Sông Mekong đang sống những ngày cuối cùng của nền văn minh lúa nước? (Trọng Thành)
Nếu
vẫn tiếp tục xây dựng các đập thủy điện, đồng bằng sông Cửu Long sẽ gia
tăng sạt lở, hiện nay đang sạt lở dữ dội rồi (3). Có thể đến cuối thế
kỷ thì 50% diện tích đồng bằng sông Cửu Long sẽ biến mất khỏi bản đồ do
sạt lở. Tác động đối với đồng bằng sông Cửu Long có thể dẫn đến những
bất ổn về xã hội, do đó điều này nên được xem như một vấn đề an ninh phi
truyền thống của khu vực, trong đó ASEAN và cộng đồng quốc tế nên quan
tâm.
Hội
nghị thượng đỉnh hợp tác tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS-Greater Mekong
Subregion) lần thứ 6 tại Hà Nội vừa khai mạc ngày 29/03/2018, sẽ diễn ra
đến ngày 31/3. Chính phủ Việt Nam coi đây là một sự kiện ngoại giao
"quan trọng hàng đầu", cho phép mở rộng hợp tác giữa các nước trong tiểu
vùng.
Mekong,
"dòng sông mẹ" của dân cư Đông Nam Á lục địa, được hy vọng trở thành
cầu nối cho hợp tác và phát triển bền vững của khu vực. Tuy nhiên, kế
hoạch xây hơn 100 đập thủy điện trên dòng sông trong đó có 11 đập trên
dòng chính, cộng với các đập khổng lồ đã có tại Trung Quốc, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nguồn nước, nguồn cá, nguồn phù sa… đe dọa tương lai
của hạ lưu.
Đập
thủy điện trên thượng nguồn khiến phù sa ít về đến đồng bằng Cửu Long,
là một nguyên nhân gây sụt lở, nước mặn thâm nhập. Bản đồ các vùng nhiễm
mặn tại đồng bằng Cửu Long - Mekong - DR
Một
số nghiên cứu mới đây tái khẳng định viễn cảnh đen tối này. Phát triển
thủy điện trên Mekong có thể mang lại chút ít lợi nhuận, nhưng tổn hại
là khôn lường. Tiếng nói của các nhà khoa học, giới bảo vệ môi trường,
sau một thời gian bị gạt sang lề, dường như đang dần được giới cầm quyền
lắng nghe.
Đánh giá quá cao lợi nhuận do thủy điện
RFI
xin giới thiệu trước hết các nhận định của nhà báo Tom Fawthrop, người
gắn bó từ 30 năm nay với vùng Đông Nam Á. Trong bài viết, được đăng tải
trên trang mạng của viện tư vấn Lowy, nhà báo Anh nhấn mạnh đến nghiên
cứu "tiên phong" của một ê-kíp quốc tế, đặt cơ sở tại Trung tâm nghiên
cứu về quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường (NREM-Natural
Resource Ecology and Management), ở Đại học Mae Fah Luang, Chiang Rai,
Thái Lan.
Hồi 2011, Ủy hội sông Mekong (MRC-Mekong River Commission)
- cơ quan tư vấn liên chính phủ của bốn nước hạ nguồn Mekong, gồm Việt
Nam, Lào, Cam Bốt và Thái Lan – đã đưa ra con số lợi nhuận hơn 30 tỉ đô
la, thu được từ các đập thủy điện, với 11 con đập được xây dựng. Theo
nghiên cứu của nhóm Đại học ở Chiang Rai, Thái Lan, thiệt hại tổng hợp
do mất nguồn cá, phù sa, và các tác động xã hội khác, là "cao hơn nhiều
so với lợi nhuận từ thủy điện".
