Ðánh giá di sản Hồ Chí Minh qua hiện tình đất nước (LS Đào Tăng Dực)
Không có Hồ Chí Minh thì đất nước chúng ta ngày hôm nay đã qua mặt
Thái Lan, Mã Lai và ít nhất phải sánh vai cùng Nam Hàn, Ðài Loan, Hồng
Kông và Nhật Bản rồi.
Như một nhân vật lịch sử đương đại, Hồ
Chí Minh được những người Cộng Sản Việt Nam tôn sùng đến mức độ thần
thánh, nhưng ông lại bị những người quốc gia, nhất là người Việt hải
ngoại kết án là một tội đồ dân tộc.
Cả hai bên không thiếu những người cực đoan, sử dụng những danh từ quá khích để thóa mạ lập trường của nhau.
Bài này là một cố gắng khách quan đánh giá vị trí thực sự của Hồ Chí
Minh trong lịch sử đất nước. Ngôn từ tôi sử dụng luôn trung dung và
những sách vở dẫn chứng tương đối không thiên vị.
Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 (Charles Fenn, t.16). Tên thật
là Nguyễn Sinh Cung. Có thể nói ông và Mao Trạch Ðông suýt soát tuổi
với nhau. Mao Trạch Ðông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1893. Hai nhà lãnh tụ
cộng sản của đầu thế kỷ 20 không những chia xẻ lý tưởng cộng sản mà còn
gặp nhau nhiều lần trên con đường tranh đấu chông gai trước mắt của họ.
Tuy nhiên sự khác biệt giữa hai nhân vật sẽ giúp chúng ta đáng giá khách quan vai trò và vị trí của Hồ Chí Minh.
Năm 1921, Mao Trạch Ðông tham gia Ðại Hội đầu tiên của Ðảng cộng sản
Trung Quốc tại Thượng Hải, dưới quyền lãnh đạo của Maring, đại diện cho
Ðệ Tam Quốc Tế. Họ Mao không phải là lãnh đạo của đảng CSTQ vào giai
đoạn mới được thành lập (Dick Wilson, t.93).
Năm 1925, một chi bộ Việt Nam của Hội Á-Tế-Á-Nhược-Tiểu-Dân-Tộc được
thành lập tại Quảng Châu do Hồ Chí Minh (dưới tên Nguyễn Ái Quốc), Lâm
Ðức Thụ, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong chỉ huy, dưới quyền lãnh đạo tối cao
của cố vấn Nga Borodine. Sau đó nhóm đổi tên thành Việt Nam Thanh Niên
Cách Mạng Ðồng Chí Hội. Cộng sản Việt Nam chia ra thành nhiều nhóm nhỏ.
Mãi đến năm 1930 Nguyễn Ái Quốc mới thống nhất được các phe nhóm khác
nhau dưới nhãn hiệu Ðông Dương Cộng Sản Ðảng. Ðến tháng Tư năm 1931 Ðông
Dương Cộng Sản Ðảng chính thức được Ðệ Tam Quốc Tế công nhận (Nghiêm
Xuân Hồng, tt.41-43).
Một cách khách quan, tôi cho rằng Hồ Chí Minh là một chính trị gia lão
luyện, không những của Việt Nam mà có thể của thế kỷ 20. Trên phương
diện này ông vượt lên trên các nhà cách mạng quốc gia chân chính như
Nguyễn Tường Tam (Ðại Việt Dân Chính Ðảng), Trần Trung Lập và Ðoàn Kiểm
Ðiểm (Việt Nam Phục Quốc Hội), Trương Tử Anh (Ðại Việt Quốc Dân Ðảng),
Lý Ðông A (Ðại Việt Duy Dân Ðảng), Nguyễn Hải Thần (Việt Nam Cách Mạng
Ðồng Minh Hội), Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc Dân Ðảng)…
Phần lớn chúng ta đều có nhận xét rằng, những thắng lợi của Hồ Chí Minh
hoàn toàn lệ thuộc vào chiến thắng của Mao Trạch Ðông tại Hoa Lục năm
1949.
