Đảng Cộng Sản Việt Nam bước vào tuổi 94, ngoan cố tới cùng ? (Nguyễn Gia Kiểng)

Nghiêm trọng hơn nữa là quyết định của Đại 6 của Quốc Tế Cộng Sản năm 1928 theo đó người cộng sản chỉ có một tổ quốc là Liên Xô. Đa số các đảng cộng sản, trong đó có Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã chấp nhận quy định này dù thực tình hay miễn cưỡng vì đó là điều kiện để được là thành viên của Quốc Tế Cộng Sản và được Liên Xô tài trợ.



Hôm nay, 03/02/2023, Đảng Cộng Sản Việt Nam kỷ niệm 93 năm ngày thành lập. Đây là dịp để chúng ta cùng nhìn lại bản chất, hoạt động, di sản và hiện tình của nó. Không giản dị như nhiều người có thể nghĩ. Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam rất phức tạp và lại bị xuyên tạc, để tôn vinh cũng như để phỉ báng, cho nên trước hết cần một cái nhìn rất bao quát.

dcs1

Tại sao lấy tên Xô Viết Nghệ Tĩnh ? Đó là vì Đảng Cộng Sản được thành lập như một bộ phận của Liên Xô, lấy Liên Xô làm tổ quốc.

DNA của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Cũng giống như ngày sinh của ông Hồ Chí Minh, ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam không rõ rệt. Mãi tới năm 1960 họ mới chọn ngày 03/02/1930, trước đó trong 30 năm họ nói đảng được thành lập ngày 06/01/1930. Điều chắc chắn là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra đời trong một hội nghị tại Hồng Kông từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930 như một phân bộ của Quốc Tế Cộng Sản (hay Đệ Tam Quốc Tế) theo một chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản chứ không phải như một chính đảng Việt Nam ; điều này cần được nhấn mạnh vì nó có ảnh hưởng rất quan trọng lên các định hướng chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này. Tên đảng mới đầu là Đảng Cộng Sản Việt Nam, sau đổi thành Đảng Cộng Sản Đông Dương theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản ; đảng giả vờ giải tán năm 1945, tái xuất hiện năm 1951 dưới tên Đảng Lao Động Việt Nam, sau cùng từ năm 1976 lại lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Phải hiểu Quốc Tế Cộng Sản (cũng thường được gọi là Đệ Tam Quốc Tế) để hiểu Đảng Cộng Sản Việt Nam. Quốc Tế Cộng Sản được Lenin thành lập năm 1919 sau khi giành được chính quyền tại Nga để chối bỏ Quốc Tế Xã Hội Chủ Nghĩa (hay Đệ Nhị Quốc Tế) như là liên minh quốc tế của những đảng ít nhiều tán thành lý thuyết của Karl Marx. Như vậy ngay từ đầu hai khái niệm Cộng Sản và Xã Hội (hay Xã Hội Chủ Nghĩa) đã khác nhau, thậm chí kình địch với nhau.

Đặc tính đầu tiên của Quốc Tế Cộng Sản, được ghi rõ trong 21 điều kiện gia nhâp, là nó không chỉ chống giới chủ nhân mà còn loại trừ hai giai cấp tiểu tư sản và trí thức.

Quan trọng hơn là nguyên tắc dân chủ tập trung mà nhiều người thường nhắc đến dù chưa hiểu rõ nghĩa. Nguyên tắc này được quyết định trong Đại Hội 5 của Quốc Tế Cộng Sản năm 1924. Nó quy định rằng trong các đảng cộng sản chỉ có một lập trường chính trị duy nhất do đa số quyết định, và vì trong một chế độ cộng sản chỉ có một đảng thôi nên lập trường đó cũng là lập trường chính trị duy nhất trong cả nước. Đó chính là định nghĩa của chủ nghĩa nhất nguyên.

Nghiêm trọng hơn nữa là quyết định của Đại 6 của Quốc Tế Cộng Sản năm 1928 theo đó người cộng sản chỉ có một tổ quốc là Liên Xô. Đa số các đảng cộng sản, trong đó có Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã chấp nhận quy định này dù thực tình hay miễn cưỡng vì đó là điều kiện để được là thành viên của Quốc Tế Cộng Sản và được Liên Xô tài trợ.

