Người Việt hời hợt (phần 10 - Huỳnh Chí Viễn)

Đạo Phật đã bị tha hóa và biến tướng ở Việt Nam như thế nào?

Trước khi vào nội dung của bài viết, tôi muốn khẳng định với bạn đọc tôi là một Phật tử chứ không phải là người đạo Công giáo hoặc là một kẻ vô thần để bạn đừng comment là tôi là người ngoại đạo viết bài cố tình xuyên tạc đạo Phật. Năm 3 tuổi tôi đã được gia đình đưa vào chùa quy y với pháp danh Lệ Nghiêm và thường xuyên theo bà ngoại đi chùa từ bé. Nhưng khoảng hơn mười năm nay, tôi không bước vào bất cứ cái chùa nào nữa ngoại trừ đó là những ngôi chùa cổ có giá trị lịch sử. Còn những hành động cúng bái nhất là những dịp rằm lớn hay mùng một là nhất định không có tôi bởi vì tôi hiểu một điểu rằng trong chùa không có Phật. Đối với tôi, Phật giáo là một tư tưởng triết học hơn là một tín ngưỡng. Bài viết này không tranh luận về Phật giáo tốt hay xấu mà tập trung nói về sự biến tướng của Phật giáo ở Việt Nam và điều đó góp phần ảnh hưởng đến tư duy hời hợt của người Việt như thế nào. Hi vọng các bạn đọc và nhìn nhận vấn đề một cách đúng đắn với mục đích viết của tôi. Những comment kiểu: “anh biết gì về Phật giáo mà nói!” hay “đạo Phật là thế này thế nọ” nhưng không liên quan tới nội dung bài viết sẽ bị xóa mà không phản hồi.

Image may contain: sky and outdoor

Tuy chưa bao giờ Phật giáo được công nhận là quốc giáo ở Việt Nam như các nước như Thái Lan, Lào, Campuchia, nhưng ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống hàng ngày của người dân Việt Nam ngày nay rõ ràng hơn Lão và Nho rất nhiều. Chúng ta không thấy đạo quán và đạo sĩ ở Việt Nam nhưng sư sãi và chùa chiền thì đâu cũng có. Trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của người Việt không có câu nào “cầu Khổng Tử” hay “tạ ơn Lão Tử” mà luôn là “cầu trời khẩn Phật” hoặc “tạ ơn trời Phật”. Ảnh hưởng của Phật giáo ở Việt Nam sâu sắc tới mức nhiều người cứ khăng khăng bảo đạo Công giáo là đạo ngoại lai còn Phật giáo mới là đạo của dân tộc mà quên rằng đạo Phật cũng là một đạo ngoại lai xuất phát tứ Ấn Độ. Và chính vì điều này mà rất nhiều người Việt Nam mặc định trong tư tưởng rằng những gì liên quan tới đạo Phật đều là tốt và người đạo Phật đều là người tử tế. Điều này gây ra một hệ lụy không nhỏ đối với tư duy của người Việt chúng ta.

