The Vietnam war, nghịch lý lịch sử? (Bùi Quang Vơm)
Một
bài học mà những người cộng sản Việt Nam cần rút ra là "lòng dân" chứ
không phải "lý tưởng" cộng sản giúp họ chiến thắng. Dân chúng thực chất
không biết và cũng không cần biết tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Thất
bại sau chiến tranh đã chứng thực "Những gì hợp lòng dân thì thắng, trái
lòng dân là thất bại".
Cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc từ 42 năm, nhưng người ta vẫn tiếp tục tranh cãi.
Một
trong những lý do tranh cãi không bao giờ kết thúc chính là việc xác
định người thắng và kẻ thua. Bên nào cũng cho mình là người thắng, hoặc
ít nhất là không thua. Người nghe cả hai phía thì cuối cùng kết luận là
không có ai là người thắng và không có ai là người thua, sau đó đúc kết
thành một triết lý : Chiến tranh không có người thắng, chỉ có sự tan nát
là còn lại, tất cả những ai tham chiến đều thất bại.
Nói
như vậy không sai, thậm chí nó lung linh một chủ nghĩa nhân bản. Nhưng
trên thực tế, người ta chỉ đón nhận nó như một sự nhân nhượng, rộng
lượng của kẻ thắng, và sự vỗ về, xóa dịu cho người chiến bại. Bởi vì,
xét về mặt logic, khi một cuộc đấu kết thúc, không thể không có bên
thắng hoặc thua, ngay cả khi trọng tài phán quyết là hòa. Bao giờ cũng
tồn tại sự nhân nhượng từ một phía và sự an ủi của phía khác. Chỉ đơn
giản là nếu chưa phân thắng bại, thì cuộc chiến chưa thể kết thúc.
Nói
ra điều này để khẳng định một cách khách quan rằng, trong cuộc chiến
Việt - Mỹ kéo dài từ 1955 tới 1973 , có một bên thua, bên đó là Hóa Kỳ,
và phía Bắc Việt Nam là bên thắng.
Hóa
Kỳ đặt ra mục đích cuộc chiến là ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa
cộng sản xuống phía Nam, từ đó đưa quân đội và vũ khí vào cuộc chiến,
nhưng phải rút về một cách không tự nguyện, khi mục đích đó chưa hoàn
thành, đẩy sứ mệnh đó cho chính quyền Sài Gòn, trong khi cả cố
vấn Kissinger lẫn Tổng thống Mỹ Nixon đều biết rằng, "nếu Mỹ rút, chính
quyền Cộng Hóa Việt Nam sẽ chẳng tồn tại được bao lâu". Kissinger còn an
ủi Nixon : "cố gắng vá víu cho khỏi bể trong một, hai năm, tới tháng
1/1979 thì chẳng còn ai quan tâm nữa", "với những trang bị và vũ khí ấy,
nếu là cấp cho Bắc Việt, đủ để họ đánh nhau với ta đến hết thế kỷ
này". Và chính tổng thống Thiệu tuyên bố : "Nếu Mỹ mà không viện trợ cho
chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ
sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập !".
Tom Polgar, nhân viên cao cấp Đại sứ Mỹ ở miền Nam, một trong số người Mỹ cuối cùng di tản khỏi Việt Nam, đã ghi lại nhận xét :
"Đây
là một cuộc chiến tranh lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất
bại độc nhất của lịch sử Hóa Kỳ chắc sẽ không báo trước sức mạnh bá chủ
toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt. Nhưng... Ai không học được gì ở lịch
sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong lịch sử".
Ngược
lại, mục tiêu "giải phóng miền Nam thực hiện thống nhất đất nước" của
chính phủ miền Bắc Việt Nam cuối cùng đã hoàn thành. Ngày 27/01/1973,
toàn bộ Quân đội Mỹ rút khỏi lãnh thổ Việt Nam. Sáng ngày 30/04/1975,
tướng Dương Văn Minh buộc phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng Hóa miền Nam tiếp quản quyền lực trên toàn bộ
lãnh thổ từ tay chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Tổng tuyển cử thống nhất
hai miền được thực hiện tháng 2/1976.
Trên
những dữ kiện thực tế đó, không thể nói không có bên thắng, bên thua,
mặc dù những phân tích sau này theo từng góc nhìn khác nhau, theo những
khái niệm và định nghĩa thắng bại khác nhau, có thể có những lý và lẽ
khác nhau.
Tìm chính danh từ một nỗi sợ hãi, bản thân nó đã bao hàm sự thất bại, vì sự sợ hãi luôn phóng đại các đe dọa.
