nam Hải (khu vực Quảng Châu hiện nay) tăng 2,5 lần trong khi sô
hộ tăng hơn ba lần. Điều này chứng tỏ rằng có một phong trào di cư từ
miền Bắc xuống với số người di cư phần lớn là những hộ trẻ chưa có con
cái hoặc là những người độc thân. Tương tự như vậy, quận Thương Ngô (khu
vực Quế Lâm hiện nay) đã gia tăng số nhân khẩu lên hơn gấp ba, trong
khi số hộ tăng hơn bốn lần. Mặc dầu vậy, so với Giao Chỉ thì ngay cả sau
một trăm năm di dân hai quận Nam Hải và Thương Ngô họp lại vẫn còn ít
dân hơn.
Tại
những quận ở Việt Nam, tuy rằng ta không có con số cho quận Giao Chỉ
trong cuộc kiểm kê năm 140, nhưng dựa vào những số liệu cho các quận
Nhật Nam và Cửu Chân, ta có thể thấy dân số tại hai quận này phần chính
là gia tăng một cách tự nhiên. Coi số liệu cho hai quận Nhật Nam và Cửu
Chân như là tiêu biểu cho toàn thể vùng sinh sống của người Việt, ta
thấy số gia tăng nhân khẩu là 31 phần trăm trong khi số gia tăng hộ khẩu
là 27 phần trăm, Như vậy trái với tại các quận phương bắc, số nhân khẩu
trong một hộ nhiều hơn một chút, phù hợp với việc gia tăng dân số một
cách tự nhiên.
Điều
này không có nghĩa là các quận của Việt Nam không có những người Hán di
cư tới. Tình trạng rối loạn cuối đời Tây Hán trong những năm từ Công
nguyên9 cho đến Công nguyên23 khi Vương Mãng tiếm ngôi nhà Hán đã đẩy
một số đông người Hán từ Bắc chạy xuống Nam. Hầu hết những người này
chắc hẳn định cư tại các quận phương Bắc, nhưng chắc hẳn cũng có một số
di cư xa hơn xuống định cư tại các vùng thuộc Việt Nam hiện nay, nhưng
con số này chắc chắn không đủ lớn để chi phối về văn hóa xã hội dân Lạc.
Hầu hết những người nhập cư này vì vậy dần dà đã bị hấp thụ vào trong
xã hội bản xứ và trở thành "người Nam".
Tiến
trình này tiếp tục diễn ra trong những thế kỷ sau đó, Căn cứ vào những
dữ liệu của các cuộc kiểm tra nhân hộ khẩu của các triều đại sau đó, ta
thấy, nếu vào đời Hán, con số hộ tại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây
hiện nay của Trung Quốc chỉ bằng một nửa số hộ tại Việt Nam thì đến thế
kỷ thứ 4, số hộ tại hai tỉnh này đã hơn gấp rưỡi số hộ tại Việt Nam
(1,68 lần). Sang thế kỷ thứ năm, số hộ tại Lưỡng Quảng đã tăng lên gần
gấp năm lần (4,85 lần) và đến thế kỷ thứ 8 thì hơn gấp năm lần (5,36
lần).
Những
con số này tuy rằng không phản ảnh dân số thực sự tại Việt Nam cũng như
tại Lưỡng Quảng nhưng nó cũng cho thấy sự khác biệt trong áp lực đồng
hóa tại vùng Hoa Nam so với Việt Nam. Nó đã giải thích rõ tại sao sau
này, vùng Hoa Nam đã trở thành một bộ phận cơ bản của lãnh thổ Trung
Quốc. Sang thế kỷ thứ 9 với vùng Hoa Nam bắt đầu được định cư khá dầy
đặc, số lượng người Hoa di cư sang Việt Nam có thể đông hơn, nếu sự
thống trị của các chính quyền phương Bắc vẫn đuợc duy trì trong những
thế kỷ tới ; nhưng đây lại là vào lúc gần cuối thời kỳ cai trị của Trung
Quốc. Dân Việt đã trưởng thành hơn và đã đủ lực lượng để có thể đứng ra
tự chủ.