Tóm lại Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra đời không phải như một đảng Việt Nam để phục vụ đất nước Việt Nam mà như một bộ phận của Quốc Tế Cộng Sản lấy Liên Xô làm tổ quốc. Đó là gien (DNA) của Đảng Cộng Sản Việt Nam và giải thích các hoạt động sau này của nó. Cũng nên biết rằng cho tới nay đảng ca của Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn là bài Quốc Tế Ca với những lời ca như "chế độ xưa ta phá sạch tan tành (…), bao nhiêu lợi quyền ắt về tay mình".

Ngay sau khi thành lập, năm 1931, Đảng Cộng Sản Việt Nam phát động cuộc nổi dậy Xô Viết Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu "Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ", nghĩa là giết sạch trí thức, địa chủ và những người giầu hoặc có uy tín, theo đúng điều lệ của Quốc Tế Cộng Sản. Cuộc nổi dậy này đã bị dẹp tan trong một biển máu sau khi chính nó cũng đã tạo ra một biển máu. Tại sao lấy tên Xô Viết Nghệ Tĩnh ? Đó là vì Đảng Cộng Sản được thành lập như một bộ phận của Liên Xô, lấy Liên Xô làm tổ quốc. Những ai vào thăm viện bảo tàng của Đảng Cộng Sản còn có thể thấy lá cờ đỏ của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu "Vạn Tuế Sô Nga, Sô Nga Vạn Tuế".

Cái gien bẩm sinh Xô Viết, chứ không phải Việt Nam, giải thích tại sao Đảng Cộng Sản Việt Nam không lên án việc Nga xâm lăng Ukraine, đó là vì ơn sinh thành. Nó cũng sẽ giải thích tại sao Đảng Cộng Sản không ngần ngại gây ra cuộc nội chiến 30 năm (1945 – 1975) làm sáu triệu người chết, đất nước tan tành và hận thù chồng chất. Cuộc chiến này bắt đầu với cuộc tàn sát trên 100.000 người yêu nước trong các đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt và kết thúc, sau chiến thắng, với cuộc tập trung cải tạo –thực tế là bỏ tù và hạ nhục, làm kiệt quệ cả thân xác lẫn tinh thần- hàng trăm nghìn người tinh nhuệ nhất của miền Nam. Đó là vì quan tâm chính của họ không phải là đất nước Việt Nam mà là phong trào cộng sản quốc tế do Liên Xô lãnh đạo. Như ông Lê Duẩn đã từng nói : "ta đánh là đánh cho cả Liên Xô và Trung Quốc". Trước đó ông Hồ Chí Minh cũng đã từng tuyên bố dù sông có cạn, núi có mòn, nhiều thành phố có thể bị tiêu hủy nhưng quyết tâm chiến tranh của Đảng Cộng Sản không hề lay chuyển. Chắc chắn là có nhiều, rất nhiều, người thực sự yêu nước trong Đảng Cộng Sản, tôi đã từng gặp họ, nhưng tổ quốc của những người lãnh đạo cộng sản không phải là Việt Nam mà là Liên Xô, và tham vọng quyền lực.

Điều cũng đáng lưu ý là những văn kiện làm nền tảng cho sự thành lập Đảng Cộng Sản. Chúng gồm : Chính cương vắn tắt Sách lược vắn tắt Chương trình tóm tắt Điều lệ vắn tắt  của Đảng. Tất cả đều sơ sài. Có thể nói không sai chút nào là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã được thành lập bởi những người mê cuồng chủ nghĩa Marx vì thiếu cả văn hóa lẫn tinh thần dân tộc và lòng yêu nước. Nếu có một chút văn hóa họ đã phải biết rằng chủ nghĩa Marx đã bị chối bỏ ngay tại cái nôi của nó từ hơn một nửa thế kỷ trước rồi, trong Đai Hội Gotha tại Đức năm 1875 và đã không mê cuồng đến thế.