Trong
khi đó nghiên cứu về "Đánh giá hệ quả kinh tế của các dự án đập thủy
điện tại vùng hạ lưu sông Mekong", được ê-kíp NREM (thuộc Đại học Mae
Fah Luang, Chiang Rai, Thái Lan) tiến hành hồi năm ngoái, cập nhập đầu
năm nay, cho thấy thiệt hại tổng thể về kinh tế cho 50 năm tới, nếu toàn
bộ 11 dự án đập hoàn tất và đi vào hoạt động, là hơn 7 tỉ đô la (tức âm
7 tỉ đô la so với dự kiến lãi hơn 30 tỉ). Nhà kinh tế Anh David Wood,
một trong các thành viên của nhóm nghiên cứu, phê phán các nghiên cứu
tiền khả thi của Ủy hội sông Mekong (MRC-Mekong River Commission), là đã
dựa trên "nhiều giả thuyết sai lầm" và đã "đánh giá thấp (các hậu quả),
trong khi lại đánh giá quá cao thu nhập từ bán điện do các đập sản xuất
ra" (1).
Tuy
nhiên, từ đó, Ủy hội sông Mekong đã có một số thay đổi trong đánh giá
tác động. Năm 2016, Ủy hội sông Mekong đã công bố một nghiên cứu khác,
điều chỉnh lại các tính toán, theo đó lượng cá sông tự nhiên đánh bắt
tại bốn nước Mekong trị giá 11 tỉ đô la. Cam Bốt có nguy cơ là nước bị
thiệt hại nặng nhất về mặt này, bởi cá là 80% nguồn protein hàng năm của
người dân xứ Chùa tháp, trị giá tới 12% GDP nước này.
Theo
nhà báo Tom Fawthrop, Ủy hội sông Mekong đã tiếp tục có một số tiếp thu
trong báo cáo đánh giá tác động mới, được công bố hồi tháng 2/2018. Báo
cáo rất được trông đợi này cho thấy dường như Ủy hội sông Mekong đang
dần dần hướng đến thừa nhận "các hệ quả thảm khốc" của các đập thủy
điện, và dường như đang trên đường đi đến chỗ khẳng định các đánh giá
lạc quan trước đây là sai lầm. Điều phối viên nghiên cứu của MRC, ông
Suthy Heng, cho nhà báo Anh biết đã bổ sung thêm hai kết quả nghiên cứu
mới vào điều tra của Ủy Hội, do nhiều ưu điểm "về phương pháp luận" cũng
như "về dữ liệu".
Cần tính đủ các "dịch vụ sinh thái"
Nhà
báo Tom Fawthrop nhấn mạnh đến tầm quan trọng của phương pháp luận
"dịch vụ sinh thái" có thể dẫn đến những thay đổi có tính quyết định
trong việc đánh giá tác động của các đập thủy điện đến hạ lưu.
Trước
đây trong các tranh luận về hệ quả của đập thủy điện, trong giới chuyên
gia, người ta rất ít thừa nhận rằng, ngoài nguồn lợi về cá, dòng sông
có thể mang lại "nhiều dịch vụ sinh thái" khác, như về chất lượng y tế,
về phương tiện vận tải, du lịch, về môi trường thiên nhiên… Nghiên cứu
về "các dịch vụ sinh thái" là một nhánh còn tương đối mới của khoa kinh
tế học.
Nhà
báo Tom Fawthrop nhấn mạnh là việc áp dụng tiếp cận "dịch vụ sinh
thái", tính đến các lợi ích sâu xa và nhiều mặt của dòng Mekong, cho
phép mở ra một hướng đi mới, thách thức lập trường kinh tế và chính sách
"chủ lưu", có khuynh hướng "chật hẹp" hiện nay.
Theo
một chuyên gia về đập thủy điện trên dòng Mekong, ông Apisom
Intralawan, thì cho dù các nghiên cứu theo quan điểm "dịch vụ sinh thái"
có thể còn thiếu dữ liệu chính xác, thế nhưng có một thái độ "thận
trọng" trong đánh giá chắc chắn "vẫn tốt hơn nhiều" so với thái độ coi
giá trị dịch vụ của dòng sông chỉ là số không. Mà trong khi chưa tính
hết được các thiệt hại (2), thì quan điểm nên dừng lại để chờ đợi vẫn là
khôn ngoan, sáng suốt hơn cả. Không đợi đến lúc mất bò mới lo làm
chuồng.
