Vì sao tâm lý chống Trung Quốc rất mạnh nơi người Việt Nam? (Mai Vân)
TQ là nước lớn nhưng không thu phục được tình cảm của các nước láng giềng vì bản chất đại Hán và nước lớn. Người VN không ghét người TQ mà chỉ ghét chính quyền TQ.
Mới
đây, vào thượng tuần tháng 7/2018, biểu tình chống dự luật Đặc Khu đã
đồng loạt nổ ra nhiều nơi tại Việt Nam, với những khẩu hiệu chống Trung
Quốc xuất hiện rộng khắp, bất chấp việc chính quyền liên tục biện minh
rằng từ Trung Quốc không hề có trong dự luật. Trong một bài phân tích
công bố ngày 07/07/2018, giáo sư Carl Thayer, chuyên gia kỳ cựu về Việt
Nam tại Học Viện Quốc Phòng Úc (Đại học New South Wales), đã điểm qua
một loạt nhân tố tạo nên tâm lý chống Trung Quốc rất mạnh nơi người Việt
Nam ngày nay.
Theo
giáo sư Thayer, ngoài các nhân tố khách quan mang tính chất địa lý lịch
sử, một loạt động thái chèn ép của Trung Quốc đối với Việt Nam trong
thời kỳ hiên đại cũng duy trì tâm lý ghét Trung Quốc nơi người Việt Nam,
từ việc không muốn Việt Nam thống nhất sau khi chiến tranh kết thúc,
ủng hộ Khơme Đỏ đánh phá Việt Nam, trực tiếp xua quân đánh vào miền Bắc
năm 1979, cho đến tranh chấp Biển Đông, đánh Việt Nam giành đảo, đem
giàn khoan vào khiêu khích trong vùng thềm lục địa của Việt Nam, gây sức
ép cấm Việt Nam khoan dầu trong khu vực mà Bắc Kinh cho là của Trung
Quốc…
Trong bài phân tích, giáo sư Carl Thayer trước tiên nhắc lại :
Tôi
đã từng viết một bài với tựa đề "Sự khắc nghiệt của địa lý : Chiến lược
của Việt Nam đề ngăn chặn Trung Quốc ở Biển Đông" để mô tả quan hệ Việt
Nam - Trung Quốc. Tôi đã chơi chữ dựa theo tựa đề một quyển sách về
lịch sử Úc của Geoffrey Blainey "Sự khắc nghiệt của khoảng cách". Tác
giả muốn nói – đây là tôi nói thay ông ấy - là Úc sẽ dễ chịu hơn nếu là
một lục địa ở giữa Đại Tây Dương, giữa Anh Quốc và Hoa Kỳ, giữa tuyến
đường vòng quanh trên thế giới từ đất mẹ Anh Quốc. Đấy là tôi chơi chữ
với ngụ ý châm biếm.
Việt
Nam có đường biên giới chung với Trung Quốc, nhưng dân số của Việt Nam
chỉ ở tầm cỡ một tỉnh trung bình của Trung Quốc. Như Brantly Womack từng
viết, đó là một quan hệ thật bất cân xứng. Việt Nam đã phải rất cảnh
giác, đến mức bị ám ảnh, trước những gì Trung Quốc nói và làm, trong khi
Trung Quốc có những lợi ích lớn hơn nhiều.
Một
học giả Việt Nam đã có lần nhẹ nhàng chỉ trích tôi về tựa của bài viết
vì soi rọi quan hệ Việt-Trung một cách tiêu cực. Ông lập luận rằng có
một khía cạnh tích cực trong việc Việt Nam ở gần Trung Quốc. Việt Nam đã
rút tỉa được cái hay trong văn hóa, ngôn ngữ Trung Quốc và điều này đã
giúp cho việc hình thành nhà nước Việt Nam.
Giáo sư Thayer đã ghi nhận quá trình chống Trung Quốc xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam, từ thời Hai Bà Trưng cho đến gần đây :
Sử
sách đã ghi nhận là nhiều triều đại Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam ít
nhất là 11 lần. Việt Nam đã thành công trong việc đánh bật kẻ xâm lược.
Chuyện Hai Bà Trưng chống lại Trung Quốc đã trở thành huyền thoại của
Việt Nam qua bao nhiêu thế hệ. Dù không thành công, nhưng Hai Bà Trưng
đã cho thấy tình thần bất khuất của người Việt Nam, muốn độc lập và
chống lại sự xâm lược của ngoại bang.