Tuy nhiên đánh giá như thế là hẹp cho ông.
Dĩ nhiên sự thành công của đảng CSTQ là một lợi điểm có tính cách chiến
lược cho CSVN. Ðiều này giúp Hồ Chí Minh thanh toán trọn vẹn các phe
nhóm quốc gia đối lập và toàn diện lãnh đạo cuộc chiến chống thực dân,
đưa đến chiến thắng Ðiện Biên Phủ năm 1954. Tuy nhiên sự lão luyện của
ông đã được biểu hiện trước khi Mao Trạch Ðông chiến thắng tại Hoa Lục
rất lâu.
Trước hết từ ngày 8/9/1941 Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra chiêu bài Cộng Sản
không được toàn dân ủng hộ. Muốn sống còn cần phải đội lốt quốc gia một
cách khéo léo. Chính vì thế vào ngày này ông cho ra đời Việt Nam Ðộc
Lập Ðồng Minh Hội dưới chiêu bài là một mặt trận gồm nhiều thanh phần
kháng Pháp khác nhau nhưng bên trong do CSVN nắm giữ hoàn toàn. Tổ chức
này là phong trào Việt Minh.
Trong khi hàng ngũ các đảng phái quốc gia chia rẽ và thiếu tổ chức
chuyên nghiệp thì CSVN xâm nhập mọi tầng lớp xã hội, phát triển cơ sở hạ
tầng. Ðến tháng 8 năm 1945 khi Nhật Bản đầu hàng Ðồng Minh thì chính
trường Việt Nam bỏ trống. Chính Phủ Trần Trọng Kim ngơ ngác. Các đảng
phái quốc gia thiếu viễn kiến và chậm tay. Trong khi đó Việt Minh đã
cướp thời cơ và cướp luôn chính quyền, buộc hoàng triều Bảo Ðại thoái
vị.
Tuy nhiên Thực Dân Pháp với sự ủng hộ của Anh Quốc và theo chân quân Anh chiếm Sài Gòn, các tỉnh lỵ Nam Bộ và miền Trung.
Chỉ sau khi Thực Dân Pháp và Việt Minh đã ổn định các vùng ảnh hưởng của
họ, thì các đảng phái quốc gia mới kéo quân về từ Trung Quốc. Dưới sự
bảo trợ của Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) ảnh hưởng của họ rất
mạnh và đã chiếm được một số tỉnh miền Bắc, có thể lợi dụng sự tương
tranh giữa Việt Minh và Pháp để phát triển.
Tuy nhiên, vào giai đoạn hiểm nguy nhất cho đảng CSVN này (từ 1945 đến
1949) Hồ Chí Minh đã chứng tỏ sự lão luyện của mình. Ông lừa gạt được
các chính đảng quốc gia (qua một chính phủ liên hiệp), ký hoà ước
Sainteny với người Pháp và lừa luôn cả Tưởng Giới Thạch (để Họ Tưởng rút
quân về Trung Quốc). Khi Họ Mao chiến thắng tại Trung Quốc năm 1949 thì
cái chết đã gần kề cho các chính đảng quốc gia (NXH, t.65-72).
Như là một chính trị gia, không ai có thể chối cãi tính cách “lão luyện
giang hồ” để sống còn và ngự trị trên chính trường của ông.
Tuy nhiên, câu hỏi quan trọng nhất mà lịch sử sẽ nêu ra để đánh giá công
lao của ông Hồ đối với dân tộc Việt Nam sẽ vô cùng cụ thể và hoàn toàn
không nên căn cứ vào sự lão luyện giang hồ đó:
Ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN mà ông xây dựng có đem lại độc lập, tự do
và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam như chiêu bài CSVN nêu ra hay không?
