Không được đánh đồng người chủ Trường Sa với kẻ cướp Trường Sa (Phạm Đình Trọng)
Không
được nổ súng. Không được chiến đấu giữ đảo đành nhận cái chết trong đau
đớn rồi phó mặc đảo cho giặc làm chủ. Vì vậy Thiếu tướng Hoàng Kiền,
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 83 công binh hải quân ngày đó đã phải đau
đớn thốt lên: 14.3.1988 là ngày Trung quốc đưa quân xâm chiếm Trường Sa
của ta chứ không có trận chiến nào ở đây !
Trả lời bài viết "Trường Sa 1988 : không nổ súng trước nhưng phải nổ súng", Báo Tiếng Dân 15/03/2018 (1)
Tháng
ba về lại nhớ Gạc Ma. Mỗi trái tim Việt Nam lại đau nỗi đau tháng ba
1988 Trung Quốc cướp Gạc Ma của tổ tiên ta. Mỗi trái tim Việt Nam lại
đau nỗi đau 64 người lính Việt Nam trở thành 64 tấm bia thịt cho lính
Trung Quốc đâm lê, kề súng AK tận ngực bóp cò. Tháng ba năm nay cùng nỗi
đau mất đảo, mất 64 người con yêu của Mẹ Việt Nam lại thêm sự phẫn nộ
vì giọng lưỡi trí trá, lấp liếm sự thật lịch sử và sự đánh đồng người
chủ đích thực của Trường Sa với kẻ cướp Trường Sa.
Ông
Lê Mạnh Hà, người viết "Trường Sa 1988 : không nổ súng trước nhưng phải
nổ súng" cần nhớ rằng trước năm 1956, trước khi Trung Quốc đưa tàu quân
sự giả dạng tàu đánh cá đổ người lên chiếm đảo Phú Lâm và một số đảo
trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam thì điểm cực Nam của lãnh thổ Trung
Quốc là đảo Hải Nam. Trước
năm 1974, trước khi Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam Cộng Hòa thì tàu quân sự của Trung Quốc đi vào Biển Đông đều
phải lén lút, lấm lét, láo liên của kẻ cắp. Nay chiếm được toàn bộ quần
đảo Hoàng Sa, chiếm được 8 bãi đá trong Trường Sa, chúng hối hả xây sân
bay, xây quân cảng, quân sự hóa Trường Sa rồi trừng mắt vỗ ngực tuyên bố
với thế giới rằng cả Biển Đông là của chúng.
Trong
khi từ thế kỉ thứ 17, từ thời nhà Lê, nhà Nguyễn, Hoàng Sa, Trường Sa
đã là cương vực lãnh thổ, là đơn vị hành chính của nhà nước Việt Nam.
Khi Pháp đô hộ Việt Nam, Pháp kế tiếp nhà Nguyễn trong việc quản lí hành
chính đó với Hoàng Sa, Trường Sa. Pháp đã xây đèn biển (hải đăng) ở
Hoàng Sa, xây trạm khí tượng ỏ Trường Sa. Tại Hội nghị Liên Hợp Quốc họp
ở San Francisco, tháng 9/1951, Thủ tướng Trần Văn Hữu của Việt Nam đã
tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa trước sự có mặt 49 Chính phủ
các nước, không có nước nào có ý kiến khác.
Vậy
mà ông Lê Mạnh Hà viết rằng ngày nay Việt Nam kiểm soát 21 đảo, Trung
Quốc kiểm soát 7 đảo trong quần đảo Trường Sa là thắng lợi rồi ! Đánh
đồng người chủ đích thực của Trường Sa, với kẻ cướp Trường Sa và coi
Trường Sa như quần đảo hoang, vô chủ thì mới coi Việt Nam kiểm soát 21
đảo trong quần đảo Trường Sa và Trung Quốc chỉ kiểm loát được 7 đảo là
thắng lợi !
