Khi nào “thái tử Đảng” đi tị nạn Cộng sản ? (TS Phạm Đình Bá)

 (VNTB) – Trong khi những người tị nạn 1975 rời đi để tìm tự do khỏi chế độ cộng sản, thì lớp “thái tử Đảng” hôm nay ra đi để hưởng tự do mà vẫn giữ được đặc quyền kinh tế chính trị tại quê nhà.

Làn sóng Thuyền nhân 1975-1990

Trong bài viết “Di sản quyền lực: Khi con cái lãnh đạo chọn rời đi” đăng trên Tiếng Dân (06/08/2025), nhà báo Lê Thọ Bình đặt câu hỏi: vì sao quyền lực chính trị không đủ sức “giữ nổi gia đình”, khiến nhiều con em lãnh đạo cấp cao rời Việt Nam để định cư hoặc học tập ở các nước tự do. 

Nhưng đây không chỉ là câu chuyện gia đình. Đây là một tấm gương phản chiếu những đứt gãy giữa lời nói và việc làm, giữa hệ giá trị công khai và lựa chọn riêng tư của giới tinh hoa chính trị. Khi quyền lực không còn giữ nổi gia đình ở lại, người ta buộc phải hỏi: hệ thống ấy giữ nổi điều gì?

Gia đình cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có các ông Nguyễn Thanh Nghị – Bộ trưởng Xây dựng, Tiến sĩ Kỹ thuật dân dụng Đại Học George Washington, Hoa Kỳ; ông Nguyễn Minh Triết – tốt nghiệp ngành hàng không tại Queen Mary University of London, Anh Quốc; và bà Nguyễn Thanh Phượng – Chủ tịch VietCapital, kết hôn với doanh nhân mang quốc tịch Hoa Kỳ Nguyễn Bảo Hoàng.

Nhiều báo độc lập cáo buộc gia đình cựu Chủ tịch nước – Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sở hữu hai biệt thự tại Anaheim, California qua công ty “nặc danh”, đồng thời con trai ông từng du học Mỹ từ năm 2009.

Những ví dụ trên cho thấy lựa chọn “đi Tây” không còn là ngoại lệ mà đã trở thành mô thức phổ biến của giới tinh hoa chính trị trong Đảng.

Làn sóng du học – định cư của tầng lớp ưu tú có quy mô rộng. Hiện có khoảng 150.000–190.000 sinh viên Việt Nam đang học ở nước ngoài, tăng mạnh sau bình thường hóa quan hệ Việt–Mỹ. Riêng năm 2024, gần 40.000 visa sinh viên được cấp cho người Việt vào bốn điểm đến Anh, Úc, Mỹ, Canada. 

Cha mẹ chi xấp xỉ 3 tỷ VND (đồng) mỗi năm cho du học, mức chi cao nhất Đông Nam Á tính theo đầu người. Phần đáng kể trong nhóm này là con cháu cán bộ cao cấp, bởi chỉ họ mới đủ điều kiện tài chính và “con đường ưu tiên” để vượt qua hạn chế xuất cảnh áp dụng với viên chức bình thường.

Một tỷ lệ đáng kể người đi bằng ngân sách hoặc bằng tiền gia đình chọn con đường không quay về. Các chương trình gửi người đi đào tạo phục vụ công vụ từng ghi nhận hiện tượng “không hồi hương” ở mức cao – một dạng thất thoát nguồn lực lẫn kỳ vọng.

Việc thái tử đảng đi tị nạn ở các nước tự do dân chủ cho thấy mâu thuẫn ý thức hệ. Lãnh tụ nói ghét nhưng con cháu và chính trong lòng họ có thể mong muốn được sống trong tự do cho cá nhân và gia đình họ. 

Trong các tuyên bố chính thống, lãnh đạo luôn ca ngợi “ưu việt xã nghĩa” và phê phán “diễn biến hòa bình” từ phương Tây. Thế nhưng chính họ lại chọn nền giáo dục, pháp quyền và môi trường sống của các nước dân chủ cho con cái mình. Điều này khoét sâu khoảng cách niềm tin giữa dân và Đảng. 

Với hiện tượng thái tử Đảng đi tị nạn cộng sản, Đảng đang có vấn đề to về tính chính danh. Một trật tự chính trị khó thuyết phục khi ngay chính người kiến tạo nó không đặt tương lai con cái mình trong trật tự ấy. “Nói một đằng, làm một nẻo” làm xói mòn niềm tin về tính chính danh của Đảng.

Bản bên dưới so sánh Thế hệ du học/định cư ưu tú (1995-nay) với làn sóng tị nạn sau 1975. Bản này chỉ rõ khoảng cách thế hệ và cộng đồng khi lớp người đi sau, nhiều người là con em hệ thống, đến sống trong các cộng đồng người Việt hải ngoại vốn có ký ức tị nạn. Sự ngờ vực, xa cách chính trị là có thật. 

