43 năm và những giọt nước mắt (RFA)
Có một thực tế là tại Việt Nam, chưa bao giờ có một cuộc hòa giải dân
tộc thực sự cho cả người sống và người đã chết trong chiến tranh. Bởi
nếu như có điều đó, thì thay vì reo hò, ăn mừng chiến thắng, người ta sẽ
cùng nhau thắp lên nén nhang cầu nguyện cho các linh hồn tử trận được
bình an, được siêu thoát. Hành động ấy như một cách an ủi, vỗ về người
đã khuất và người còn sống mang đầy mất mát. Rất tiếc, chúng ta chưa đủ
nhân văn để làm điều ấy!
Vẫn vui mừng tăng đều…
Nghệ sĩ, thạch ảnh gia Lê Nguyên Vỹ, ông cũng là nhà giáo dạy Ngữ Văn trước 30 tháng 4 năm 1975, chia sẻ:“Thực
ra là sau khi chấm dứt chiến tranh thì phải nói rằng người cộng sản
được ít nhất hơn một nửa đất nước ủng hộ, bởi người ta nghĩ rằng cuộc
cách mạng sẽ mang lại điều gì đó tốt đẹp cho đất nước nhưng theo thời
gian người ta thấy là cuộc cách mạng này đi vào vô vọng, chẳng đem lại
lợi ích gì cả. Càng ngày thì nó đẩy đất nước này vào lụi tàn trước những
hiểm họa từ bên ngoài cũng như sự tha hóa của guồng máy hành chính nhà
nước, cho tới sinh hoạt xã hội… Tất cả như một sự tan vỡ giềng mối của
gắn kết xã hội.”
Về vấn đề nên hay không nên ăn mừng ngày gọi là đại thắng 30 tháng 4
thuộc về lương tri và vốn liếng nhân văn của mỗi chế độ chính trị. Nếu
chế độ chính trị có vốn liếng nhân văn và tầm nhìn rộng, họ sẽ không
giới hạn giá trị thắng – thua trong địa hạt phe nhóm hay trục tư tưởng
chính trị mà đặt nó trên bình diện dân tộc.
Và nếu đặt vấn đề mùa xuân 1975 trên bình diện dân tộc thì hầu như
không có bất cứ lý do gì để ăn mừng. Bởi sự ăn mừng của bên thắng cuộc
chỉ làm cho bên thua cuộc bị tổn thương, xoáy sâu vào vết thương lịch
sử. Và hơn hết, điều đó gieo rắc vào thế hệ sau sự phân biệt bên ta –
bên thù trong lúc cả tương lai dân tộc đang ngồi chung dưới một mái
trường. Và sự ăn mừng vô hình trung làm tổn thương quá khứ cũng như làm
méo mó nguyện vọng hòa giải, hòa hợp dân tộc trong tương lai.
Ông Vỹ chia sẻ thêm:“Người ta ngồi người ta nhìn lại, hàng triệu
người bỏ mạng trong cuộc cách mạng đó, giờ kỷ niệm làm cho lớn lên thì
họ ca ngợi điều gì, sự lụi tàn ư? Thành ra điều đó rất nghịch, ngay cả
đời sống người miền Bắc đời sống họ tốt hơn hồi xưa nhiều nhưng người ta
vẫn thấy có gì đó không ổn, nhất là người có học. Tốt nhất là nhà cầm
quyền nên làm nhỏ thôi, không nên làm lớn vì như thế làm thương tổn cho
cả hai bên cầm súng, kể cả người cộng sản bởi người ta cảm thấy bị
thương tổn bởi xương máu của họ, của đồng đội của họ ngã xuống đều không
đem lại lợi ích gì cả.”
Có một thực tế là tại Việt Nam, chưa bao giờ có một cuộc hòa giải dân
tộc thực sự cho cả người sống và người đã chết trong chiến tranh. Bởi
nếu như có điều đó, thì thay vì reo hò, ăn mừng chiến thắng, người ta sẽ
cùng nhau thắp lên nén nhang cầu nguyện cho các linh hồn tử trận được
bình an, được siêu thoát. Hành động ấy như một cách an ủi, vỗ về người
đã khuất và người còn sống mang đầy mất mát. Rất tiếc, chúng ta chưa đủ
nhân văn để làm điều ấy!
Những giọt nước mắt về giáo dục
Nhà thơ, nghệ sĩ Mai Văn Phấn, người có tuổi thơ và tuổi trẻ học dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, chia sẻ:“Khác
lắm tại vì tất cả mọi bài giảng trong đó đều là căm thù đế quốc thôi,
hạn chế bài về thiên nhiên, tất cả một mực là căm thù đế quốc thôi, tất
cả phải đánh thắng giặc xâm lược thôi, chủ yếu là thế.”
Trong một chừng mực nào đó, những chia sẻ của nhà thơ Mai Văn Phấn có
cả những giọt nước mắt của thế hệ. Bởi ông luôn nuôi hi vọng nền giáo
dục Việt Nam sẽ tốt hơn và giảm đi những áp lực không đáng có. Bởi cùng
là mái trường xã hội chủ nghĩa, thời trước 1975, các chương trình giáo
dục miền Bắc hầu hết là tuyên truyền căm thù đế quốc Mỹ, phải “đánh cho
Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào”. Nhưng những thế hệ trước ông, của ông và sau
ông một vài năm không bị tình trạng vô cảm hay bạo lực như bây giờ.
Ông chia sẻ thêm: “Cái thời trước chương trình học nó không tạo ra
một thứ gây áp lực, đương nhiên là nó bị bó hẹp vì không mở ra bên
ngoài nhưng nó không bị áp lực như bây giờ. Như giờ văn ngày xưa hấp dẫn
lắm, thầy cứ nói, truyền cảm xúc trên lớp thôi, trò ghi được gì thì ghi
chứ không đọc chép từng câu như bây giờ. Cái gánh nặng bây giờ là gánh
nặng học thuộc, gánh nặng phải thi bằng được, đại loại là tấn lên vai
các trò. Đua nhau vấn đề thi cử, mở ra các lò luyện thi, như đưa ra các
bài văn mẫu, nhưng các bài văn mẫu lại làm tê mòn tất cả cảm xúc, nó ở
tình trạng như vậy.”
Bởi mặc dù các bài học thời đó ẩn chứa lòng thù hận nhưng lại không
ẩn chứa sự ham muốn vật dục. Thầy ra thầy, trò ra trò, thầy truyền cảm
hứng cho trò sáng tạo và bài giảng không xơ cứng, máy móc. Đặc biệt,
thời đó không có cải cách giáo dục triền miên, tốn tiền tỉ như bây giờ
và cũng không có dạy thêm như bây giờ.
Chính cái gánh nặng thực dụng, dạy thêm, học thêm, cải cách giáo dục,
chép bài máy móc và kiểu mua bán chữ như hiện tại đã nhanh chóng đẩy
giáo dục đến chỗ bế tắc, vô cảm và có nguy cơ tiền dần đến máu lạnh.
Điều này tạo ra hệ lụy xã hội ngày càng vô cảm, manh động và lộn xộn.
Ông chia sẻ thêm:“Văn chương bây giờ nó đọc chán vì nó có dạy thẩm
mỹ đâu, nó có dạy vẻ đẹp của văn chương đâu, thế nào là một bài thơ
hay, thế nào là vẻ đẹp của văn chương nó không dạy, nó chỉ dạy thế nào
là từ lấp láy, từ trùng điệp, thế thôi.”
Sau 43 năm, điều cần nhất vẫn cứ là học lại, làm lại từ đầu và những giọt nước mắt của lương tri!