Còn
lệnh không nổ súng. Bộ trưởng Bộ quốc phòng không lệnh cho từng đại
đội, không lệnh cho từng người lính không được nổ súng mà lệnh cho Bộ tư
lệnh hải quân. Chính vì cái lệnh quái gở, tự trói tay mình, tự bắt mình
buông súng đó mà trong tình thế nóng bỏng, trong khi Trung Quốc đưa hơn
chục tàu khu trục, tàu tên lửa, mỗi tàu khu trục 4 khẩu pháo 100mm, 4
khẩu pháo 37 mm, tàu tên lửa 12 dàn phóng ra cướp Trường Sa của Việt Nam
thì Hải quân Việt Nam đưa quân ra giữ Trường Sa chỉ dám đưa hai tàu vận
tải nhỏ bé 500 tấn và một tàu đổ bộ cũ nát, cổ lỗ của Mỹ xuất xưởng từ
1945. Cả ba con tàu già lão này đều là tàu không vũ trang, chỉ chở lương
thực, vật liệu xây dựng với 70 lính công binh chỉ có cuốc sẻng, 20 lính
lữ đoàn 146 mang cờ chủ quyền ra cắm trên đảo cũng chỉ có mấy khẩu AK
và chỉ có một băng đạn kèm theo súng.
Con tàu già lão HQ-604 nhận lệnh ra Gạc Ma. Ảnh tư liệu Lữ đoàn
Không
phải Hải quân Việt Nam không có tàu chiến đấu. Ngay từ tháng tám, năm
1964, khi tàu khu trục Maddox, Mỹ mới lảng vảng ngoài khơi vịnh Bắc Bộ,
Hải quân Việt Nam đã đưa một phân đội ba tàu phóng lôi xé sóng ra tấn
công tàu khu trục Maddox Mỹ. Tàu khu trục Maddox lớn, hiện đại và hỏa
lực mạnh gấp nhiều lần những tàu khu trục của Trung Quốc ở Trường Sa
1988. Lệnh
không nổ súng làm cho hình ảnh Hải quân Việt Nam chỉ còn là hình ảnh ba
con tàu nhỏ bé, già nua, chậm chạp, không có sức chiến đấu, chỉ biết
chịu trận.
Không
được nổ súng. Giặc đổ bộ tràn lên đảo, xâm phạm chủ quyền thiêng liêng
của tổ quốc nhưng người lính giữ đảo chỉ biết đứng nhìn và người lính
giữ lá cờ chủ quyền chỉ biết lấy sức người giành giật lá cờ với giặc rồi
giơ ngực ra hứng trọn mũi lê phóng tới, hứng trọn cả loạt đạn AK của
giặc dí sát người bóp cò.
Không
được nổ súng. Không được chiến đấu giữ đảo đành nhận cái chết trong đau
đớn rồi phó mặc đảo cho giặc làm chủ. Vì vậy Thiếu tướng Hoàng Kiền,
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 83 công binh hải quân ngày đó đã phải đau
đớn thốt lên: 14.3.1988 là ngày Trung quốc đưa quân xâm chiếm Trường Sa
của ta chứ không có trận chiến nào ở đây !
Phạm Đình Trọng
(15/03/2018)
*********************
Trường Sa 1988 : không nổ súng trước nhưng phải nổ súng
Lê Mạnh Hà, Tiếng Dân, 15/03/2018
1. Quá trình đóng giữ của các bên tại Trường Sa
Đây
là một quá trình dài, phức tạp, tôi chỉ nêu một số điểm chính. Hiện nay
các bên đóng giữ 47 thực thể địa lý (gọi tắt là đảo). Không phải ngay
từ đầu Việt Nam có 21 đảo (33 điểm đảo) như hiện nay. Trước 30/4/1975 và
cho đến 1986 Việt Nam chỉ đóng giữ 7 đảo. Nhưng đến năm 1988 Việt Nam
đóng quân trên 21 đảo, nhiều gấp 3 lần trước đó. 1971-1973 Philippines
đóng giữ 5 đảo, đến nay họ giữ 10 đảo. Năm 1946, quân đội Trung Hoa dân
quốc đóng giữ đảo Ba Bình. Năm 1956 quân đội Đài Loan tái chiếm đảo này.
1981-1983
Maylaysia đóng giữ 3 đảo, đến nay là 7 đảo. Năm 1988 Trung Quốc đóng
giữ 6 đảo (cũng trong năm này Việt Nam đóng giữ thêm 13 đảo, 1 đảo vào
năm 1987). Các bên đóng giữ các đảo phần lớn là không tiếng súng. Chỉ
duy nhất có nổ súng khi tranh chấp đóng giữ tại Gạc Ma và Colin.