Bên
cạnh tiếp cận dịch vụ sinh thái, một nhân tố mới cũng đang khiến vấn đề
thủy điện và môi trường Mekong có thể có những diễn biến đột phá trong
thời gian tới. Đó là xu hướng các nguồn năng lượng tái tạo đang ngày
càng trở nên phổ cập, bởi giá rẻ, dễ vận hành, có thể không xa sẽ
là nguồn thay thế cho thủy điện. Đình hoãn các đập thủy điện là chính
sách "ít mạo hiểm nhất" và "con đường duy nhất" để bảo vệ nghề cá và đời
sống cư dân hạ lưu, nhà báo Tom Fawthrop kết luận.
Điện mặt trời hạ giá đẩy thủy điện vào thua lỗ
Về
ý tưởng này, trả lời RFI, nhà nghiên cứu độc lập về môi trường Nguyễn
Hữu Thiện (Cần Thơ) giải thích thêm, ông đồng thời đặc biệt nhấn mạnh
đến góc độ thiệt hại về phù sa do thủy điện đe dọa sự sống còn của đồng
bằng Cửu Long, đến ổn định xã hội tại khu vực đầu tầu kinh tế của Việt
Nam :
"Gần
đây vào tháng 2/2018 chúng ta đều biết là Thái Lan đã tạm hoãn hợp đồng
mua điện từ đập Pak Beng để rà soát lại Quy hoạch điện của Thái Lan.
Kết quả chưa biết thế nào, nhưng nếu Thái Lan mà không mua điện từ các
đập của Lào, thì các đập này khó mà xây dựng được thêm nữa, vì không có
thị trường bán điện.
Trong
tình hình năng lượng mặt trời đang trở thành xu hướng trên thế giới
hiện nay, thì giá thành giảm rất nhanh và công nghệ để lưu trữ năng
lượng mặt trời và hòa vào mạng lưới đã có, tôi cho rằng chỉ trong vòng
5-10 năm nữa thì thủy điện sẽ không thể cạnh tranh được. Do đó, nếu các
đập thủy điện vẫn được xây dựng, thì các nhà đầu tư sẽ thua lỗ và bỏ
chạy, nhưng khi đó thì dòng sông Mekong và đời sống hàng chục triệu
người đã bị hủy hoại rồi, sẽ rất đáng tiếc.
Đẩy mạnh điện mặt trời, điện gió để cứu đồng bằng Cửu Long
Các
chính phủ trong vùng Mekong vì vậy nên nghiêm túc xem xét việc đầu tư
vào phát triển năng lượng mặt trời và điện gió trong vùng này để thay
thế cho thủy điện.
Một trạm điện gió ven biển tỉnh Bạc Liêu, đồng bằng Cửu Long, Việt Nam. Ảnh chụp màn hình
Nếu
vẫn tiếp tục xây dựng các đập thủy điện, đồng bằng sông Cửu Long sẽ gia
tăng sạt lở, hiện nay đang sạt lở dữ dội rồi (3). Có thể đến cuối thế
kỷ thì 50% diện tích đồng bằng sông Cửu Long sẽ biến mất khỏi bản đồ do
sạt lở. Tác động đối với đồng bằng sông Cửu Long có thể dẫn đến những
bất ổn về xã hội, do đó điều này nên được xem như một vấn đề an ninh phi
truyền thống của khu vực, trong đó ASEAN và cộng đồng quốc tế nên quan
tâm. Các quốc gia phát triển là đối tác của khu vực Mekong và các định
chế tài chính quốc tế như Ngân Hàng Thế Giới, Ngân Hàng ADB, nên thành
lập quỹ Mekong để thúc đẩy đầu tư vào năng lượng mặt trời và gió, trong
khu vực Mekong để thay thế thủy điện".