Thực ra vào tiền bán thế kỷ 20, khi các quốc gia Ðông Á thức tỉnh trước
sự tụt hậu của mình và muốn thoát khỏi sự đô hộ hoặc chèn ép của ngoại
bang, thì giới sĩ phu có hai con đường chính để chọn lựa:
Một là canh tân hệ thống kinh tế và chính trị đất nước theo mô thức tư
bản của các nước Tây Phương. Hai là đi theo con đường chuyên chính vô
sản của Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Hai con đường hoàn toàn khác nhau về
bản chất và đòi hỏi những cấp độ hy sinh khác nhau.
Con đường tư bản đòi hỏi:
a. Trên phương diện kinh tế một trật tự xã hội mới, trong đó vai trò của
các giai cấp thương, công, nông sẽ được nâng cao. Vai trò của giai cấp
kẻ sĩ sẽ không còn trên đỉnh cao tuyệt đối của xã hội.
b. Trên phương diện chính trị, một sự đoạn tuyệt với chế độ quân quyền
và sự thành lập một chế độ cộng hoà, hoặc quân chủ lập hiến, trong đó
các chính đảng có thể cộng sinh.
c. Trên phương diện văn hoá, nền văn hoá truyền thống vẫn được tiếp nối.
Tam giáo (Phật Lão Khổng) vẫn hướng dẫn tâm linh của dân tộc, cùng với
những tôn giáo Tây Phương như Thiên Chúa Giáo, trong tinh thần bình đẳng
và hài hoà truyền thống.
d. Nền độc lập và nền tảng dân tộc tự quyết không thay đổi, nếu không
nói là sẽ được củng cố qua sự phát triển và cường thịnh kinh tế của quốc
gia.
Mặc dầu trên phương diện kinh tế có sự tái phối trí về đẳng cấp giữa các
giai cấp xã hội truyền thống (sĩ, nông, công, thương), nhưng sự cải tổ
có tính cách tiệm tiến và là một sự tiếp nối tự nhiên của xã hội truyền
thống khi chuyển sang tư bản. Cũng như những quốc gia Tây Phương tân
tiến cũng chỉ là những sự tiếp nối tự nhiên của xã hội truyền thống của
họ. Có khác chăng là ở nhịp độ nhanh chóng hơn vì sự du nhập của các kỹ
thuật tân tiến tây phương vào một xã hội nông nghiệp mà thôi.
Ngay cả trên phương diện chính trị, sự đoạn tuyệt với chế độ quân quyền
chuyên chính cũng không tạo ra những khủng hoảng trong tâm thức quần
chúng vì nhiều thập niên đã qua từ khi người Pháp đô hộ Việt Nam từ năm
1884, các tư tưởng dân chủ đã luân lưu trong tâm thức của dân tộc Việt
Nam và được chấp nhận.
Trong bối cảnh kinh tế và chính trị đó, con đường tư bản Tây Phương có
thể phát triển xứ sở mà không đánh mất nền văn hoá Ðông Á truyền thống
của dân tộc. Ðó là con đường của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi và nhất
là Tôn Dật Tiên của Trung Hoa Dân Quốc đang tồn tại tại Ðài Loan. Ðó
cũng là con đường của Nhật Bản và Nam Hàn hiện nay. Đó cũng chính là con
đường của hai nhà đại chí sĩ chân chính của dân tộc là Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh chủ trương.
Con đường chuyên chính vô sản trái lại đòi hỏi nhiều và khắt khe hơn:
a. Trên phương diện kinh tế, một cuộc các mạng vô sản toàn diện. Cuộc
cách mạng vô sản này vô cùng khốc liệt và tàn nhẫn, đánh bật tận gốc rễ
toàn thể trật tự kinh tế và xã hội cổ truyền. Giai cấp công nhân vô sản
sẽ ngự trị. Mọi giai cấp khác sẽ bị triệt tiêu.