Ảnh cắt từ clip trên báo Tuổi Trẻ
2. Được và mất tại Trường Sa
Hiện
nay các bên đóng giữ 47 đảo. Việt Nam tuyên bố chủ quyền toàn bộ Trường
Sa, hiện nay đóng giữ 21 đảo, 26 đảo bị các bên khác đóng giữ. Theo
quan điểm về chủ quyền thì VN đã mất 26 đảo.
Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền toàn bộ Trường Sa và chỉ đóng giữ 7 đảo, như vậy, Trung Quốc thấy rằng họ mất 40.
Tương tự, Philipines mất 37 đảo về tay các bên khác.
Lời
giải cho vấn đề Trường Sa hoàn toàn không dễ dàng. Để có lời giải này,
trước hết cần có thông tin đầy đủ và chân thực nhất về Trường Sa, về
những khó khăn chúng ta gặp phải khi mà các nước khác cũng đưa ra luận
cứ của họ về Trường Sa. Cần phải biết đầy đủ điểm mạnh của ta và của họ,
điểm yếu cũng thế, cần phải biết một cách chi tiết.
Không
chỉ là giải quyết các đảo do các bên đang đóng giữ. Trường Sa có 134
đảo, bãi đá, bãi ngầm vậy xử lý vấn đề này như thế nào trong khi mới chỉ
có 47 điểm được đóng giữ. Rất cần một câu trả lời thỏa đáng.
3. Gạc Ma: không nổ súng trước nhưng phải nổ súng
Muốn
khẳng định việc gì thì phải có nhân chứng và bằng chứng. Nhân chứng là
người trực tiếp tham gia trận Gạc Ma là trung sĩ Lê Hữu Thảo khẳng định
không có lệnh cấm nổ súng.
Có
một sự thật nữa là chúng ta đã nổ súng, mặc dù không nổ súng trước.
Trong trận Gạc Ma, phía Trung Quốc thương vong 22 người, trong đó có 6
người chết. Bộ đội Việt Nam đã đánh trả và gây thương vong cho đối
phương.
Trước
đó, để phòng xung đột quân sự nhỏ trên khu vực Trường Sa có thể bùng nổ
thành một cuộc chiến tranh lớn trên biển, Tư lệnh quân chủng Hải quân
là đô đốc Giáp Văn Cương ra lệnh: hết sức kiềm chế, tự vệ là chính,
không nổ súng trước, nhưng kiên quyết táo bạo, với phương châm "có
người, có đảo; còn người, còn đảo".
Như
vậy, mệnh lệnh không nổ súng trước đã được ban hành để tránh khiêu
khích đối phương, làm bùng nổ các xung đột gây bất lợi lâu dài.
Bối
cảnh lúc đó, Việt Nam vẫn đang có xung đột ở biên giới phía Bắc và tại
Campuchia. Lúc này, lực lượng của chúng ta rất mỏng, phải bố trí quân
đội ở cả biên giới phía bắc, Campuchia và biển đảo. Có thể nói, đây là
giai đoạn mà Tổ quốc gặp khó khăn nhất. Ngoài việc biên giới hai đầu
không yên ổn, Việt Nam còn bị bao vây, cấm vận về kinh tế.
Nếu
manh động nổ súng trước mà để xảy ra một cuộc chiến lớn trên biển thì
hậu quả rất khôn lường. Do đó, kiềm chế để không nổ súng trước, không để
cho đối phương tạo cớ gây xung đột lớn là mệnh lệnh đúng đắn. Lịch sử
đã chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh do một bên tạo cớ để gây ra như
chiến tranh thế giới lần thứ 2, sự kiện vịnh Bắc bộ 1964 do Mỹ tạo cớ để
ném bom phá hoại miền Bắc.
Nhưng
tất nhiên, trong chiến tranh thì không thể có lệnh cấm nổ súng, dù ở
bất cứ mặt trận nào. Bộ đội đã trấn giữ Trường Sa phải nổ súng khi bị
tấn công để bảo vệ đảo.