RFI xin cảm ơn tiến sĩ Lê Anh Tuấn và nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thiện
Trọng Thành
----
(1)
Về phần mình, nhìn chung, nhà nghiên cứu môi trường Nguyễn Hữu Thiện tỏ
ra rất dè dặt trước các kết quả nghiên cứu quy mô lớn tiến hành tại
Việt Nam, của bộ Tài Nguyên và Môi Trường và của Ủy hội sông Mekong.
Theo ông, nghiên cứu của bộ Tài nguyên và môi trường thuê công ty DHI
thực hiện, dựa chủ yếu vào việc chạy mô hình máy tính từ xa, mà thiếu
hiểu biết thực tế, nên đánh giá thấp các tác động với đồng bằng Cửu
Long. Nghiên cứu của Ủy hội sông Mekong mới đây cũng gây thất vọng vì
đánh giá sai lệch tác động, đưa ra những kết luận có thể nói là "phán
bừa, phán ẩu". Ví dụ như : cho rằng cá suy giảm do giảm nguồn dinh dưỡng
từ phù sa là rất ít, vì được bù lại bằng dinh dưỡng từ nước thải đô thị
và phân bón nông nghiệp. Một kết luận, theo ông, hoàn toàn thiếu cơ sở
khoa học. Hay khi đánh giá về tác động về kinh tế xã hội, báo cáo chỉ
xét tác động trong hành lang 15 km hai bên sông, như vậy không thể đánh
giá được tác động tổng thể, đặc biệt về vấn đề sạt lở bờ biển.
(2)
Trả lời RFI qua thư điện tử, tiến sĩ Lê Anh Tuấn (Viện Nghiên cứu biến
đổi khí hậu, Cần Thơ) nhận định : hậu quả của chuỗi thủy điện đã được
nhiều nhà khoa học và các tổ chức xã hội cảnh báo. Tuy
nhiên để định lượng các thiệt hại cho từng lĩnh vực như nông nghiệp,
thủy sản, phù sa, sinh thái, kinh tế xã hội thì không đơn giản vì nhiều
lý do. Như dữ liệu đầu vào không đầy đủ (Trung Quốc từ chối cung cấp số
liệu quá trình vận hành chuỗi đập thủy điện phía họ, thiếu thông tin về
thỏa thuận mua bán điện, vận hành nhà máy, số liệu về cá - sinh thái -
xã hội không nhất quán ...), hiểu biết của chuyên gia về vấn đề Mekong
và hệ sinh thái - yếu tố xã hội bị hạn chế, trong các kịch bản tương lai
có nhiều yếu tố không chắc chắn và quá nhiều giả định thiếu kiểm
chứng...
(3)
Theo nghiên cứu của Kondolf (2014), các đập trên thượng nguồn Mekong,
mà Trung Quốc gọi là sông Lan Thương, đã khiến dòng Mekong mất đi đến
50% lượng phù sa (160 triệu tấn/năm trong những năm 1990 xuống còn 80
triệu). Nếu toàn bộ 11 đập tại Lào và Cam Bốt được xây, Mekong sẽ mất
gần hết phần phù sa còn lại (nghiên cứu của UNESCO và Viện Môi Trường
Stockholm). Chỉ tính về kinh tế bề nổi, lượng phù sa/dưỡng chất nói trên
khiến Việt Nam thiệt hại ít nhất 450 triệu đô la/năm (Bộ Tài nguyên và
môi trường Việt Nam)
*********************
Thủy điện Trung Quốc gây sạt lở ở đồng bằng sông Cửu Long (Người Việt, 29/03/2018)
Diễn
biến xói, sạt lở bờ biển, bờ sông khiến khu vực đồng bằng các tỉnh phía
Nam mỗi năm mất 300 hécta đất có nguyên nhân từ hoạt động của các thủy
điện Trung Quốc.