b. Trên phương diện chính trị, một mô hình chuyên chính vô sản, độc tài
đảng trị vô tiền khoáng hậu được áp đặt. Ðây chính là tác phẩm của nhà
độc tài Lê Nin. Mọi đảng phái đối lập đều bị tiêu diệt và nhà nước sẽ
khống chế xã hội dân sự tuyệt đối. Ðảng Cộng Sản là trung tâm quyền lực
duy nhất và sẽ thiên thu trường trị, bao lâu mà thiên đường cộng sản
chưa đạt đến.
c. Trên phương diện văn hoá thì mọi nền văn hoá tiền-cộng-sản đều phải
triệt tiêu. Mọi tôn giáo đều là phản động và phản cách mạng. Tôn giáo là
thuốc phiện của quần chúng. Chỉ có một văn hoá có thể tồn tại: Ðó là
văn hoá Mác Xít. Giai cấp nghệ sĩ không còn tự do sáng tác mà phải là
công cụ của Ðảng để tiêu diệt nền văn hoá truyền thống và xây dựng nền
văn hoá Mác Xít.
d. Khái niệm quốc gia độc lập và quyền tự quyết dân tộc hoàn toàn đi
ngược ý thức hệ Mác Xít, có tính cách phản động và phải bị triệt tiêu.
Cộng sản chủ nghĩa là một chủ nghĩa có tính cách quốc tế. Sự thành lập
Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, hoặc Ðệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản là thể hiện mục
đích bất di bất dịch đó.
Trước ngưỡng cữa của tiền bán thề kỷ 20, sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh
và các lãnh tụ quốc gia như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Thái
Học, Lý Ðông A nằm ở sự chọn lựa khác biệt này. Mặc dù họ không lão
luyện giang hồ như Hồ Chí Minh, nhưng họ là những sĩ phu phát xuất từ xã
hội truyền thống, họ yêu mến chân thật nền văn hoá của dân tộc họ và họ
quyết sống còn với nền tự chủ và vận mệnh của dân tộc họ. Tuy họ chia
rẽ, thiếu kỷ thuật đấu tranh và quyết đoán vào một giai đoạn quan trọng
của lịch sử, nhưng họ đã có minh trí và cảm nhận được nơi lý thuyết Mác
Lê, tính hủy diệt và phi dân tôc của nó. Mặc dù sức cám dỗ của lý thuyết
này vào tiền bán thế kỷ 20 rất lớn, họ đã không bị cám dỗ.
Ở điểm chiến lược và quyết định này, họ sáng suốt hơn Hồ Chí Minh. Họ
xứng đáng là những người yêu nước chân chính hơn Hồ Chí Minh vì vào
điểm giao thời khó khăn đó, họ vẫn còn vững niềm tin nơi dân tộc họ.
Hồ Chí Minh, ngược lại, từ nguyên thủy đã mất niềm tin vào chính nền
văn hoá của tổ tiên, đã không còn hãnh diện về một quốc gia Việt Nam độc
lập và tự quyết nữa. Một kẻ vong thân như thế sẽ dễ dàng bị lý thuyết
Mác Lê cám dỗ.
Chúng ta có thể kết luận rằng Hồ Chí Minh là một kẻ lão luyện giang hồ,
nhưng thiếu viễn kiến. Ông đã không nhìn ra tính phi nhân nội tại của Lý
Thuyết Cộng Sản này, sự sụp đổ tất nhiên của nó 70 năm sau tại Liên Xô
và tác hại của nó đối với nền độc lập và tự chủ của dân tộc.
Tệ hơn nữa trên phương diện này, ông hoàn toàn thua kém Mao Trạch Ðông.
Theo truyền thống của Ðệ Tam Quốc Tế, cả đảng CSTQ lẫn đảng CSVN, khi
mới thành lập, đều phải chịu sự điều hành của Ðệ Tam Quốc Tế trên lý
thuyết (tuy nhiên trên thực tế họ phải chịu sự điều hành của đảng CS
Nga). Chính vì thế chúng ta nhận thấy sự hiện diện của Borodine khi Hội
Á-Tế-Á-Nhược-Tiểu-Dân-Tộc (tiền thân đảng CSVN) được hình thành (1925)
và sự hiện diện của Maring khi đảng CSTQ hình thành (1921).
