Việt Nam có khuynh hướng có các tập đoàn tư bản cấu kết với nhà nước (Kính Hòa-RFA)
Việc hình thành và xuất hiện nhiều công ty, tập đoàn kinh tế lớn của tư nhân thay thế dần cho các doanh nghiệp nhà nước là đáng mừng và đáng khuyến khích vì nền kinh tế có năng động và phát triển hay không là do các công ty tư nhân tạo ra. Tuy nhiên chúng tôi chia sẻ với lo lắng của bà Phạm Chi Lan là “Những công ty rất lớn thì sẽ có nhiều ảnh hưởng đến quyết sách
của chính phủ. Họ dễ đi lobby để có chính sách có lợi cho họ và bất lợi
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa khác.” Trong môi trường chính trị độc đảng tại VN thì khó lòng đòi hỏi các công ty hoạt động một cách lương thiện và minh bạch. Hy vọng là tầng lớp doanh nhân VN quan tâm đến chính trị và ủng hộ cho dân chủ để bản thân họ được sống và làm việc trong một môi trường lành mạnh, minh bạch và được bảo vệ tốt hơn.
Trong số báo ra ngày 17/3/2019 của tờ VnEconomy, Tiến sĩ Trần Đình
Thiên, nguyên Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam được trích lời nói rằng
cơ cấu kinh tế của nền kinh tế Việt Nam đang có vấn đề.
Đó là những vấn đề gì?
Trong một Diễn đàn về phát triển kinh tế tư nhân, ông Trần Đình Thiên
nhận xét rằng hiện nay các công ty vừa và nhỏ của người Việt không phát
triển, bộ phận doanh nghiệp phát triển nhất là các doanh nghiệp thu hút
vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Trước đó vài ngày, ông cựu Đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam Ljungreen,
viết trên tạp chí YaleGlobal rằng việc thu hút FDI của Việt Nam có vẻ dễ
dàng hơn là phát triển những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành, hiện sống tại Hội An, đồng tình
với đánh giá của ông Trần Đình Thiên và ông cựu đại sứ Thụy Điển.
“Xuất khẩu của Việt Nam hàng năm là có 75 đến 78% là do các công
ty nước ngoài. Còn mấy triệu cái doanh nghiệp Việt Nam không được 25%
tổng kim ngạch xuất khẩu. Thành ra nền kinh tế Việt Nam nó không có
vững, những doanh nghiệp Việt Nam không tham gia tích cực vào việc phát
triển kinh tế.”
Ông Bùi Kiến Thành nêu các lý do sau đây làm doanh nghiệm vừa và nhỏ của Việt Nam không phát triển:
Không có nhân sự được đào tạo tốt.
Không tiếp cận được với nguồn vốn vay.
Khó tiếp cận được các cơ sở hạ tầng đất đai.
Ngoài ra theo ông Bùi Kiến Thành, các doanh nghiệp Việt Nam còn phải
đối đầu với nạn hối lộ mà các doanh nghiệp FDI không phải chịu.
Một chuyên gia kinh tế khác là ông Nguyễn Huy Vũ hiện làm việc tại Na Uy cho biết:
“Các doanh nghiệp nước ngoài đến làm ăn tại Việt Nam thì có sự cam
kết giữa hai chính phủ, nếu có chuyện gì xảy ra với chính quyền thì
chính phủ của họ can thiệp. Đối với doanh nghiệp Việt Nam thì không có
ai can thiệp với chính quyền trung ương cả.”
Ông Nguyễn Huy Vũ dẫn chứng nhiều trường hợp các doanh nghiệp bị cơ
quan chức năng tùy tiện áp dụng những biện pháp chế tài, trong đó có vụ
lực lượng công an tịch thu vàng bạc đá quí của một doanh nghiệp tại Cần
Thơ cách đây không lâu.
Ngay trong các sản phẩm được các doanh nghiệp FDI làm ra tại Việt
Nam, theo vị cựu đại sứ Thụy Điển, thành phần do người Việt Nam làm ra
hầu như chỉ gói gọn trong lao động giản đơn.
Giáo sư Ngô Vĩnh Long, một nhà quan sát từ Đại Học Maine, Hoa Kỳ, nói
với RFA rằng đừng thấy những con số hàng tỉ đô la hàng xuất khẩu của
Việt Nam mà lạc quan, vì trong đó phần lớn là các giá trị được làm ra
tại nước ngoài.