Yếu
tố thứ ba mà có lẽ không kém phần quan trọng là tiếng nói. Khác với
tiếng nói của những tộc Bách Việt, tiếng Việt thuộc một họ ngôn ngữ hoàn
toàn khác với tiếng Hán. Đặc biệt cấu trúc và văn phạm tiếng Việt khác
xa với cấu trúc và văn phạm tiếng Hán. Chính vì vậy, trong suốt ngàn năm
nội thuộc, mặc dầu bị tiếng Hán xâm nhập, tiếng Việt phải thay đổi để
du nhập những từ ngữ và một số yếu tố Hán khác, nhưng tiếng Hán chưa bao
giờ có thể trở thành thông dụng trong xã hội Việt Nam. Có thể những
tầng lớp quý tộc học nói và sử dụng tiếng Hán cũng như sau này những nhà
quý tộc và tầng lớp trên của xã hội Việt Nam sử dụng tiếng Pháp, nhưng
tiếng Việt vẫn là thứ tiếng của đại đa số quần chúng trong xã hội. Việc
tồn tại của tiếng Việt là một yếu tố rất là quan trọng vì bất kỳ những
gì mà người Hán muốn đưa ra trên phương diện văn hóa để đồng hóa người
Việt đều phải chuyển qua một môi trường mới mà tự nó nó đã làm sai lệch
đi những điều mà người Hán muốn.
Cùng
với tiếng nói là các truyền thống và một ký ức tập thể về những anh
hùng dân tộc. Những câu truyện về bà Trưng, bà Triệu, Triệu Quang Phục,
Phùng Hưng đã hun đúc tinh thần của người dân Lạc Việt trong suốt những
thế kỷ bị đô hộ. Sự tồn tại của dân tộc Việt là một quyết định tập thể
của cả một xã hội, chấp nhận mọi hiểm nguy để làm sao bảo tồn được những
di sản của mình.
Xã
hội Việt Nam khi Ngô Quyền dành được độc lập vào thế kỷ thứ 10 khác hẳn
với xã hội Lạc Việt cách đó một ngàn năm trước khi Triệu Đà chinh phục
nước Âu Lạc. Để có thể tồn tại, người Việt đã phải hiểu rõ nền văn minh
Trung Quốc như thế nào để có thể tùy tiện đối phó. Họ biết Trung Quốc từ
những cái hay cái đẹp nhất cho đến những cái gì tệ hại nhất. Để có thể
tồn tại, họ đã phải Hán hóa học hỏi những thủ đoạn của người Hán để đối
phó với ngưòi Hán. Trong quá trình Hán hóa đó nhiều giá trị tinh thần
cũng như là những nét văn hóa đặc thù của dân tộc đã bị mất đi, nhất là
khi những giá trị đó không cần thiết cho việc đấu tranh để tồn tại.
Nhũng mất mát đó có thể được thấy rõ khi ta so sánh nghệ thuật tạo hình
Đông Sơn với nghệ thuật tạo hình của những thế hệ về sau. Cái vẻ đẹp và
những nét độc đáo trong trống đồng và điêu khắc Đông Sơn đã được thay
thế bởi những hình ảnh tầm thường bắt chước theo các lối hội họa và điêu
khắc của Trung Quốc.
Sau
hơn một ngàn năm Bắc thuộc, xã hội Việt Nam thời Ngô Vương là một xã
hội đã bị Hán hóa rất nhiều. Các vị sư Việt Nam như Ngô Chân Lưu đã có
thể làm thơ đối đáp qua lại với các sứ thần triều Tống. Để đạt đến tình
trạng này, tiến trình Hán hóa của dân Việt đã phải trải qua nhiều giai
đoạn ; mỗi giai đoạn đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình tiến
hóa của xã hội Việt Nam.