Nếu xét trong tam giáo Phật-Lão-Nho thì Phật giáo có mặt ở Việt Nam trước cả Lão và Nho. Theo truyền thuyết về Chử Đồng Tử thì đạo Phật đã có mặt ở nước ta từ thời Hùng Vương. Nhưng vì đây là truyền thuyết có tính tam sao thất bản nên việc xác thực là đạo Phật có mặt ở Việt Nam từ thời vua Hùng hay không còn là một nghi vấn. Nhưng từ thế kỷ thứ 2 và thứ 3 trước Công Nguyên, các nhà buôn và tăng lữ Ấn Độ đã du nhập Phật giáo Nam tông vào quận Giao Chỉ và thành Luy Lâu (thuộc Bắc Ninh ngày nay) đã từng là trung tâm Phật giáo quan trọng vùng Đông Nam Á. Trong giai đoạn Bắc thuộc nhất là đời nhà Đường, Phật giáo Bắc tông theo chân các nhà sư Trung Quốc phái Thiền tông vào Việt Nam nhưng không phát triển mạnh. Từ thời nhà Đinh tới thời nhà Trần, các vua chúa Việt Nam bắt đầu xem trọng Phật giáo ngang với Nho và Lão. Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân và đóng đô ở Hoa Lư, Đinh Tiên Hoàng đã phong cho đại sư Khuông Việt chức tăng thống, đứng đầu Phật giáo ở Việt Nam thời đó. Chức tăng thống này đến thời Lê Sơ vẫn còn giữ. Một trong những giai thoại về sự tàn bạo và biến thái của vua Lê Long Đĩnh tức Lê Ngọa Triều là chuyện vị vua này róc mía trên đầu tăng thống Quách Ngang (có tài liệu ghi là Quách Mão) rồi giả vờ lỡ tay để dao chém xuống đầu trọc của sư chảy máu đầm đìa. Giai thoại này đối với tôi mà nói mang tính bôi nhọ nhiều hơn là thực tế vì theo sách sử thời đó: “Mùa xuân năm Đinh Mùi (1007), Lê Long Đĩnh sai em là Minh Xưởng và Chưởng Thư ký là Hoàng Thành Nhã đem con tê ngưu trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin Cửu kinh và kinh sách Đại Tạng". Kinh Đại Tạng là một bộ kinh sách vĩ đại được các cao tăng Trung Quốc nhiều thế hệ nghiên cứu và biên dịch qua nhiều thế hệ gồm hơn 5000 quyển. Một ông vua tìm cách xin được bộ kinh ấy về Việt Nam để phát triển Phật giáo thì việc róc mía trên đầu vị cao tăng đứng đầu Phật giáo trong nước có đáng tin hay không? Tôi không trả lời mà để cho các bạn tự suy nghĩ.

Đến thời nhà Lý, vì Lý Thái Tổ thuở nhỏ được nuôi trong chùa nên ông xem đạo Phật là quốc giáo. Triều đình nhà Lý bên cạnh hai ban văn võ còn có cả ban “tăng”. Nhà Trần cướp ngôi nhà Lý nhưng vẫn rất coi trọng Phật giáo. Thượng hoàng Trần Nhân Tông, người có công lớn trong cuộc chiến chống Nguyên Mông khi đất nước thái bình đã giao quyền trị nước cho con và lập nên thiền phái Trúc Lâm và lấy hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ. Đến cuối thời Trần, đạo Phật ở Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ. Các tăng sĩ do được sự ưu ái quá mức của triều đình trở nên lộng quyền và đạo Phật phát triển một cách vô tội vạ. “Truyền Kỳ Mạn Lục” của Nguyễn Dữ có ghi: “Các chùa như Hoàng Giang, Ðồng Cổ, An Sinh, Yên Tử, Phổ Minh, Ngọc Thanh... dựng lên nhan nhản khắp nơi; những người cắt tóc làm tăng ni nhiều bằng nửa dân số thường. Nhất là huyện Ðông Triều, sự sùng thượng lại càng quá lắm: chùa chiền dựng lên, làng lớn có hơn mười chùa, làng nhỏ cũng chừng năm, sáu: ngoài bao bằng lũy, trong tô vàng son..." Chính sự phát triển quá đà này của Phật giáo ở Việt Nam đã khiến cho Phật giáo bị biến chất và lợi dụng về sau rất nhiều. Từ thời hậu Lê trở đi, đạo Phật ở Việt Nam mất đi chỗ đứng trước đây vì sự phát triển của Nho giáo và Lão giáo nhất là ở Đàng Ngoài. Phật giáo từ chỗ một tôn giáo được chính quyền phong kiến trọng dụng bị thu hẹp phạm vi ảnh hưởng trở thành một tín ngưỡng dân gian nhiều hơn ở Đàng Ngoài. Trong khi đó ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn vẫn rất sùng đạo Phật và kinh đô Huế có thể được xem là cái nôi thứ hai của Phật giáo Việt Nam. Khi Pháp xâm lược Việt Nam, để trả đũa việc các vua nhà Nguyễn cấm đạo Thiên Chúa, thực dân Pháp đã ra tay phá hủy rất nhiều chùa chiền Phật giáo để xây nhà thờ. Điều này đã gây ra mâu thuẫn đối với những người theo Phật giáo và Thiên Chúa giáo ở Việt Nam và cũng khiến cho Phật giáo bị các đảng phái mang danh nghĩa “chống ngoại xâm” lợi dụng triệt để.