Ông Bùi Kiến Thành gọi đây là một nền kinh tế tạm nhập tái xuất.
Gần đây có tin cho biết tập đoàn Samsung của Hàn Quốc, nhà đầu tư lớn
nhất Việt Nam hiện nay, mở hai trung tâm nghiên cứu và phát triển tại
Việt Nam.
Xoay quanh sự việc này có hai luồng ý kiến khác nhau.
Bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế sống ở Hà Nội cho biết:
“Việt Nam luôn thúc đẩy Samsung làm nhiều hơn nữa, các linh kiện
các bộ phẩn tại Việt Nam và các bộ phận nghiên cứu và phát triển. Đấy là
những bước triển khai hơn nữa ngoài việc gia công thuần túy của
Samsung, rất đáng hoan nghênh.”
Nhưng ông Bùi Kiến Thành tỏ ý dè dặt hơn, ông nói rằng phải chờ một thời gian nữa xem có kết quả gì hay không.
Ông Nguyễn Huy Vũ thì nói rằng việc các tập đoàn lớn cho triển trai
các trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam là khó xảy ra, nếu
có thì có thể là họ sẽ cho người của xứ họ vào làm việc để tận dụng việc
ưu đãi về thuế của Việt Nam.
Trong thời gian gần đây, xuất hiện tập đoàn Vingroup của “đại gia”
Phạm Nhật Vượng tại Việt Nam với nhiều dự án công nghiệp làm cho một số
nhà quan sát lạc quan về một bước phát triển mới của kinh tế Việt Nam.
Ông Bùi Kiến Thành nói về những dự án của Vingroup:
“Ông Vượng có những việc làm tốt, chuyển từ dịch vụ sang sản xuất
xe ô tô. Những công việc của anh Vượng cũng nằm trong khả năng và tiến
triển tương đối tốt.”
Tuy nhiên ông cũng nói thêm là phải chờ xem là sự tiến triển đó như thế nào.
Ông Nguyễn Huy Vũ cho rằng muốn phát triển kinh tế tạo ra nhiều giá
trị, cần có hai điều kiện, là ý tưởng mới và môi trường kinh doanh thuận
lợi, và ông chưa thấy hai điều kiện đó xuất hiện tại Việt Nam.
Nhận xét về những tin tức vừa qua xung quanh các dự án của tập đoàn Vingroup, ông Nguyễn Huy Vũ cho biết:
“Trường hợp của Phạm Nhật Vượng giống như Cheabol của Hàn Quốc hay
Keiretsu của Nhật Bản. Đó là những tập đoàn lớn cấu kết với nhà nước tổ
chức sản xuất đối với những ngành công nghiệp nặng chậm thay đổi, cần
vốn lớn của Nhật Bản và Hàn Quốc trong quá khứ.”
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh những ngành kinh tế hiện đại thay đổi
nhanh chóng, ông Vũ cho rằng Việt Nam chưa có tác nhân mới nào đáng lạc
quan.
Bình luận về môi trường kinh doanh của Việt Nam hiện nay bà Phạm Chi
Lan cho rằng đã có nhiều sự thay đổi tích cực, vì thế các doanh nhân lớn
sẽ không bị những trường hợp đáng tiếc như vụ ông Tăng Minh Phụng bị án
tử hình hồi sau đổi mới 1986.
Bà Phạm Chi Lan hoan nghênh những dự án lớn của Vingroup , nhưng mặt
khác bà cũng e ngại việc xuất hiện các tập đoàn lớn nhiều tiền của:
“Những công ty rất lớn thì sẽ có nhiều ảnh hưởng đến quyết sách
của chính phủ. Họ dễ đi lobby để có chính sách có lợi cho họ và bất lợi
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa khác.”
Trong bài viết tổng quát về phát triển kinh tế và chính trị Việt Nam
trong thời gian mấy mươi năm qua, ông cựu đại sứ Thụy Điển nhận thấy
rằng việc thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển cần những nổ
lực chính trị lớn.
Ông kết thúc bài viết rằng mặc dù Việt Nam đã thực hiện một đường lối
cải cách kinh tế phi cộng sản nhưng cần nổ lực nhiều hơn để đánh thức
tiềm năng rất to lớn của Việt Nam.