Giai
đoạn thứ nhất bắt đầu từ khi Triệu Đà chinh phục nước Âu Lạc cho đến
cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Trong giai đoạn này, sức mạnh của Hán
chưa vươn tới được vùng đồng bằng sông Hồng, nhà Triệu và các vua đầu
đời Tây Hán hầu hết còn dựa vào các tầng lớp cai trị cũ của xã hội Lạc
như các Lạc Hầu, Lạc tướng. Theo Sử Ký và Hán Thư thì chính sách cai trị của Tây Hán là "lấy tục cũ của nó mà cai trị" thành ra có nơi "trưởng lại tuy có đặt, dẫu có cũng như không".
Chiếm cứ đất Âu Lạc, nhà Hán chỉ quan tâm đến những đồ thổ sản quý lạ
và những đồ mà bên Trung Nguyên không có thành ra trong thời gian này,
ngay cả đến lương ăn, tiền bạc vật dụng của bọn quan lại cai trị đều
được chở từ phương Bắc sang. Tuy rằng nhà Tây Hán cũng bắt đầu chính
sách "di dân khẩn thực" ở Giao Chỉ, đưa tù nhân hoặc dân nghèo người Hán
tới ở lẫn lộn với người Việt nhưng con số này còn ít và không ảnh hưởng
đến xã hội của người Việt bao nhiêu mặc dầu một số những khía cạnh của
văn hóa Trung Quốc đã bắt đầu xâm nhập đặc biệt là trong lãnh vực kỹ
thuật. Việc làm đất bằng trâu bò đã bắt đầu phổ biến cùng với các nông
cụ bằng sắt. Truyền thuyết của ta nói rằng ông tổ nghề rèn sắt Việt Nam
là Lư Cao Sơn học được kỹ thuật rèn sắt tại đất Thục (Tứ Xuyên). Thục là
một trung tâm sản xuất sắt quan trọng ở đời Hán. Kỹ thuật gốm cũng phát
triển mạnh thêm với các loại gốm cứng có độ nung cao và có hoa văn
trang sức. Tuy nhiên, sự phân ranh văn hóa và chính trị giữa Việt Nam và
Trung Quốc vẫn còn rõ rệt, và Việt Nam vẫn còn là một phần quan trọng
của một nền văn minh Đông Nam Á, có quan hệ thương mại mật thiết với các
nước tại phương Nam.
Bắt
đầu với các chính sách "khai hóa" của Tích Quang và Nhâm Diên, đặc biệt
là sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, quan hệ Hán Việt bước sang một
giai đoạn mới. Chính sách tích cực đồng hóa khởi đầu với Tích Quang và
Nhâm Diên đã được củng cố thêm qua cuộc chinh phục của Mã Viện. Đất Việt
Nam từ một miền "ngoại địa" của đế quốc Trung Hoa nay được coi như là
một quận cực nam của đế quốc, vùng biên thùy giữa nền văn minh Hán và
các văn minh khác. Trong cuộc đàn áp cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng,
Mã Viện đã giết rất nhiều "cừ súy" tức là những lãnh tụ khởi nghĩa theo
Hai Bà Trưng, phần lớn những người này chắc hẳn là những Lạc tướng cũ.
Và những thành phần quý tộc khác của dân tộc Việt. Sau khi chinh phục
xong Cửu Chân, Viện còn đày hơn 300 "cừ súy" sang Linh Lăng nữa, như vậy
có thể nói, sau cuộc đàn áp của Mã Viện, giai cấp quý tộc cũ của dân
Việt đã suy vi. Những người còn lại gia nhập vào trong một tầng lớp quý
tộc mới : tầng lớp quý tộc Hán Việt mà dần dà về sau đã lãnh đạo đất
nước trong cuộc giải phóng ra khỏi tay đế chế Trung Quốc. Điều này đã
được thấy rõ khi từ đó trở đi sử sách không còn nhắc đến danh hiệu Lạc
tướng nữa. Chế độ Lạc tướng có tính cách thế tập đã bị hủy bỏ.