Lấy tội làm công

Giai đoạn kế tiếp là cuộc nội chiến 30 năm 1945 – 1975 mà Đảng Cộng Sản rất tự hào và cho rằng đó là thành tích lịch sử vẻ vang của họ. Họ chia làm hai giai đoạn chống Pháp giành độc lập (1945 – 1954) và chống Mỹ thống nhất đất nước (1954 – 1975).

Trước hết phải khẳng định hai điều :

- Một là đây là một cuộc nội chiến, bởi vì gần 99% những người đã chết, quân lính cũng như thường dân, đều là người Việt. Việc hai bên nhận viện trợ từ nước ngoài không thay đổi bản chất nội chiến. Vả lại sau này sự thật được phơi bày là đã có rất nhiều cố vấn Nga và Trung Quốc đã đến Việt Nam giúp phe cộng sản.

- Hai là đối với một dân tộc không có tội nào lớn hơn tội gây ra nội chiến. Nội chiến tai hại hơn rất nhiều so với một cuộc chiến tranh với nước ngoài ; nó không chỉ gây thiệt hại nhân mạng và vật chất mà còn làm rách nát tình cảm dân tộc, làm suy yếu nội lực và tiềm năng của đất nước một cách nghiêm trọng trong một thời gian rất dài. Kinh nghiệm của mọi dân tộc đều đã cho thấy rằng một nước dù chỉ trải qua một cuộc nội chiến ngắn cũng rất khó gượng dậy trong một thời gian rất lâu dù với một cố gắng hòa giải dân tộc rất tận tình. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã gây ra một cuộc nội chiến kéo dài 30 năm, sau đó đã hành quyết, bỏ tù, hạ nhục và phân biệt đối xử. Vết thương nội chiến vẫn còn nguyên vẹn.

Lý do chống Pháp của giai đoạn 1945 -1954 không đúng vì sau Thế Chiến II chủ nghĩa thực dân đã chính thức bị khai tử bởi bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập của Liên Hiệp Quốc mà Pháp đã góp phần chính trong việc soạn thảo. Độc lập của các dân tộc đã trở thành luật quốc tế. Pháp cũng đã chính thức trả độc lập cho Việt Nam năm 1948, chỉ còn vấn đề chuyển tiếp. Nếu độc lập là mục đích thì không cần chiến tranh nhưng mục tiêu của Đảng Cộng Sản là thiết lập chế độ cộng sản và bành trướng Quốc Tế Cộng Sản, và họ đã gặp sự chống đối của những người Việt Nam không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Nội chiến đã xảy ra vì thế.

Lý do chống Mỹ của giai đoạn sau càng vô lý hơn vì Mỹ hoàn toàn không phải là một nước thực dân và không hề có tham vọng bành trướng. Họ đã trả độc lập cho Philippines và liên tục từ chối yêu cầu được sáp nhập vào Mỹ của Porto Rico. Lý do chiến tranh cũng chỉ giản dị là vì Đảng Cộng Sản muốn áp đặt chủ nghĩa cộng sản.

Thành tích mà Đảng Cộng Sản tự hào -và trên thực tế cũng nhìn nhận là thành tích duy nhất của họ- thực ra là một tai họa khủng khiếp cho dân tộc. Tội lớn càng lớn hơn khi kẻ phạm không nhận tội mà còn huênh hoang.