Bộ
phim bắt đầu bằng "Bóng ma của quá khứ" chính là các tác giả có ý tìm
sự biện giải cho thất bại của Hóa Kỳ từ quá khứ lịch sử, những nguyên
nhân của những sai lầm của người Mỹ khi gây ra cuộc chiến, những căn cứ
đem lại chiến thắng cho một dân tộc bé nhỏ và nghèo đói. Đó cũng chính
là những thông điệp mà bộ phim muốn chuyển tải tới người xem.
Sự thất bại đó đến từ hai phía.
Từ sai lầm của phía Mỹ và sự may mắn của những người cầm đầu chế độ cộng sản Bắc Việt.
Một
phía, có nguồn gốc từ nỗi sợ hãi quá khứ vẫn ám ảnh người Mỹ, chưa
thoát khỏi trí não của những người cầm quyền trong chính phủ Mỹ. Đó là
sự khủng khiếp của cuộc chiến với Trung Cộng trong chiến tranh Triều
Tiên mà người Mỹ vừa trực tiếp chứng kiến. Người Mỹ vừa chết hụt, khi
Liên Xô đặt tên lửa hạt nhân lên mảnh đất Cuba chỉ cách Mỹ 120 km và một
sai lầm đã chỉ cách có gang tấc.
Nỗi
sợ đó đã được diễn giải thành nguy cơ có thật từ phía khối cộng sản, để
khi được những người đứng đầu trong chính quyền gắn nó với thuyết những
quân cờ domino, thì chiến tranh ngăn chặn đã trở thành chính đáng, và
thực hiện chiến tranh vừa là trách nhiệm đương nhiên, vừa là niềm kiêu
hãnh và vinh quang của người Mỹ. Nhưng tìm chính danh từ một nỗi sợ hãi,
bản thân nó đã bao hàm sự thất bại, vì sự sợ hãi luôn phóng đại các đe
dọa. Chính sách có nguồn gốc phóng đại luôn chứa đựng giả dối. Sự giả
dối có thể che đậy dưới chế độ độc tài, nhưng sẽ làm chính quyền sụp đổ
dưới chế độ dân chủ, nếu cuộc chiến kéo dài. Thực tế, một đội quân khổng
lồ thiện chiến với những vũ khí siêu hiện đại đã chỉ đối diện với những
con người có hình dáng nhỏ bé, gầy guộc và đói rách, có trên tay những
vũ khí thô sơ. Sự chênh lệch quá đáng về sức mạnh đã tố cáo tính chính
danh của cuộc chiến chém giết.
Nhưng
thất bại của người Mỹ nằm ở chỗ tiến hành một cuộc chiến tranh bằng một
chế độ dân chủ. Bản chất của dân chủ mâu thuẫn với bản chất của chiến
tranh. Một tập hợp bao gồm hai thành phần đối kháng với nhau, tự nó thủ
tiêu nhau để tự sụp đổ.
Thất bại của Mỹ là tất yếu. Không thể chứng minh dân chủ bằng sức mạnh hủy diệt của bom đạn và sự tàn bạo của vũ khí tối tân.
Và
cũng không thể tiến hành thắng lợi một cuộc chiến tranh bằng cơ chế của
một thể chế dân chủ. Chiến tranh cần quyền lực tập trung của thể chế
độc tài. Chiến tranh là mệnh lệnh và tòa án binh, không có thảo luận lấy
quyết định bằng đa số. Vừa có chiến tranh vừa có biểu tình và bầu cử
theo đa số là một nghịch lý. Bởi vậy, người Mỹ phải thất bại.
Về
phía khác, "Bóng ma quá khứ", lý giải cơ sở nền tảng của chiến thắng
của Bắc Việt Nam. Chính quyền cộng sản Bắc Việt thực tế đã không tìm
kiếm sức mạnh và sự hy sinh bền bỉ của dân chúng từ lý tưởng của chủ
nghĩa cộng sản quốc tế mà bằng chủ nghĩa yêu nước, bằng ý chí độc lập tự
cường và khao khát tự do. Dân số Việt Nam gần 90% là nông dân, hơn 98%
số nông dân ấy là người mù chữ, lý tưởng cộng sản của chủ nghĩa Mác-Lê
dẫu có hấp dẫn người nghèo, cũng không bằng cách nào đến được với nông
dân.