Tất
cả người Việt Nam ngày nay đều biết về lịch sử các mối quan hệ giữa
Việt Nam với các triều đại Trung Quốc, và đó là nền tảng cơ bản của tâm
lý bài Trung Quốc ngày nay.
Đối với giáo sư Thayer, cách giải thích đó chưa đầy đủ :
Người
Việt Nam có cảm nhận là Trung Quốc đã bán rẻ ước nguyện thống nhất của
Việt Nam vào đầu thập niên 1970. Trung Quốc tìm hỗ trợ của Mỹ để chống
lại "chủ nghĩa đế quốc xã hội chủ nghĩa" của Liên Xô và đã khuyên Việt
Nam đặt việc thống nhất đất nước là một mục tiêu lâu dài, giống như
trường hợp của Trung Quốc đối với Đài Loan. Và ngay tháng Giêng 1973,
khi Hiệp Định Paris về chấm dứt cuộc chiến và vãn hồi hòa bình ở Việt
Nam dược ký kết, Trung Quốc đã giảm ngay trợ giúp quân sự cho Việt Nam.
Việt Nam đã phải dựa vào hỗ trợ quân sự của Liên Xô để thống nhất đất
nước khi lệnh ngưng bắn trong Hiệp Định Paris bị phá vỡ.
Ít
lâu sau khi chiến tranh với Mỹ kết thúc, Việt Nam lại phải đối phó với
mối đe dọa Khờme Đỏ được Trung Quốc hậu thuẫn. Lực lượng này đã nhiều
lần tràn qua Việt Nam, tàn sát nhiều dân làng Việt Nam. Việt Nam thoạt
đầu đã trả đũa bằng một số chiến dịch đột kích qua biên giới, nhưng sau
cùng đã mất kiên nhẫn và tràn qua chiếm đóng Cam Bốt trong một thập
niên. Các lãnh đạo Việt Nam mà tôi có dịp phỏng vấn vào năm 1981, đã
giải thích là chiến lược của Trung Quốc là muốn Việt Nam sa lầy ở Cam
Bốt và bị kiệt quệ.
Từ
tháng Giêng đến tháng 3/1979, Trung Quốc trả đũa bằng cách đưa quân
đánh chiếm vùng phía bắc của Việt Nam với lý do bình định vùng biên giới
và "dậy cho Việt Nam một bài học". Tranh chấp biên giới Trung Quốc Việt
Nam kéo dài cho đến năm 1987. Hai năm sau thì Việt Nam ổn định tình
hình Cam Bốt, rút quân khỏi nước láng giềng.
Biển Đông trở thành điểm nóng, dân chúng biểu tình chống Trung Quốc
Quan
hệ Việt Nam Trung Quốc được bình thường hóa vào tháng 11/1991. Một năm
sau đó, Trung Quốc thông qua một đạo luật tuyên bố chủ quyền trên Biển
Đông bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều đó lại đẩy Bắc
Kinh vào thế tranh chấp với Hà Nội.
Bối
cảnh là Trung Quốc đã có kế hoạch trước, tấn công vào lực lượng của
Việt Nam Cộng Hòa ở Hoàng Sa (để chiếm toàn bộ quần đảo này) vào tháng
Giêng năm 1974, và sau đó lại tấn công vào quân đội của nước Việt Nam
thống nhất ở Gạc Ma (Johnson Reef – quần đảo Trường Sa) vào tháng
3/1988.
Cuộc
biểu tình công khai chống Trung Quốc đầu tiên diễn ra tại Hà Nội vào
cuối năm 2007 sau khi có tin tức được loan truyền là quy chế thị trấn
Tam Sa (Sansha) trên đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa
đã được nâng lên thành địa cấp thị (thành phố cấp địa khu). Một năm sau,
các cuộc biểu tình chống Trung Quốc lại diễn ra khi các vận động viên
rước đuốc Olympic Bắc Kinh trên khắp lãnh thổ Việt Nam.
Biển
Đông đã nổi lên thành điểm nóng ở Việt Nam vào năm 2009 khi các quốc
gia ven biển đến hạn đệ trình lên Liên Hiệp Quốc các đề xuất kéo dài
thềm lục địa của mình. Việt Nam và Malaysia đã có một đề nghị chung, và
Việt Nam cũng đồng thời đưa ra một đề nghị riêng. Trung Quốc, lần đầu
tiên, đã công bố bản đồ 9 đường gián đoạn để yêu sách toàn bộ Biển Đông.