Để đi đến kết quả nào ? Giai đoạn thứ ba, từ 1975 đến 1986, đã là giai đoạn vỡ mộng. Đảng Cộng Sản đã chiến thắng, đã thực hiện triệt để chủ nghĩa Mác Lênin trên cả nước và đã khiến đất nước phá sản hoàn toàn một cách nhanh chóng, gần như tức khắc. Năm 1979, khi tôi vừa đi tù cải tạo về, trên các đường phố Sài Gòn vẫn còn đầy rẫy những bảng hiệu hoành tráng chưa kịp kịp gỡ xuống ghi những mục tiêu thần thoại về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng trưởng kinh tế, tiến bộ văn hóa xã hội của kế hoạch 1976 -1980. Thật là lố bịch giữa một thành phố đang sa sút và đói khổ cùng cực. Dầu vậy Sài Gòn vẫn may mắn hơn các nơi khác. Trong một chuyến đi công tác tại Cần Giờ năm 1980, với tư cách là một chuyên gia nhà nước, tôi đã biết cả một gia đình chết đói ngay cạnh chỗ làm việc của tôi. Tôi cũng được biết nhiều trường hợp chết đói khác ở nhiều nơi. Sự phá sản đã bi đát và rõ ràng đến nỗi không một quan chức cộng sản nào có thể phủ nhận. Nhưng làm sao người ta có thể ngây ngô đến nỗi đặt ra những mục tiêu thần thoại cho năm 1980 vào giữa lúc mà sự suy sụp đã quá rõ ràng ? Càng ngây ngô bởi vì trong khi đưa ra chính sách công nghiệp hóa hiện đại hóa chính quyền lại lùa dân về nông thôn để lập những "khu kinh tế mới" mà công việc duy nhất là trồng trọt, chủ yếu là khoai mì.

Sự thất bại hoàn toàn và tuyệt đối này đã buộc chính quyền cộng sản phải đổi mới, mở ra giai đoạn của chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giai đoạn thứ tư trong lịch sử Đảng Cộng Sản và vẫn còn đang tiếp tục.

dcs02

Mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa từ miền Bắc được áp dụng cho cả nước sau 1975. Cảnh nông dân trao nộp lúa và hoa màu cho hợp tác xã - ảnh chụp năm 1977 ở một xã gần Hà Nội.

Nhận diện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Nhưng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì ?

Chính sách này đã có từ 45 năm tại Trung Quốc và 37 năm tại Việt Nam nhưng tới nay vẫn chưa có một định nghĩa rõ rệt nào. Nó chỉ là một nhượng bộ lúng túng của Trung Quốc sau khi chủ nghĩa cộng sản phá sản và làm hàng chục triệu người chết đói sau cuộc Đại Cách Mạng Văn Hóa. Bỏ chủ nghĩa cộng sản về mặt kinh tế nhưng vẫn giữ nguyên chế độ độc tài toàn trị. Bỏ chủ nghĩa cộng sản nhưng vẫn giữ chế độ cộng sản. Nó quá vô lý để có thể có một định nghĩa bài bản.

Tuy vậy cái gọi là "kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa" đã xuất hiện và tồn tại từ khá lâu rồi, ta có thể dùng cách tiếp cận của môn sinh vật học để quan sát và mô tả nó.

Đó là một chính sách kinh tế trong đó chính quyền nhìn nhận một không gian kinh tế tư nhân và một số quyền tư hữu, để thị trường quyết định giá cả, số lượng và khách hàng cho các sản phẩm, nhưng vẫn duy trì một khu vực công với trọng lượng lớn hơn, đặc biệt là vẫn giành độc quyền sở hữu đất đai cho nhà nước.

Chính sách này đưa tới hai hệ luận tất yếu là tham nhũng và đầu cơ bất động sản.

Tham nhũng vì từ nay xã hội có của cải, tư nhân có tiền và các quan chức có quyền trong khi luật pháp lại tùy tiện. Sự lạm dụng công quyền cho lợi ích cá nhân, định nghĩa của tham nhũng, vì thế là tự nhiên. Một cách cụ thể chúng ta có thể so sánh hai chế độ Việt Nam Cộng Hòa của miền Nam trước đây và chế độ cộng sản hiện nay. Trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa không có một quan chức nào, dù là bộ trưởng, thứ trưởng hay giám đốc, là triệu phú đô la cả ; trái lại trong chế độ cộng sản hiện nay không có một quan chức nào từ cấp bí thư huyện ủy hay vụ trưởng trở lên lại không có ít nhất vài triệu đô la. Đó là hậu quả logic của kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa.