Sau năm 1945, ở miền Bắc, cùng với Lão giáo, Phật giáo được liệt vào một trong những tàn dư của mê tín dị đoan và phong kiến nên bị giới lãnh đạo Cộng Sản cấm đoán và kiểm soát rất gắt gao. Dưới sự lãnh đạo của những người “vô thần” rất nhiều đền chùa bị đập phá để biến thành hợp tác xã hoặc sân phơi thóc lúa và nhiều kinh sách bị tiêu hủy. Ngoài những ngôi chùa mang tính biểu tượng nổi tiếng của văn hóa Việt Nam như chùa Một Cột, chùa Dâu, chùa Hương hay chùa Tây Phương thì hầu hết các chùa chiền ở miền Bắc đều bị phá hủy. Từ năm 1945 trở đi, rất ít người Bắc tự nhận là người đạo Phật và hầu như không có chùa chiền nào được xây dựng ở miền Bắc. Ngược lại ở miền Nam, Phật giáo lại bị lợi dụng để chống lại chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm của chính thể Việt Nam Cộng Hòa vì gia đình của tổng thống Ngô Đình Diệm là người Công giáo. Sự kiện “tự thiêu” của hòa thượng Thích Quảng Đức ở Sài Gòn năm 1963 đã góp phần làm cáo chung chế độ cộng hòa còn rất non trẻ ở miền nam với cuộc đảo chính giết chết hai anh em cố tổng thống họ Ngô trong cùng năm. Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập ở miền Nam Việt Nam. Cho tới năm 1975, lợi dụng tinh thần bài ngoại của người dân miền Nam, nhiều chùa chiền bị lợi dụng biến thành cơ sở hoạt động cách mạng của mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam nuôi giấu cán bộ. Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập và trở thành tổ chức Phật giáo duy nhất đại diện cho Phật giáo Việt Nam sau năm 1975. Điều này có nghĩa là Phật giáo Việt Nam được đặt dưới sự quản lý sát sao của nhà nước CNXHCN Việt Nam và bắt đầu mang màu sắc chính trị rõ ràng. Như vậy hiện tại ở Việt Nam có hai giáo hội Phật giáo khác nhau: một thành lập từ năm 1964 ở miền Nam mang tên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vốn không chịu chi phối về mặt chính trị của chính quyền và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thành lập năm 1981 với bản chất là cơ quan chính trị hóa tôn giáo của nhà nước.

Đối với đại đa số người Việt Nam (trừ những người theo Công giáo và Tin Lành) thì đạo Phật đóng một vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa và tâm linh, ngay cả đối với những người cho rằng mình theo đạo thờ ông bà. Hiếm có tác phẩm văn chương nghệ thuật nào của Việt Nam mà không thấp thoáng ảnh bóng dáng của mái chùa hay tượng Phật. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của đạo Phật ở Việt Nam chỉ ở mức độ tín ngưỡng chứ không phải là ở mức độ triết lý. Rất hiếm Phật tử Việt Nam tìm hiểu đạo Phật ở góc độ triết học mà chỉ tin theo những nghi thức cúng bái của Phật giáo. Và tín ngưỡng và nghi thức Phật giáo của Việt Nam thì lại bị ảnh hưởng bởi tín ngưỡng dân gian và Đạo giáo nhiều hơn là Phật giáo nguyên thủy.