Sự
sụp đổ của tầng lớp quý tộc Lạc Việt dẫn đến sự thành hình của một tầng
lớp môn phiệt. Đây là giai đoạn mà nho học bắt đầu được đưa vào Việt
Nam và được phổ biến trong các thành phần quý tộc mới. Tuy nhiên song
song với việc truyền bá của Nho học là sự xuất hiện của Phật Giáo. Phật
Giáo đến với Việt Nam thẳng từ Thiên Trúc và như vậy cho một quan điểm
chống lại với văn hóa Trung Quốc. Trái với nho học, Phật Giáo đã đi
thẳng vào đại đa số trong xã hội dân Việt, những huyền thoại về Man
Nương, về Chử Đồng Tử trong Lĩnh Nam Chích Quái là những bằng chứng điển
hình. Giai đoạn này là giai đoạn xảy ra một sự phân ly về văn hóa ngay
chính trong nội bộ xã hội Việt với tầng lớp quý tộc lãnh đạo bị Hán hóa
trong khi đại đa số quần chúng vẫn còn giữ theo những tập quán cổ xưa
của người Việt. Sự kháng cự của dân chúng trước những cố gắng Hán hóa
được nói rõ qua bài biểu của Tiết Tổng trình lên cho Ngô chủ năm 231,
nói rằng không có cách nào để "khai hóa" dân Việt. Tổng viết :
- Dân
chúng sống như cầm thú, họ vấn tóc và đi đất ; thay vì nón mũ thì họ
cắt một miếng vải để che đầu. Quần áo thì cài khuy bên trái (tả nhâm -
một dấu hiệu của man di đối với người Hán).
Sau khi điểm qua những cố gắng của những triều đại trước nhằm Hán hóa dân Việt, Tổng viết :
- Thư
tịch chép các hoạt động khai hóa đã kéo dài tới bốn trăm năm nay nhưng
theo những gì thần nhận thấy kể từ khi đến đây thì sự thật đã không phải
như vậy.
Và
Tổng đưa ra một vài thí dụ cho thấy mặc dầu những cố gắng của quan lại
Trung Quốc, dân chúng Việt vẫn còn giữ lấy những tập quán cổ truyền :
"Tại
Châu Nhai, cứ đến tháng tám các tộc trưởng các tộc họ tập hợp tất cả
các thanh niên nam nữ lại. Con trai, con gái được tự chọn lấy người phối
ngẫu và trở thành vợ chồng ; bố mẹ không có quyền gì can thiệp vào. Tại
Mê Linh ở Giao Chỉ và Đô Long ở Cửu Chân, cứ anh chết thì em lấy chị
đâu. Điều này đã xảy ra từ bao nhiêu đời trở thành một tập quán ăn sâu vào đến nỗi các huyện lệnh đành phải chịu. Tại Nhật Nam, đàn ông đàn bà trần truồng đi ra ngoài không chút hổ thẹn".
Tiết
Tổng viết bài biểu này năm năm sau khi họ Sỹ bị diệt vong. Dưới thời Sỹ
Nhiếp, một cố gắng tìm cách dung hòa hai nền văn minh Nam Bắc đã được
thí nghiệm. Nhưng triều đại của Sỹ Nhiếp quá ngắn không đủ lâu để tạo ra
một tổng hợp mới. Sau khi Sỹ Nhiép chết, các cố gắng lại tiếp tục tìm
cách Hán hóa xã hội Việt. Tuy rằng không hoàn toàn thành công, nhưng
những cố gắng này đã đưa Việt Nam đi sâu thêm vào trong quỹ đạo của nền
văn minh Trung Quốc. Ngoài ra, sự thành lập nhà nước Lâm Ấp thù nghịch ở
phía Nam cũng là động cơ lớn thúc đẩy xã hội Việt Nam đi sâu vào hướng
đó. Tuy nhiên, một bộ phận khá đông dân Việt nhất là tại các vùng biên
duyên, vùng đồi núi ngoài khu vực đồng bằng phì nhiêu, vẫn còn không
chịu sự thúc ép của chính sách Hán hóa.