Điều đó dẫn đến các vụ va chạm trên biển thường xuyên trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) khi Trung Quốc tìm cách ngăn không cho
Việt Nam thăm dò dầu khí.
Trung
Quốc cũng áp dụng các biện pháp thô bạo đối với ngư dân Việt Nam trong
vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa, tịch thu cá họ đánh bắt được,
tước đoạt các thiết bị vô tuyến điện, các công cụ hải hành và mọi tài
sản có giá trị. Nhiều ngư dân Việt Nam đã bị Trung Quốc bắt giữ (thực ra
là bị bắt làm con tin) để đòi tiền chuộc.
Năm
2013, Việt Nam đã hủy bỏ chính sách có từ trước đó là xem Trung Quốc là
môt nước xã hội chủ nghĩa thân hữu. Hiện nay, Việt Nam đánh giá quan hệ
với Trung Quốc trên lợi ích quốc gia chứ không còn là trên cơ sở ý thức
hệ. Việt Nam đã thông qua một chiến lược vừa hợp tác và vừa đấu tranh
với Trung Quốc. Các hạn chế trên các phương tiện truyền thông đã được
nới lỏng để cho phép một cái nhìn ít tô hồng hơn về người hàng xóm
phương bắc.
Bước ngoặt của vụ giàn khoan HD-981
Một
bước ngoặt xuất hiện vào năm 2014 khi Trung Quốc mang một giàn khoan
dầu khổng lồ vào cắm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, kèm theo
một hạm đội gồm 100 con tàu đủ loại, bao gồm tàu chiến, tàu hải giám,
tàu kéo và tàu đánh cá có vũ trang. Nhiều chiếc đã cố ý đâm vào tàu Việt
Nam và dùng vòi rồng công suất mạnh tấn công tàu Việt Nam.
Sự
cố này đã làm dấy lên những cuộc biểu tình chống Trung Quốc khắp nơi ở
Việt Nam, với một số vụ biến thành bạo động làm người Trung Quốc tử
vong. Ở đỉnh điểm cuộc khủng hoảng đó, một nhóm cán bộ hồi hưu đã lưu
hành một bản kiến nghị kêu gọi Việt Nam "thoát khỏi quỹ đạo của Trung
Quốc".
Thế
hệ trẻ Việt Nam hiện nay xem hành vi xâm lăng của Trung Quốc ở Biển
Đông là một mối đe dọa trên sự tồn tại của chủ quyền Việt Nam. Việc
Trung Quốc xây dựng và quân sự hoá 7 hòn đảo nhân tạo ở quần đảo Trường
Sa gần các thực thể do Việt Nam kiểm soát được xem như là bằng chứng về
mối đe dọa này.
Tâm
lý chống Trung Quốc còn dựa trên suy nghĩ cho rằng chế độ hiện tại
không tích cực bảo vệ sự toàn vẹn và chủ quyền lãnh thổ của đất nước.
Chính quyền Việt Nam có thể là đã chiến thắng trước tòa án công luận thế
giới vào năm 2014, nhưng sau đó lại lùi bước trước áp lực của Trung
Quốc trong hai năm 2017 và 2018, khi đình chỉ thăm dò dầu khí trong vùng
biển quanh Bãi Tư Chính (Vanguard Bank).
Những yếu tố khác
Nếu
thêm vào "nồi súp Biển Đông" các gia vị khác như là chính sách Trung
Quốc sử dụng lao động Trung Quốc trong các dự án viện trợ và phát triển ở
Việt Nam, và nghi vấn rộng khắp về sự thông đồng giữa các doanh nhân
Trung Quốc với giới lãnh đạo Việt Nam ở địa phương và trung ương, ta sẽ
có một hợp chất bài Trung Quốc tai hại.
Điều
đó đã được thấy rõ qua các cuộc biểu tình khắp nơi chống lại dự luật
Đặc Khu Hành Chính và Kinh Tế trong tháng này. Trên cơ sở an ninh quốc
gia, những người biểu tình phản đối hợp đồng cho thuê trong 99 năm đối
với các doanh nghiệp Trung Quốc.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 27/07/2018