Có ba nguyên nhân cho việc tại sao phần lớn Phật tử Việt Nam thiên về phần ngọn (tín ngưỡng) hơn là phần gốc (triết lý) của đạo Phật. Thứ nhất kinh sách của đạo Phật quá nhiều, ngay cả những người đi tu cũng chưa có điều kiện tiếp xúc hết với kinh sách của Phật. Đây là một rào cản rất lớn của những ai muốn thực sự nghiên cứu về đạo Phật một cách nghiêm túc. Thứ hai, những triết lý của đạo Phật như buông bỏ chấp niệm, hành thiện tích đức, không tham sân si hận… thường không đáp ứng được nhu cầu thực tế của người bình dân nên tuy tưởng là đơn giản nhưng trên thực tế lại rất khó làm theo và nếu có làm theo thì chưa chắc đã làm đúng. Thứ ba, đạo Phật chấp nhận sự kết hợp với các tín ngưỡng dân gian chứ không phân rõ ranh giới nên dần dần Phật trở thành một vị thần cũng như những vị thần khác trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt Nam. Sự cầu kỳ về hình thức nghi lễ bên ngoài chẳng qua là để che giấu sự hời hợt trong việc hiểu biết về Phật pháp bên trong. Chính sự hiểu biết sơ sài về triết lý đạo Phật cũng như sự dễ dãi về mặt tín ngưỡng mà đa số những người theo đạo Phật ở Việt Nam đều mắc phải những sai lầm sau:

1. Người Việt Nam đánh đồng hai khái niệm không liên quan là “trời” và “Phật”. Chỉ có ở Việt Nam mới có khái niệm “trời Phật” đi với nhau thành một cặp như một thế lực siêu nhiên có khả năng ban phước lành cho con người. Chính vì hiểu rằng Phật cũng là một vị thần như các vị thần trong dân gian nên nhiều người đi chùa để cầu tài cầu lộc, cầu thăng quan tiến chức, cầu tình duyên hay cầu con cái mà quên rằng đức Phật vốn là một vị hoàng tử đã từ bỏ tất cả những xa hoa phú quý để đi tìm sự giác ngộ về tư tưởng. Ở các chùa miền Bắc, người ta còn mang cả heo quay, gà luộc vào chùa cúng trả lễ, thậm chí còn nhét cả những đồng tiền lẻ vào tay tượng Phật trông rất phản cảm.

2. Đạo Phật là đạo đa thần và thờ thần tượng vì thế người theo đạo Phật cứ gặp Phật là thắp nhang quỳ lạy với quan niệm “có thở có thiêng, có kiêng có lành” nhưng không biết Phật đó tên gì, xuất thân từ đâu, có quyền năng gì. Ngay cả đối với cái tên của vị bồ tát được người Việt Nam tôn sùng nhất là Quán Thế Âm Bồ Tát cũng bị gọi sai thành Quan (Thế) Âm Bồ Tát vì không hiểu ý nghĩa của cái tên này. Trong chùa Phật thậm chí còn thờ cúng lung tung các thần khác như Quan Công, thần tài, thổ địa.

3. Dưới sự ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian và Lão giáo, đạo Phật ở Việt Nam thiên về sự cầu kỳ trong các hình thức cúng bái gây ra sự phô trương và lãng phí trái với giáo lý nguyên thủy của đạo Phật. Nếu các bạn quan sát những chùa lớn vào những ngày lễ lớn của Phật giáo ở Việt Nam, các bạn sẽ không thấy sự thanh tịnh và trang nghiêm và chỉ thấy sự xô bồ bát nháo của những người đi chùa. Tôi hơn mười năm nay không đi chùa cũng vì không chịu được sự bát nháo ồn ào đó.