Câu
khẩu hiệu có sức mạnh nhất xuyên suốt cuộc chiến là câu nói nổi tiếng
của Hồ Chí Minh : "không có gì quý hơn độc lập tự do ", không có gì dính
líu tới lý tưởng cộng sản toàn cầu, nhưng làm cho sự hiện diện của
người Mỹ trỏ nên không thể biện giải. Dẫu là gì, và như thế nào, thì sự
có mặt của người Mỹ cũng sẽ lặp lại sự có mặt của người Pháp từng có mặt
trước đó hàng trăm năm, và cũng cùng loại với sự có mặt của người Trung
Hóa trước đó hàng nghìn năm. Lý tưởng có thể bỏ nếu không chịu nổi bom
đạn, nhưng còn đất nước, cho dù không chịu nổi bom đạn thì họ đi đâu để
sống ? Người Mỹ đã không hiểu điều đó. Người Mỹ có thể làm mọi chuyện,
nhưng chỉ sự hiện diện của họ với vũ khí trên đất Việt, đã đủ để họ
thành kẻ thù, và cũng đủ để họ thất bại.
Ý
chí độc lập và khát vọng tự do điều khiển bởi một bộ máy tập trung siêu
quyền lực, là hai yếu tố tạo ra sức mạnh vô địch, làm ra chiến
thắng. Hitler và Nhật Hoàng sở dĩ có thể làm ra những kỳ tích, chính là
có được hai yếu tố đó. Nó trở nên thất bại, khi một trong hai yếu tố đó
chuyển hóa và biến mất. Lý thuyết chiến tranh nhân dân và quân đội toàn
dân là chiến thuật biến toàn dân thành lính, phục tùng một cách vô điều
kiện và được đưa lên thành tiêu chuẩn đạo đức, chính là học thuyết quân
sự của các đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc.
Nói
là sự may mắn của những người lãnh đạo trong bộ máy cầm quyền của chế
độ cộng sản Bắc Việt, chính là sự trùng lặp vô tình giữ lý tưởng cộng
sản với chủ nghĩa yêu nước.
Căn cứ để xác minh nhận định này là sự thất bại của chính chế độ từ sau chiến thắng 30/04.
Đảng
cộng sản Việt Nam đã không hiểu nguyên nhân đích thực dẫn đến chiến
thắng. Họ vẫn tin rằng đó là thắng lợi của đường lối đúng đắn của đảng,
là tính "bách chiến bách thắng" của chủ nghĩa Mác Lênin. Ông Lê Duẩn
tổng kết chiến tranh và kết luận, "giai đoạn thứ nhất của cách mạng vô
sản là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ giành độc lập dân tộc và thống
nhất đất nước đã hoàn thành. Cách mạng Việt Nam từ nay bước sang giai
đoạn thứ hai, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội không kinh qua phát
triển tư bản chủ nghĩa". Đại hội đảng lần thứ tư, ngày 14-20/12/1976, đã
quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hóa thành nước Cộng Hóa
Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam, thay tên đảng từ đảng Lao động Việt Nam thành
Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định trung thành chủ nghĩa Mác – Lênin.
Việc
làm này chứng tỏ một điều, rằng lãnh đạo đảng cộng sản không chủ đích
dựa vào chủ nghĩa yêu nước. Họ không hề có ý thức về sức mạnh bất khả
khuất phục chính nằm trong ý chí độc lập dân tộc và khát vọng tự do của
dân chúng chứ không phải là giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa Mác.
"Khẳng
định tính bách chiến bách thắng chủ nghĩa Mác", năm 1976, đảng cộng sản
bắt đầu thất bại liên tiếp cả chỉ đạo kinh tế lẫn chính trị, ngoại
giao.
Bắt
đầu từ sau cái Đại hội IV này, sau cái "khẳng định tính bách chiến bách
thắng chủ nghĩa Mác", năm 1976, đảng cộng sản bắt đầu thất bại liên
tiếp cả chỉ đạo kinh tế lẫn chính trị, ngoại giao. Xây dựng "xã hội chủ
nghĩa bỏ qua phát triển tư bản chủ nghĩa" đã đẻ ra chính sách cải tạo tư
bản tư doanh, tiêu diệt kinh tế gia đình và sản xuất cá thể. Lạm
phát lập tức tăng lên tới 780% năm 1986. Tổng thu nhập quốc dân không đầy
2 tỷ đô. Đất nước chìm vào khủng hoảng, nền kinh tế mấp mé bờ sụp đổ. Mỹ
cấm vận và bao vây kinh tế. Trung Quốc gây chiến tranh biên giới. Liên
xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ chấm dứt viện trợ và bắt đầu nhắc đến
đòi nợ. Bước đi thứ hai, xây dựng chủ nghĩa xã hội sau cách mạng dân
tộc dân chủ, đứng trước sự phá sản, đường lối "sáng suốt" của đảng đã
đưa đất nước quay về gần thời kỳ đồ đá nguyên thủy, không do bom đạn hủy
diệt của chiến tranh.