Mỗi năm đồng bằng sông Cửu Long mất 300 hécta đất do sạt lở bờ sông, bờ biển. (Hình : Thanh Niên)
Theo
báo Thanh Niên, tại cuộc họp "Tổng kết công tác phòng chống thiên tai
năm 2017 và triển khai nhiệm vụ năm 2018" diễn ra ngày 29 tháng Ba tại
Hà Nội, ông Nguyễn Xuân Cường, bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, trưởng Ban chỉ đạo trung ương về Phòng chống thiên tai, cho
biết tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển ở khu vực các tỉnh phía Nam, khu
vực đồng bằng sông Cửu Long ngày càng diễn biến phức tạp, uy hiếp trực
tiếp đến tính mạng và tài sản của nhân dân tại các khu vực ven sông, ven
biển.
Đặc
biệt, khu vực đồng bằng sông Cửu Long và dải ven biển các tỉnh miền
Trung như Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế, Phú Yên, Bình Thuận, Cà Mau là
những khu vực tập trung đông dân cư và nhiều hoạt động kinh tế, xã hội
đang có tốc độ phát triển nhanh, báo Thanh Niên cho hay.
Báo
này dẫn chứng, qua theo dõi từ năm 2010 đến nay, diễn biến sạt lở bờ
sông, bờ biển có xu thế ngày càng gia tăng, tốc độ xói đã vượt tốc độ
bồi làm diện tích khu vực đồng bằng các tỉnh phía Nam giảm khoảng 300
hecta/năm, trong đó phần lớn là khu vực bờ biển thuộc tỉnh Cà Mau và
Kiên Giang.
Về
nguyên nhân sạt lở, theo Tổng cục Phòng chống thiên tai thuộc Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, trước khi các đập thủy điện Trung Quốc
đi vào vận hành, tổng lượng phù sa, bùn cát hằng năm từ Trung Quốc về
tới tỉnh An Giang khoảng 73 triệu tấn. Nhưng từ năm 2012 đến nay, kể từ
khi các hồ chứa phía Trung Quốc đi vào vận hành, tổng lượng phù sa, bùn
cát về đồng bằng sông Cửu Long đã giảm đáng kể, đây là nguyên nhân cơ
bản gây ra hiện tượng xói lở bờ sông, bờ biển ở khu vực này.
Về
hiện trạng sạt lở bờ sông, bờ biển, cơ quan này cho biết thêm, Việt Nam
hiện có 2.055 điểm sạt lở với tổng chiều dài trên 2.710 cây số, trong
đó có 91 điểm sạt lở "đặc biệt nguy hiểm, gây nguy hiểm trực tiếp đến an
toàn đê điều, khu tập trung dân cư và cơ sở hạ tầng quan trọng", với
tổng chiều dài 218 cây số và 735 điểm sạt lở "nguy hiểm" với tổng chiều
dài 911 cây số.
Ông
Nguyễn Trường Sơn, phó tổng cục trưởng Tổng cục Phòng chống thiên tai,
cho rằng sạt lở, xói lở gia tăng ở đồng bằng sông Cửu Long cũng có
nguyên nhân từ khai thác nước ngầm, khai thác cát quá mức. Trong 25 năm
qua, nhiều vùng ở đồng bằng sông Cửu Long mực nước ngầm hạ xuống hơn 5
mét, gây nên sụt lún đất trung bình cho toàn khu vực 1,1 cm/năm, có
những nơi sụt lún 2,5 cm/năm, cao gấp 10 lần so với tốc độ nước biển
dâng.
Ngoài
ra, cát trên sông Tiền và sông Hậu đang bị khai thác quá mức. Tính đến
năm 2016, có 65 giấy phép khai thác cát được cấp tại các địa phương
thuộc đồng bằng sông Cửu Long, tổng lượng khai thác 15 triệu m3/năm. Đó
là chưa kể đến khối lượng khai thác cát của các dự án nạo vét luồng lạch
giao thông đường thủy.
"Dự
báo trong những năm tới, nạn ngập lụt tại đây sẽ tăng mạnh, nhất là
vùng ven biển và giữa đồng bằng và xói lở sông, kênh và bờ biển sẽ rất
khó lường, nên việc mất đất sẽ nghiêm trọng hơn", ông Sơn khuyến cáo. (Tr.N)