Đầu cơ bất động sản trở thành một bắt buộc của chế độ vì từ nay xã hội trở thành giầu có hơn và chính quyền –chính quyền trung ương cũng như các chính quyền địa phương- cần một ngân sách lớn hơn để kiểm soát xã hội và duy trì chế độ độc tài. Phương tiện hiệu lực nhất để có ngân sách là bán đất, đúng ra là bán quyền sử dụng đất. Nhưng muốn bán được đất liên tục thì cũng phải có xây dựng liên tục và muốn có xây dựng liên tục thì phải chấp nhận đầu cơ nhà đất. Người ta mua nhà không phải để ở mà để bán lại với giá cao hơn ; muốn như thế thì giá bất động sản phải liên tục tăng lên cao hơn lãi suất cho vay của các ngân hàng. Thực tế trong các năm qua, tại Trung Quốc cũng như tại Việt Nam, người ta mua nhà để đầu cơ hơn là để ở. Đó là mô hình kim tự tháp Ponzi. Chiếc bong bóng bất động sản ngày càng phình ra, tới một lúc nào đó sẽ bể và ngân sách chính quyền suy sụp.

Hai hệ luận này –tham nhũng và đầu cơ bất động sản- chứng tỏ chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vô lý và nhất định không sớm thì muộn cũng dẫn tới bế tắc và khủng hoảng.

dcs3

Chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đưa tới hai hệ luận tất yếu là tham nhũng và đầu cơ bất động sản

Ngoan cố tới cùng ?

Chính quyền cộng sản Việt Nam đã chỉ bắt chước Trung Quốc một cách máy móc và ngoan ngoãn. Trung Quốc làm gì thì Việt Nam làm theo sau đó, dù là về tham nhũng hay đầu cơ bất động sản. Trung Quốc đã khủng hoảng từ vài năm nay và ngày càng khủng hoảng nặng hơn. Việt Nam cũng đã bắt đầu gặp khó khăn và khó khăn sẽ lớn hơn, thậm chí có thể đưa tới khủng hoảng, trong năm nay. Việt Nam sẽ điêu đứng hơn Trung Quốc vì nghèo hơn. Hy vọng lôi kéo đầu tư của các công ty đa quốc đang dự định rời Trung Quốc cũng trở thành mong manh sau khi Việt Nam gây thất vọng vì thái độ bênh Nga và thân Trung Quốc trong thời gian gần đây. Các công ty không rời Trung Quốc để chuyển sang một nước chư hầu của Trung Quốc.

Khó khăn kinh tế đến vào giữa lúc chế độ đang khủng hoảng nội bộ lớn. Ba bộ trưởng, hai phó thủ tướng và cả chủ tịch nước đã bị thanh trừng. Đấu đá nội bộ chỉ có thể gia tăng bởi vì Đảng Cộng Sản đã mất lý tưởng chung và cũng không còn đồng thuận nào trên một tư tưởng chính trị hay một dự án chính trị.

Ông Nguyễn Phú Trọng đã không hiểu được rằng một tổ chức chính trị lớn chỉ có thể xây dựng được và sau đó tồn tại được nếu đặt nền tảng trên một tư tưởng chính trị lành mạnh và một dự án chính trị đúng đắn. Ông là người duy nhất tại Việt Nam còn cố tin vào chủ nghĩa Mác – Lênin dù nó đã bị cả thế giới nhận diện như một sai lầm và một tội ác. Ông cố đề cao cái gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh" dù nó hoàn toàn không có. Ông tin là có thể chống tham nhũng để làm sạch Đảng Cộng Sản mà không biết rằng nó nằm ngay trong logic của chế độ. Ông không thuyết phục được ai nhưng cũng không ai có thể thay thế được ông trong chức vụ tổng bí thư đảng chỉ vì Đảng Cộng Sản đã hết sức sống sau khi đã tích lũy đủ những mâu thuẫn để sụp đổ. Cuối cùng có lẽ, cũng như Đảng Cộng Sản và Hồ Chí Minh, ông sẽ được nhớ tới như là một người đã ngoan cố ôm chặt lấy sai lầm tới hơi thở cuối cùng.

Nguyễn Gia Kiểng

(03/02/2023)