4. Không biết ở các nước Phật giáo khác thì sao chứ ở Việt Nam, tôi thấy chùa chiền được xây cất vô tội vạ nhất là ở miền Nam. Nhiều chùa ở Sài Gòn được sơn phết rất lòe loẹt và mất thẩm mỹ, trong chính điện tượng Phật bày trí lung tung như gánh hát bội chứ không hề trang nghiêm nhưng phật tử vẫn đến cúng bái nườm nượp. Ở miền bắc thì bắt đầu vào những năm 2000, với cái cớ phục vụ nhu cầu du lịch, người ta bắt đầu xây dựng rất nhiều chùa có quy mô cực lớn ở miền Bắc như chùa Bái Đính ở Ninh Bình, chùa Ba Vàng ở Quảng Ninh… Nhiều Phật tử tỏ ra hoan hỉ xem đó là phúc đức mà không hề suy nghĩ rằng tiền và đất đâu để xây chùa to thế.

5. Sự mê muội của những người theo đạo Phật ở Việt Nam còn nằm ở chỗ sùng bái những người đi tu một cách mù quáng đến mức hễ thấy người cạo đầu mặc áo cà sa thì khúm núm kính sợ mà không cần biết đó là cao tăng hay là ma tăng, ác tăng. Tôi đã chứng kiến nhiều cảnh nhiều bà cụ già chắp tay xá miệng thì luôn “dạ, thưa, bạch thầy” với những thằng nhãi nhép đầu trọc mặt mày câng câng xấc láo. Nhiều người dâng vật phẩm cúng dường hoặc bỏ tiền vào thùng công đức trên chánh điện mà không hề mảy may suy nghĩ rằng mình đang góp phần nuôi dưỡng những kẻ lười biếng lao động và lừa đảo sống phè phỡn bằng chính đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình. Vì điều này mà càng ngày các bậc chân tu ở Việt Nam càng ít mà toàn là những thứ sư đảng, sư hổ mang như Thích Thanh Quyết, Thích Thanh Toàn …làm trụ trì.

6. Rất hiếm những Phật tử ở Việt Nam hiểu được những triết lý của đạo Phật. Tôi hỏi nhiều người lớn tuổi có thâm niên chùa chiền công quả thế nào là Tứ Diệu Đế, thế nào là Bát Chánh Đạo…họ đều trả lời rất qua loa hoặc có người còn không biết. Cái mà họ nói đến nhiều nhất là “nghiệp” và “quả báo” nhưng cách hiểu của họ về hai khái niệm này cũng hoàn toàn sơ sài và sai trái. Chính vì thế mà thay vì thay đổi cách sống cách suy nghĩ hoặc đấu tranh cho quyền lợi chính đáng thì họ cam chịu nhẫn nhục những điều sai trái bất công trong xã hội vì cho rằng những gì mình chịu kiếp này chính là nghiệp báo của kiếp trước. Để bớt khổ, họ đến chùa để cầu xin hoặc cúng sao, giải hạn.Nhiều người trong cuộc sống làm những chuyện ác nhân thất đức lừa lọc mánh khóe nhưng lại sợ quả báo. Và thay vì hành thiện tích đức họ lại mang thứ tiền dơ bẩn kiếm được đi cúng chùa như một cách giải nghiệp dễ dàng nhất để cảm thấy lương tâm được thanh thản và tiếp tục làm chuyện ác.

7. Đạo Phật nguyên thủy không bắt buộc phải ăn chay, nhưng nếu tu theo thiền tông và tịnh độ tông thì phải tuân theo giới luật ăn chay. Nếu người theo Phật giáo nguyên thủy ăn mặn do họ không cho mình quyền từ chối những thức ăn được Phật tử cúng dường khi đi khất thực và khi ăn họ trộn chung tất cả những thức ăn lại với nhau, không phân biệt đâu là thịt hay cá thì điều buồn cười của những người ăn chay là họ lại chế ra những món chay bắt chước kiểu nấu nướng các món mặn như cá chiên, sườn nướng, đùi gà, bún bò… thay vì đơn giản rau dưa cà muối. Đó chẳng phải là miệng ăn chay nhưng tâm vọng tưởng món mặn sao? Tại sao phải dối lòng như thế? Theo tôi, đó là đạo đức giả.