Một
bài học mà những người cộng sản Việt Nam cần rút ra là "lòng dân" chứ
không phải "lý tưởng" cộng sản giúp họ chiến thắng. Dân chúng thực chất
không biết và cũng không cần biết tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Thất
bại sau chiến tranh đã chứng thực "Những gì hợp lòng dân thì thắng, trái
lòng dân là thất bại".
Thắng lợi của chế độ cộng sản Bắc Việt, vì vậy, có thể nói được là một nghịch lý không ?
Trên
trục thời gian phát triển của văn minh nhân loại, có thể nói, xã hội Mỹ
đi trước xã hội Việt Nam hàng trăm năm. Có thể là một nghịch lý khi
tương lai thất bại trước quá khứ không ?
Nhiều
ý kiến cho rằng sự hiện diện của người Mỹ trong vai trò điều khiển đã
làm cho cuộc chiến chống cộng thất bại. Điều này hoàn toàn có thể hiểu
được. Sự hiện diện và can thiệp vào một công việc nội bộ của một quốc
gia có chủ quyền khác cách hàng chục ngàn km đã bác bỏ mọi khả năng
tuyên truyền của phía ủng hộ , nhưng lại là lý do tạo ra hiệu quả tuyên
truyền của phía đối địch. Không có chính danh, không thể được thừa nhận
chính danh, không thể tạo ra chiến thắng.
Vì
vậy có những ý kiến cho rằng sai lầm của người Mỹ chính nằm ở chủ
trương can thiệp trực tiếp. Nếu với cùng những phí tổn cho chiến
tranh, người ta giành cho đầu tư xây dựng và phát triển kinh tế, thì với
hỗ trợ kỹ thuật và công nghệ Mỹ, miền Nam Việt Nam đã trở thành một
cường quốc kinh tế, vượt xa Singapore và Nam Hàn, vì khởi điểm của miền
Nam hơn hẳn, và năng lực sáng tạo của người Việt không kém bất cứ dân
tộc nào. Như vậy, khả năng thống nhất đất nước một cách hóa bình sẽ rất
cao và theo chiều ngược lại. Người ta đã bỏ qua và giải pháp này đã
không được một ai nghiên cứu một cách nghiêm túc. Ít ra, chỉ cần phát
triển miền Nam cũng đã đủ để vô hiệu hóa ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng
sản.
Bộ
phim gồm 10 tập và phải mất 10 năm để hoàn thành, với khối lượng tư
liệu khổng lồ, nhưng những thông điệp mà các nhà làm phim muốn nói, có
lẽ không cần phải xem hết toàn bộ. Nước Mỹ đã chia rẽ, rạn nứt, tổn
thương và đã làm một công việc vô ích.
Nhiều
ý kiến cho rằng, dù muốn hay không muốn, bộ phim do người Mỹ làm, là
cách nhìn của người Mỹ, là vũ trụ quan, nhân sinh quan, phản ánh thang
bậc nhận thức và văn hóa của người Mỹ, không phải là của người Việt. Gọi
là Chiến tranh Việt Nam, nhưng không do người Việt làm.
Người
Việt, nhờ người Mỹ mà được thấy những gì thực xảy ra từ cả hai phía,
liệu có đủ minh mẫn và tự trọng để thừa nhận nghịch lý của lịch sử không
?
Nhưng
nếu người Việt làm, thì là người Việt nào, người Việt "Nam" hay người
Việt "Bắc", tức là người Việt cộng hóa hay người Việt cộng sản ? Người
Việt đã đủ trưởng thành để tự nhận ra và tự thú nhận sai lầm của mình
như người Mỹ không ? Bộ phim sẽ chỉ có bên kia chết và tội ác dã man chỉ
của phía đối phương ? Nếu người Việt đủ trưởng thành để cho ra đời bộ
phim đủ trung thực khách quan về cuộc chiến tranh này, thì ngay bây giờ,
đã thực sự có một cuộc hóa giải và hóa hợp dân tộc, không phải hóa
giải cứ là sự khuất phục của bên này, và là sự thừa nhận tội ác của bên
kia.
Bằng
cuốn phim này, người Mỹ đã tự giải thoát cho nhau, nhưng người
Việt, nhờ người Mỹ mà được thấy những gì thực xảy ra từ cả hai phía,
liệu có đủ minh mẫn và tự trọng để thừa nhận nghịch lý của lịch sử không
?
25/09/2017
Bùi Quang Vơm