Họ
trở thành những dân mà thư tịch Trung Quốc gọi là các dân "Ly, Lão" và
dần dà vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chính quyền đô hộ. Cuộc kiểm tra
nhân khẩu thời Tấn cho thấy rõ mức độ tách ra đó. Kiểm tra hộ tịch thời
Tây Hán năm Công nguyên 2 cho thấy số hộ trong ba quận Giao Chỉ, Cửu
Chân và Nhật Nam lên đến 143.643 hộ, thì số hộ đếm được trong cuộc kiểm
tra hộ tịch vào thế kỷ thứ tư của nhà Tấn chỉ còn 25.600 hộ, mất gần năm
phần sáu dân số trong vòng bốn thế kỷ. Một phần sự mất mát này nằm
trong sự phát triển của chế độ môn phiệt, trong đó những người nông nô,
hay nô tỳ của các nhà quyền thế không còn được ghi lại trong danh sách
hộ tịch nữa nhưng một phần lớn nữa là nằm trong việc nhiều vùng đất rộng
lớn trước thuộc quận huyện cai trị trực tiếp của các quan lại thời Hán,
đến thời Tấn đã trở thành các châu cơ mi chỉ chịu sự ràng buộc nộp cống
mà thôi.
Giai
đoạn Hán hóa thứ hai mở đầu với Mã Viện đã kết thúc vào thế kỷ thứ sáu
với cuộc khởi nghĩa của Lý Bí. Chế độ môn phiệt tại Trung Quốc bắt đầu
từ đời Đông Hán để lên tới mức cực thịnh thời Lục Triều đã ảnh hưởng
mạnh đến xã hội Việt Nam. Các tầng lớp quý tộc địa phương, dù gốc Hán
hay gốc Việt đều bị coi như là hàn môn không hề được làm quan tại Trung
Nguyên. Trong khi đó, những đại tộc ở Việt Nam, thâm nhiễm văn hóa Trung
Quốc bắt đầu có ý thức hơn về khả năng và vai trò của họ. Sự suy yếu
của quyền lực Trung Quốc dưới thời các triều Lương và Trần đã cho những
tầng lớp này một cơ hội để làm chủ vận mệnh của mình. Trong khoảng hơn
nửa thế kỷ, đầu tiên dưới Lý Bí, và sau đó dưới Triệu Quang Phục và Lý
Phật Tử, dân tộc Việt đã có thể tự do dưới sự lãnh đạo của các lãnh tụ
của mình tìm cách đưa ra một phương thức tồn tại mới, không những khác
biệt với chính thể và văn hóa phương Bắc, nhưng cũng khác biệt với những
nền văn minh chịu ảnh hưởng Ấn Độ ở phương Nam. Ý thức Việt đã ra đời
và phát triển mạnh trong thời này cùng với sự phát triển của Phật Giáo
như là một ý thức hệ đối kháng với ý thức hệ của Nho giáo. Huyền thoại
móng rùa vàng trong truyện Triệu Quang Phục chính là một trong những cố
gắng để nối lại với truyền thống Lạc Việt thời trước.