Tuy nhiên cái hay của Mao Trạch Ðông là sau đó đã thanh trừng ra khỏi
hàng ngũ Ðảng CSTQ những phần tử thân Nga Sô. Họ Mao cũng là một lý
thuyết gia lỗi lạc, không những lập thuyết mà còn chuyển hoá lý thuyết
Mác Xít để áp dụng thực tế vào hoàn cảnh và văn hoá Trung Quốc.
Trong khi đó, Hồ Chí Minh không có khả năng tư duy lập thuyết. Ông chấp
nhận làm một học trò chăm chỉ và trung thành của Mác, Lê, Stalin và cả
Mao Trạch Ðông. Ông theo khuôn mẫu của Liên Xô trọn vẹn. Mô hình Liên Xô
chú trọng đến sự kiểm soát nội bộ đảng cũng như xã hội bằng công an mật
vụ và sự ưu việt của ngành này trong đảng. Mô hình Trung Quốc thì xử
dụng và dựa vào quân đội nhiều hơn.
Chính vì thế, tại Việt Nam, những thành phần lãnh đạo công an như Lê
Duẩn, Lê Ðức Thọ (thân Nga) nắm quyền tuyệt đối. Hậu quả là sau khi Hồ
Chí Minh qua đời, những thành phần tương đối có tinh thần dân tộc như Võ
Nguyên Giáp bị chèn ép dữ dội và lép vế. Hậu quả là đảng CSVN luôn luôn
thiếu sáng tạo, bắt chước Nga Sô, và sau khi CS Nga Sô triệt tiêu, đi
sau học đòi Trung Quốc trên mọi phương diện như những con vẹt thiếu khả
năng tư duy độc lập.
Chẳng hạn năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Ðặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã
thức tỉnh và quyết tâm đổi mới. Ðảng CSVN vẫn cố chấp và bảo thủ. Mãi
đến năm 1985, sau khi Gorbachev phát động chính sách đổi mới tại Liên Xô
thì CSVN mới theo đuôi. Kết quả chậm hơn Trung Quốc 10 năm.
Với sự sụp đổ của Liên Xô trong thập niên 90, CSVN lại nghiêng về Trung
Quốc. Có thể nói rằng, đảng CSVN là một sự nối dài của sự thiếu viễn
kiến và lệ thuộc ngoại bang của Hồ Chí Minh từ thủa ban sơ. Tất cả mọi
chính sách của đảng CSVN từ trước đến nay đều cóp nhặt hoặc của Liên Xô
hoặc của Trung Quốc, từ lúc Hồ Chí Minh còn sanh tiền cho đến lúc nhóm
hậu duệ của ông nắm quyền.
Hồ Chí Minh có đem lại tự do cho người dân Việt Nam hay không thì thật
là rõ rệt. Ngày hôm nay, Việt Nam là một trong một số ít quốc gia chuyên
chính vô sản nghèo nàn còn lại trên thế giới. Hiến Pháp Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa VN năm 1992 có thêm điều 4 ghi rõ sự độc quyền của đảng Cộng
Sản trên chính quyền và xã hội dân sự. Điều này tiếp tục được duy trì
bằng mọi giá trong bản hiến pháp 2013.
Những hậu duệ của Hồ Chí Minh như Lê Duẩn, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông
Ðức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng etc… là những nhà độc tài bảo thủ hiếm hoi
của nhân loại trong thiên niên kỷ mới. Chúng ta có thể đánh giá dân Việt
có tự do hay không qua nhận định sau đây ngày 5 tháng 4, 2007 của ông
Michael Marine, Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, nhân dịp Linh Mục Công Giáo
Nguyễn Văn Lý bị bạo hành, bịt miệng trước tòa, không được quyền mặc áo
dòng, không được quyền có luật sư biện hộ và sau đó bị kết án 8 năm tù:
“Ðáng tiếc thay hôm nay ngày càng có nhiều cá nhân bị tù đày hoặc
quản chế tại Việt Nam trong khi họ chỉ có tội phát biểu quan điểm một
các ôn hòa. Trong những người này có nhà báo Nguyễn Vũ Bình, Luật Sư Lê
Thị Công Nhân, Luật Sư Nguyễn Văn Ðài, nhà tranh đấu cho quyền lợi đất
đai Bùi Kim Thanh, luật sư Lê Quốc Quân và Linh Mục Công Giáo Nguyễn Văn
Lý.