8. Đạo Phật cấm sát sinh nhưng trớ trêu thay những ngày rằm mồng một hoặc những ngày lễ lớn các Phật tử mê muội lại là người gián tiếp sát sinh nhiều nhất. Có bao giờ bạn đứng trước những cổng chùa để đếm xem có bao nhiêu chú chim sẻ, chim én vô tội rơi lộp độp xuống đường để rồi bị mèo vồ, xe cán hoặc bị người đi chùa giẫm đạp đến chết vì nhu cầu phóng sinh rất vớ vẩn? Có bao nhiêu người hiểu rằng những con cá chép, cá vàng mua trước cổng chùa hoặc ở tiệm cá cảnh vốn dĩ là loài cá được nuôi làm cảnh sẽ không sống được nếu đem thả xuống sông? Bạn có bao giờ đếm thử bao nhiêu cây hoa trong chùa bị vặt trơ trọi đêm giao thừa và ngày mồng một tết bởi vì tục “hái lộc”, một tục lệ không hề có của Phật giáo? Bạn có bao giờ đếm xem có bao nhiêu quán nhậu thịt thú rừng dọc đường lên chùa Hương để phục vụ cho những người đi dâng hương cúng Phật?

9. Sự phóng sinh vô tội vạ nhưng thiếu sự hiểu biết tối thiểu về thường thức khoa học còn gây ra thảm họa cho hệ sinh thái. Rất nhiều lần tôi chứng kiến cảnh tượng đau lòng là những chú rùa núi vàng, vốn là loài rùa cạn có tên trong danh sách động vật cần được bảo vệ của Việt Nam ngắc ngoải tuyệt vọng dưới hồ nước chờ chết vì sự phóng sinh ngu dốt của những người gọi là Phật tử. Trái lại những loài động vật ngoại lai gây hại như cá chim trắng, ốc bươu vàng, rùa tai đỏ …nếu được thả tràn lan ra môi trường tự nhiên sẽ tiêu diệt các loại sinh vật bản địa bằng cách giành địa bàn và nguồn thức ăn thậm chí ăn cả trứng và con non của các sinh vật bản địa.

10. Phần lớn phật tử Việt Nam, đặc biệt là những người làm ăn buôn bán, không chỉ thờ Phật mà còn thờ cúng tất cả những thần linh nào mà họ nghĩ rằng có thể mang lại lợi lộc cho mình từ mẫu ở ngoài Bắc tới bà chúa Xứ trong Nam. Thậm chí đền thờ Hindu giáo và cả nhà thờ cha Diệp ở Cà Mau cũng không thiếu Phật tử đặt chân đến cúng bái. Nếu thánh đường Hồi giáo mà mở cửa cho người ngoại đạo vào cúng, tôi nghĩ chắc người đạo Phật ở Việt Nam vào đó còn đông hơn tín đồ Hồi giáo nếu họ nghĩ rằng Allah có thể ban cho họ tài lộc và may mắn.

Có thể nói, cùng với Nho giáo và Khổng giáo, đạo Phật ở Việt Nam đã góp phần hình thành nên trong tiềm thức của đại đa số một ý thức hệ rất phù hợp với việc bị lệ thuộc và cai trị. Nó dạy con người phục tùng cho địa vị và danh lợi, lấy việc mưu cầu danh lợi cho cá nhân và dòng họ làm lẽ sống. Để đạt được nhiều tiền tài danh vọng, họ đi chùa để cầu cúng. Đối với bất công áp bức, họ chọn cách nhẫn nhịn cho qua chuyện và đổ thừa cho nghiệp báo kiếp trước. Để trốn tránh trách nhiệm với đời, họ tỏ ra mình thanh cao không nghe không thấy, không màng chính sự. Và họ gọi đó là là cách sống khôn ngoan. (còn tiếp)

Nguồn bài: FB Vien Huynh