Với
nhà Đường, Trung Quốc đi vào một thời đại cực thịnh mới. Với miền Hoa
Nam nay hoàn toàn bị Hán hóa, áp lực của Đường triều vào xã hội Việt Nam
trở thành nặng nề hơn bao giờ hết. Tuy nhiên điều may mắn là đến thời
Đường, dân Việt đã có gần một ngàn năm để làm quen vói những áp lực
phương Bắc, thành ra dân ta đã đủ sức để kháng cự. Mặc dầu vậy, văn hóa
Đường đã để lại những nét sâu đậm trong xã hội Việt Nam. Một phần lớn
những từ ngữ Hán-Việt trong tiếng Việt hiện nay được du nhập vào tiếng
Việt trong thời Đường. Cách dùng những từ này trong tiếng ta là theo lối
Đường chứ không theo tiếng Trung Quốc hiện đại và cách phát âm những từ
này trong tiếng ta cũng là theo cách phát âm của thời Đường chứ không
phải theo cách phát âm hiện đại của người Hoa.
Cũng
trong thời đại này sự phân chia cộng đồng người Lạc cổ thành Việt và
Mường đã hoàn tất với người Mường còn giữ được những nét chính của nền
văn hóa Việt Nam cổ đại trong khi người Việt bị ảnh hưởng sâu đậm của
văn hóa Đường triều. Sự xâm lược của những nước lân bang, từ Chiêm
Thành, Côn Luân cho đến Nam Chiếu mà hầu hết là do những thành phần Lạc
không chịu Hán hóa (Mường) đã cho dân Việt thấy rõ khoảng cách giữa họ
và những tộc lân bang chịu ảnh hưởng của một nền văn minh khác. Một biên
thùy văn hóa mới đã được vạch ra giữa Việt và Mường cũng như giữa Việt
và Chiêm Thành.
Tuy
nhiên ở một mức độ nào đó, một cái lõi căn bản của thời Văn Lang và Âu
Lạc vẫn còn tồn tại giữ cho Việt và Hoa tách biệt. Tiếng nói của dân
Việt vẫn còn tồn tại, mặc dầu nó đã thay đổi và vay mượn rất nhiều những
từ của Hán. Ngoài ra những truyền thuyết và huyền thoại về một quá khứ
xa xăm vẫn được kể lại từ đời này qua đời kia đã là những chỗ dựa vững
chắc giữ cho dân Việt chống lại mọi cố gắng hoàn toàn trở thành Hán.
Cuộc đấu tranh để tồn tại trong thế giới bị chi phối bởi đế quốc Trung
Hoa khổng lồ đã tạo ra trong các tính người Việt hai phản ứng mâu thuẫn
với nhau. Qua những thế kỷ bị trị, người Việt đã thành ra có một phản
ứng bẩm sinh chống lại sự thống trị của người Hán, và mở rộng ra mọi sự
thống trị của ngoại bang. Thời Tấn, chính một trong những tên quan cai
trị vào bậc tốt của Trung Quốc tại Việt Nam, Đào Hoàng, đã phải dâng
biểu nói rằng "người Giao Châu, chán ở yên vui, thích làm họa loạn, rất khó cai trị".
Nhưng ngoài phản ứng đối kháng bẩm sinh ra đó, trong người Việt lại có
một mặc cảm tự ti đối với người Hoa và thông thường vẫn nhìn sang Trung
Quốc hoặc rộng hơn, ra nước ngoài để tìm những chính sách hoặc mô hình
hoạt động. Và hai phản ứng đối nghịch đó vẫn còn tồn tại trong xã hội
Việt Nam cho đến ngày nay.
Niên biểu các triều đại và sự kiện
Triều đại | Sự kiện | Quốc hiệu | Thời gian | Triều đại Trung Quốc |
Kinh dương Vương | Dân Lạc đến vùng đồng bằng sông Hồng | Xích quỷ | 2897 trước Công nguyên (?) | Viêm đế Thần Nông |
Lạc Long Quân | Khai phá đồng bằng sông Hồng | Đế Minh | ||
Hùng Vương |
Phù Đổng thiên vương phá giặc Ấn.