Hai cộng đồng Việt ngoài nước – một chống cộng từ căn cốt, một ít nhiều hưởng lợi từ nhà nước hiện thời – phải học cách cùng tồn tại.

Tiêu chíNgười tị nạn (1975-1995)Thế hệ du học/định cư ưu tú (1995-nay)
Số lượng> 1,4 triệu người vượt biên, ODP, HO≈ 500.000 trí thức trẻ đang/đã học tập ở nước ngoài
Động cơTrốn cộng sản tìm tự doTìm cơ hội, bảo toàn tài sản, “bước chuẩn bị” cho gia đình
Thành phầnChủ yếu dân thường, quân đội và nhân viên trong Chính phủ Việt Nam Cộng HòaCon cháu lãnh đạo, giới trung-thượng lưu đô thị
Thái độ chính trịChống cộng mạnh mẽPhần lớn dè dặt, thân hoặc trung lập với chính quyền hiện tại

Vì sao làn sóng tị nạn cộng sản vẫn tiếp diễn bây giờ và trong tương lai? Thứ nhất là chênh lệch chất lượng về giáo dục, y tế, môi trường pháp quyền, và đời sống ở phương Tây, trái ngược hẳn với mức độ cẩu thả trong cái gọi là “xã nghĩa” bên nhà. 

Thứ hai là cửa ngách thể chế; việc giám sát và ràng buộc “trên giấy” ít khi chạm tới đỉnh tháp. Khi chế tài chọn lọc, kênh lách luật trở thành kỹ năng phổ biến của giới có điều kiện. 

Thứ ba là lợi ích gia tộc; lãnh đạo Đảng đang tìm cách đa dạng hóa nơi ở – tài sản – hộ chiếu. Đây chính là chiến lược “bảo hiểm rủi ro” của nhiều gia đình quyền lực ở các nước độc đoán. Trường hợp ông Nguyễn Xuân Phúc là điển hình. Nếu Tô Lâm khiển trách ông Phúc nhiều hơn nữa vì quá khứ làm việc có vấn đề, có lẽ ông Phúc sẽ đi tị nạn cộng sản.

Little Saigon (Westminster, California)

Hiện tượng thái tử Đảng đi tị nạn cộng sản có hệ lụy tiêu cực đến đời sống dân thường khi họ phải chịu kẹt lại với cộng sản bên nhà. 

Việt Nam hiện đang chảy máu chất xám kép, sinh viên giỏi không hồi hương; ngược lại, nhiều người mang kiến thức phục vụ các nước tự do dân chủ nơi họ định cư.

Tuy Đảng ráng sức bao che trên báo chí và mạng chính thống về hiện tượng này, nhưng sự thật về thái tử Đảng bỏ phiếu bất tín nhiệm cha ông mình không dễ che dấu đối với dư luận trong nước. Khi tầng lớp cầm quyền gửi con sang “thế giới tự do”, thông điệp “kiên định con đường xã nghĩa” trở nên điều dối trá. 

Cụ thể hơn nữa, hiện tượng này gia tăng bất bình đẳng. Người dân bình thường bị siết thủ tục xuất cảnh, còn con cháu quan chức có “hộ chiếu hai hệ”, về quyền lực lẫn ngoại tệ. Đây là vết thương mở, mỗi chuyến bay một chiều của con cháu lãnh đạo đặt thêm câu hỏi về chất lượng thể chế, bình đẳng cơ hội, và tầm nhìn quốc gia. 

Nhưng nó cũng là cơ hội. Nếu nhìn thẳng, đất nước rất cần cải cách giáo dục thực chất, cải thiện môi trường pháp quyền, nâng chuẩn minh bạch – giải trình, thu hẹp đặc quyền đặc lợi. Nếu đất nước coi trọng hồi hương tri thức, thì ưu tiên phải đặt nặng vào xây cơ chế “đi – về” linh hoạt, định danh tài năng theo năng lực thay vì theo lý lịch, bảo đảm an toàn nghề nghiệp và không gian tự do học thuật.

Qua bài “Di sản quyền lực”, nhà báo Lê Thọ Bình đặt đúng vấn đề. Quyền lực chính trị không đủ “giữ” gia đình lãnh đạo trong biên giới quốc gia. Trái lại, chính “di sản quyền lực” – gồm đặc quyền tiếp cận nguồn lực, ngoại tệ, quan hệ quốc tế – đã tạo bệ phóng để thế hệ kế cận dịch chuyển sang không gian dân chủ mà họ coi là an toàn hơn.

Trong khi những người tị nạn 1975 rời đi để tìm tự do khỏi chế độ cộng sản, thì lớp “thái tử Đảng” hôm nay ra đi để hưởng tự do mà vẫn giữ được đặc quyền kinh tế chính trị tại quê nhà. Sự tương phản này phơi bày nghịch lý lớn nhất của Đảng: một hệ thống đang bị chính con em mình “bỏ phiếu bằng chân” trong im lặng.

TS Phạm Đình Bá

Nguồn: vietnamthoibao.org