"Thật vậy, Cha Lý vừa bị kết án 8 năm tù, một bản án kỳ khôi vì tội
của Ông ta chỉ là nói lên quan điểm một cách ôn hòa bênh vực cho những
cải tổ chính trị. Trong tinh thần khuyến khích sự phát triển và hội nhập
của Việt Nam vào trào lưu quốc tế, chính quyền CSVN phải trả tự do ngay
cho các cá nhân này và những cá nhân khác. Chính quyền CSVN phải xúc
tiến duyệt xét và rút lại những luật pháp, cho phép sự phát biểu những
quan điểm ôn hòa, ngay cả nếu những quan điểm này chỉ trích chính quyền.
(và) những quan điểm như thế không còn trái với luật pháp nữa.”
Ngoài ra, những cuộc bầu cử quốc hội theo lối đảng cử dân bầu, lần cuối
cùng diễn ra vào ngày 22 tháng 5, 2016 trong đó, toàn dân bị tước đoạt
quyền ứng cử qua vai trò chọn lọc ứng viên của Mặt Trận Tổ Quốc, rõ ràng
khinh bỉ sự thông minh của toàn thể dân tộc, trong thời đại tin học
toàn cầu, không còn lừa gạt được ai.
Nếu chúng ta đánh giá Hồ Chí Minh qua hậu duệ của ông thì số điểm của ông càng thấp hơn nữa.
Ông có đem lại hạnh phúc cho dân tộc hay không được đánh giá qua các sự kiện sau đây:
a. Về phương diện phát triển kinh tế, hiện tại, trong các quốc gia khu
vực Ðông Á như Trung Quốc, Bắc Hàn, Nam Hàn, Ðài Loan, Nhật Bản, Hồng
Kông thì Việt Nam chỉ hơn được Bắc Hàn một chút. Lý do là vì CS Bắc Hàn
có một chế độ độc tài đảng trị tàn độc và điên rồ nhất nhân loại. Ngoài
ra, nếu tiếp tục theo chế độ hiện giờ thì khoảng từ 50 đến 100 năm sau
dân tộc chúng ta mới bắt kịp các nước không cộng sản trong khu vực.
b. Ðành rằng về phương diện nhân quyền và dân quyền thì dân Việt đã vô
cùng hẩm hiu. Về phương diện chủ quyền thì CSVN muối mặt dâng đất và
lãnh hải cho Trung Quốc để được bình yên cai trị dân chúng, tham nhũng
vơ vét công khố. Tuy nhiên không có gì đáng xấu hổ bằng, trong thời đại
thặng dư tin học này, mà các hậu duệ của Hồ Chí Minh lại bày vẽ các tấn
tuồng lố bịch để xiển dương chế độ, nhưng kỳ thực bêu xấu cho toàn dân
trên trường quốc tế. Một trong những ví dụ điển hình và xấu hổ nhất là
ai cũng nhận thấy Việt Nam hiện nay là một chế độ chuyên chính, độc đảng
và thủ tục bầu cử chỉ là một tấn tuồng trơ trẽn, đảng chọn sẵn cho dân
bầu.