Sơn tinh - Thủy tinh
Văn hóa Đông Sơn
|
Văn Lang | 696 trước Công nguyên ( ?)- 218 trước Công nguyên |
Chu Trang Vương
Tần Thủy Hòang
|
An Dương vương | Mỵ Châu - Trọng Thủy | Âu Lạc | 218-179 trước Công nguyên | Tần thủy Hòang - Sở Hạng Vũ - Hán Cao tổ |
Thuộc nhà Triệu | Nam Việt | 179-111 trước Công nguyên | Hán Văn đế | |
Thuộc Tây Hán | Giao Chỉ | 111 trước Công nguyên - 8 | Hán Vũ đế | |
Thuộc chính quyền Vương Mãng | Giao Chỉ | 9 -23 | Tân - Vương Mãng | |
Thuộc Đông Hán | Giao Chỉ | 25 - 39 | Hán Quang Vũ đế | |
Trưng vương | Mã Viện đem quân tái chinh phục | Mê linh (?) | 40 - 43 | Hán Quang Vũ đế |
Thuộc Đông Hán |
Đạo Phât tới Việt Nam
Khởi nghĩa Khu Liên ở Tượng Lâm - thành lập nước Lâm Âp.
Khởi nghĩa ở Nhật Nam, Cửu Chân.
Khởi nghĩa Chu Đạt ở Cư Phong. Khởi nghĩa binh sỹ Giao chỉ
|
Giao Chỉ |
~ 100
137
144
160 - 181
|
Hán Minh đế
Hán Thuận đế
Hán Thuận đế
Hán Hoàn đế - Hán Linh đế
|
Thuộc Ngô |
Khởi nghĩa ở Giao chỉ - Cửu Chân
Khởi nghĩa bà Triệu
|
Giao Châu
|
210
248
|
Hán Hiến đế
Ngô đại đế (Tôn Quyền)
|
Thuộc Ngụy | 263 | Ngụy Nguyên đế | ||
Thuộc Tấn | 265 | Tấn Vũ đế | ||
Thuộc Ngô | 265 | Ngô quy mệnh hầu | ||
Thuộc Tấn | 280 | Tấn Vũ đế | ||
Khởi nghĩa Lý Thoát | 411 | Tấn An đế | ||
Thuộc Tống | 240 | Tấn Cung đế - Tống Vũ đế | ||
Khởi nghĩa Lý Trường Nhân | 468 | Tống Minh đế | ||
Thuộc Tề | Khởi nghĩa Lý Thúc Hiến | 479 | Tống Thuận đế - Tề Cao đế | |
Thuộc Lương | 505 | Lương Vũ đế | ||
Khởi nghĩa Lý Bí | 542 | Lương Vũ đế | ||
Nhà Tiền Lý | Vạn Xuân | 544-548 | Lương Vũ đế | |
Thuộc Lương | 548 | Lương Vũ đế | ||
Hậu Lý Nam đế ( ?) | Lý Xuân - Lý Phật tử | 557-590 | Trần Vũ đế | |
Tì Ni đa lưu chi thành lập pháiThiền đầu tiên tại Việt Nam | 580 | |||
Thuộc Tùy | Giao Châu | 590 | Tùy Văn đế | |
Thuộc Đường | An Nam đô hộ phủ | 618 | Đường Cao tổ | |
Khởi nghĩa Lý tự Tiên | 687 | Đường Trung tông | ||
Khởi nghĩa Mai thúc Loan | 722 | Đường Huyền tông | ||
Khởi nghĩa Phùng Hưng | 791 | Đường Đức tông | ||
Khởi nghĩa Dương Thanh | 819 | Đường Duệ tông | ||
Cao Biền phá quân Nam Chiếu | 858 - 864 | Đường Tuyên tông | ||
Họ Khúc dấy nghiệp | Khúc thừa Dụ - Khúc Hạo - Khúc Thừa Mỹ lên làm tiết độ sứ | 905 - 930 | Đường Chiêu tuyên đế - Lương Thái tổ - Lương mạt đế | |
Nam Hán bắt Khúc Thừa Mỹ | 930 | Lương mạt đế | ||
Dương Diên Nghệ | Dương Diên Nghệ phá quân Nam Hán | 931 - 937 | Đường Minh tông | |
Kiều công Tiện | Kiều công Tiện giết Dương Diên Nghệ lên làm tiết độ sứ | 937 -938 | Tấn Cao tổ | |