Vì
thế, chúng ta không nổ súng trước nhưng phải nổ súng. Khi đã được giao
súng tức là được bắn, đấy là nguyên tắc, chỉ có điều phải xác định bắn
lúc nào. Nổ súng lúc nào do người chỉ huy tại chỗ quyết định, không phải
cấp cao hơn, càng không phải lãnh đạo Bộ Quốc phòng.
Thực tế trong trận Gạc Ma, bộ đội ta đã nổ súng đáp trả và đối phương bị thương vong 22 người.
Không
nổ súng trước không có nghĩa là không được nổ súng chống lại khi bị tấn
công. Không một đô đốc hải quân nào ra lệnh cho bộ đội của mình làm
thế. Không một Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra lệnh cho quân đội của mình như
thế.
Quân
đội Việt Nam đã đối đầu với hai kẻ thù mạnh là Pháp và Mỹ và giành
chiến thắng. Quân đội Việt Nam cũng đã đối đầu với Trung Quốc ở phía Bắc
và quân Khmer Đỏ ở biên giới Tây Nam. Cả hai cuộc chiến tranh biên giới
đều không phải do Việt Nam bắt đầu. Nhưng Việt Nam cũng không ngại ngần
đáp trả. Thế thì không có lý do gì, chúng ta lại sợ hãi nổ súng nếu bị
tấn công ở Trường Sa.
Xin
nhắc lại, nổ súng lúc nào do người chỉ huy tại chỗ quyết định, không
phải cấp cao hơn, càng không phải lãnh đạo Bộ Quốc phòng.
Không
biết có nước nào khi có chiến tranh mà lãnh đạo Bộ Quốc phòng chỉ huy
từng trận đánh cấp đại đội không? Tôi chắc là không. Đơn vị của một ông
sỹ quan nào đó hồi đánh Mỹ chắc chắn không bao giờ nhận được lệnh trực
tiếp từ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Không có cơ chế đó và nếu có đi chăng
nữa thì phương tiện thông tin thời kỳ đó không thể gọi trong vòng mấy
chục giây đến cấp trung đoàn, cấp tiểu đoàn được, càng không tới tàu
hoặc trên đảo xa xôi.
Hơn
nữa, lúc đó quân đội hàng triệu người của ta đóng ở biên giới đang có
chiến tranh và Campuchia, không có lãnh đạo Bộ quốc phòng nào ra lệnh
cấm nổ súng cho toàn quân, càng vô lý nếu ông có thể ra lệnh và kiểm
soát việc nổ súng của từng đơn vị từ cấp đại đội.
Trong
xung đột Colin, Len Đao, Gạc Ma, Việt Nam đóng giữ 2 đảo là Colin và
Len Đao, Trung Quốc đóng giữ 1 đảo Gạc Ma. Trên quan điểm của Việt Nam
thì chúng ta mất một đảo. Quan điểm của Trung Quốc thì họ mất 2 đảo.
Từ năm 1987, Việt Nam kiểm soát thêm 14 đảo, Trung Quốc đóng giữ 7 đảo.
Có
những người rất muốn cho rằng Việt Nam thất bại trong vấn đề Trường Sa
và Biển Đông. Thực tế là trái ngược với những điều họ nghĩ: Việt Nam mở
rộng kiểm soát lãnh thổ, khai thác dầu khí, xây dựng các nhà giàn, chúng
ta đã làm được nhờ có tầm nhìn chiến lược, cách làm khôn khéo và sáng
tạo. Đó là những kỳ tích. Không một nước nào khác làm được điều này.
Ngay cả chúng ta, muốn làm điểm tương tự vào thời điểm này là không thể.
Thời kỳ 1987-1989 chúng ta làm được là một chiến công. Chiến công này
là của đất nước chúng ta, của quân đội và hải quân Việt Nam.
64
chiến sỹ Gạc Ma và hàng triệu người đã ngã xuống trong 4 cuộc chiến
tranh để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, để chúng ta được sống
trong hòa bình. Chúng ta tưởng nhớ những người ngã xuống và hành động để
không bao giờ nữa lặp lại các cuộc chiến tranh, để giữ mãi hoà bình,
hoà hợp dân tộc.
Lê Mạnh Hà
Nguồn : Tiếng Dân, 14/03/2018