c. Dân tộc Việt Nam từ bao nhiêu ngàn năm đã chứng tỏ là một dân tộc can
trường và bất khuất, nhất là khi đứng lên chống lại ngoại xâm hoặc bảo
vệ tổ quốc. Từ nhiều đời các lực lượng vũ trang và an ninh luôn luôn đại
diện cho toàn dân, trung thành với dân tộc và bảo vệ cho công lý. Ðó
cũng là trào lưu hiện đại của nhân loại vào thế kỷ 21. Chỉ riêng tại
Việt Nam Quân Ðội và Công An mang tiếng là của nhân dân, nhưng kỳ thực
chỉ là những tên đầy tớ trung thành của một đảng cướp có võ trang mà
thôi. Một trong những tội lớn nhất của hậu duệ của Hồ Chí Minh là biến
bản chất anh hùng và bất khuất của quân đội thành những tên nô bộc của
một chế độ độc đảng. Trong khi quân đội và các lực lượng an ninh của các
quốc gia khác trên thế giới ngẩng mặt tự hào, thề trung thành với hiến
pháp và tổ quốc của họ, đứng bên trên và bên ngoài các tranh chấp trên
chính trường, bảo vệ trật tự xã hội và lãnh thổ quốc gia, thì tại Việt
Nam trên thực tế họ là gia nô cho những gương mặt như Nông Ðức Mạnh và
Nguyễn Phú Trọng...
d. Trong một kỷ nguyên mà khoa học soi sáng con đường cho mọi dân tộc,
sự khai phóng và mở mang trí tuệ toàn dân, sự đả phá những huyền thoại
hoang đường là kim chỉ nam cho các nhà lãnh đạo đất nước, thì tại Việt
Nam, đám hậu duệ của Hồ Chí Minh lại muốn phù phép, phong thần phong
thánh cho ông. Không phải vì họ thực sự tôn sùng ông, nhưng chỉ vì có mê
hoặc, ngu muội được dân trí thì chế độ độc tài đảng trị mới được trường
tồn, những lãnh đạo chóp bu mới còn có cơ hội vơ vét công quỹ và xương
máu của dân đen.
e. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, các đồ đệ của ông từ Lê
Duẩn đến Nguyễn Phú Trọng, đều tiếp tục di sản tinh thần của ông qua
công hàm bán nước của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958, có hậu quả
bán Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Họ liên tục nhượng các hải
đảo, vùng đất và vùng biển cho Trung Quốc, hầu duy trì sự ủng hộ của kẻ
thù truyền kiếp của dân tộc và qua đó, duy trì quyền lực độc tôn tại
Việt Nam, trong một thời điểm trọng yếu của lịch sử, khi Trung Quốc bị
công pháp quốc tế giáng một đòn sấm sét, qua phán quyết của Tòa Trọng
Tài Thường Trực Quốc Tế ngày 12 tháng 7 năm 2016, vô hiệu hóa toàn diện
tính pháp lý của đường Lưỡi Bò TQ trên Biển Đông. Gần đây nhất, TBT
Nguyễn Phú Trọng lại sang chầu TQ, ký thêm 15 hiệp ước song phương tăng
cường sự lệ thuộc vào TQ, kể cả công tác huấn luyện cán bộ lãnh đạo cấp
cao của đảng.
Hiện tình đất nước như thế phát xuất từ quyết định của Hồ Chí Minh, vào
năm 1925, gia nhập phong trào Cộng Sản Quốc Tế, thay vì noi gương các cụ
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các lãnh tụ quốc gia kháng Pháp khác.
Không có Hồ Chí Minh thì đất nước chúng ta ngày hôm nay đã qua mặt
Thái Lan, Mã Lai và ít nhất phải sánh vai cùng Nam Hàn, Ðài Loan, Hồng
Kông và Nhật Bản rồi.
Bước đi sai lầm của ông ta đã di họa cho nhiều thế hệ dân tộc Việt Nam là như thế.
(Chú Thích: Bài nguyên thủy Viết Cho Tuyển Tập “Sự Thật Về Hồ Chí
Minh” Trong Chiến Dịch “Tẩy Trừ Huyền Thoại Giả Trá Hồ Chí Minh” của
Phong Trào Sài Gòn)