Ngô vương Quyền | 939 - 944 | Tấn Cao tổ | ||
Ngô Quyền phá quân Nam Hán | 939 | Tấn Cao tổ | ||
Dương bình Vương | Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô | 945 -950 | Tấn xuất đế | |
Ngô Nam tấn vương | Ngô Xương Ngập phế Dương Tam Kha | 951 -965 | Chu Thái tổ | |
Thập nhị sứ quân | 966 -967 | Tống Thái tổ | ||
Đinh Tiên hoàng | 968 - 979 | Tống Thái tổ |
********************
Tài liệu tham khảo :
A. Tài liệu gốc :
I. Sách Hán :
1. Các bộ sử trong Nhị thập tứ sử của các triều đại Trung Quốc bao gồm :
- Sử Ký
- Hán Thư
- Hậu Hán Thư
- Tam Quốc Chí
- Tấn Thư
- Tống Thư
- Nam Tề Thư
- Lương Thư
- Trần Thư
- Tùy Thư
- Cựu Đường Thư
- Tân Đường Thư
- Ngũ Đại Sử Ký
2. Các sách khác :
- Toàn Đường thi
- Toàn Đường văn
- Cao Hùng Trưng An Nam Chí Nguyên trong Collection des textes et Documents sur l’Indochine, Ecole francaise d’Extrême Orient Vol.1, Hanoi, 1912
- Hoa Dương Quốc Chí, Thượng Hải 1922
- Thủy Kinh Chú, Thượng Hải 1922
- Tư Mã Quang Tự Trị Thông Giám Đài Bắc 1970
- Thái Bình Hoàn Vũ Ký Đài Bắc 1963
- Thái Bình Quảng Ký Bắc Kinh 1984
II. Sách Việt
Lê Tắc An Nam chí lược, Huế 1961
Trần thế Pháp Lĩnh Nam Chích Quái, Sài Gòn 1961
Lý Tế Xuyên Việt Điện U Linh tập, Sài Gòn 1960
Khuyết danh Đại Việt sử lược trong Thủ Sơn Các Tùng Thư, Đài Bắc 1968
B. Các tài liệu khác :
I. Sách chữ Việt :
- Hùng Vương dựng nước tập 1-4 Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1970
- Trần Quốc Vượng - Hà văn Tấn Lịch sử chế độ phong kiến tại Việt Nam Tập 1. Hà Nội Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1963
- Đào Duy Anh Lịch sử Việt Nam, Hà Nội 1955
- Đại Việt Sử Ký toàn thư tập 1. Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1993
- Trần Trọng Kim Việt Nam sử lược Trung Tâm Học liệu Bộ Giáo Dục, Sài Gòn 1971
II. Sách ngoại quốc
- R.B. Smith & W.Watson Early Southeast Asia, Oxford University Press London 1979
- Keith W. Taylor The Birth of Vietnam University of California Press, Berkeley, CA, 1983
- Lê Thành Khôi Le Vietnam, son histoire, sa civilisation Paris 1955
- G. Maspéro Le Royaume de Champa Paris 1928
- P. Gourou Les paysans du delta tonkinois, Paris 1936
III. Tập san và Tạp chí
- Đông dương tạp chí
- Nam Phong tạp chí
- Nghiên cứu lịch sử
- Tập san Văn sử Địa
- Tập san Khảo Cổ học
- Bulletin de l’Ecole francaise d’Extrême Orient (BEFEO)
- Bulletin de la Société de l’Etude indochinoises
- Journal of Southeast Asian Studies
**********************