Đổi mới quản trị quốc gia để Việt Nam thịnh vượng (Tuần Việt Nam)
Bài viết về sự thái hóa và sụp đổ của Liên Xô nhưng cũng là để nói về Việt Nam. Thật ra không phải chỉ có "hai chính quyền song song" như tác giả nói mà THDCĐN đã phân tích là có đến "ba chính quyền song song" đó là Đảng, Chính quyền và Mặt trận tổ quốc. Đảng cộng sản VN hoàn toàn đứng trên và đứng ngoài luật pháp có khác gì đảng cộng sản Liên Xô đâu: "hệ thống “chính quyền Đảng” ở Liên xô hồi bấy giờ có ít
nhất có 3 đặc trưng cơ bản: không được hình thành theo quy định của pháp
luật nhà nước; trên thực tế có siêu quyền lực; không hề chịu bất kỳ
trách nhiệm pháp lý và vật chất nào trước dân tộc về các quyết định do
mình đưa ra". Mô hình này đã hoàn toàn phá sản trên thế giới. Sỡ dĩ nó còn tồn tại ở VN là vì trí thức VN vẫn đang còn ngủ vùi trong giấc ngủ ngàn năm của văn hóa Khổng giáo. Đảng cộng sản cai trị dựa vào hai yếu tố: Dối trá và bạo lực, họ biết gì về "quản trị quốc gia" mà "thay với đổi".
LTS: Tuần Việt Nam mở Diễn đàn "Vì Việt Nam hùng cường"
với mong muốn thu nhận từ quý độc giả những ý kiến, bài viết về các
giải pháp phát triển đất nước trong tất cả các lĩnh vực nhằm khơi thông
tiềm năng phát triển, cổ vũ niềm tin của cộng đồng vào tương lai Việt
Nam.
Chủ đề đầu tiên của Diễn đàn tập trung vào thể chế kinh tế. Mời quý vị cùng theo dõi.
Trong
loạt bài trước, người viết đã nêu rõ nước ta đang bị tụt hậu về kinh
tế, nhất là so với các nước xung quanh, chứ không còn là “nguy cơ” như
Đảng ta đã cảnh báo hơn 30 năm trước. Muốn khắc phục tụt hậu, vươn lên
thịnh vượng cần đẩy mạnh công cuộc Đổi mới, bắt đầu từ đổi mới tư duy để
có đường lối, chính sách phù hợp.
Bài viết tiếp theo này đề cập
đến vài chuyện cũ cả trong và ngoài nước liên quan đến “đổi mới hệ thống
quản trị quốc gia”, mà người viết nghĩ rằng “quản trị quốc gia” là một
trong những vấn đề rất quan trọng góp phần thúc đẩy hay kìm hãm phát
triển đất nước. Đúng như tác giả Nguyễn Ngọc Chu đã viết trên Tuần Việt
Nam/VietNamNet “Chính phủ giỏi - chìa khoá mở cánh cửa kinh tế hùng cường”; và “chuyện cũ” nhưng vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự đối với chúng ta hiện nay.
Hai chính quyền song song
Ở
Liên xô và nhiều nước XHCN khác ở Đông Âu đã từng tồn tại một hệ thống
quản trị quốc gia mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là hệ thống “Hai chính
quyền Nhà nước song song tồn tại trong một nhà nước thống nhất”. Hệ
thống chính quyền thứ nhất là hệ thống tổ chức Đảng (gọi tắt là “chính
quyền Đảng”). Hệ thống chính quyền thứ hai là hệ thống chính quyền Nhà
nước.
Hệ thống chính quyền Nhà nước thứ nhất là hệ thống cơ quan
lãnh đạo Đảng có đầy đủ các cấp, tổ chức chằng chịt theo chiều dọc lẫn
chiều ngang và hệ thống tổ chức này hành xử không khác gì hệ thống chính
quyền Nhà nước. Theo chiều dọc từ Trung ương đến cơ sở, ở đâu có chính
quyền Nhà nước ở đó có “chính quyền Đảng”. Và cũng chằng chịt theo chiều
ngang (Ban Đối ngoại – Bộ Ngoại giao; Ban nông nghiệp Trung ương – Bộ
Nông nghiêp; Ban Công nghiệp – Bộ Công nghiệp; Ban lãnh đạo bộ - Ban cán
sự Đảng…).
Bất kỳ cấp nào, ở đâu có cơ quan chính quyền Nhà nước,
ở đó có cơ quan lãnh đạo Đảng. Thậm chí, ở các tổ chức hội, đoàn không
phải là cơ quan chính quyền Nhà nước thì ở đó vẫn có cơ quan lãnh đạo
Đảng… Các tổ chức thuộc cả ba nhánh quyền lực đều có các ban cán sự
đảng, đảng đoàn từ trên xuống dưới để thực hiện các chức năng liên quan
trực tiếp đến mọi hoạt động hằng ngày của người dân, của đất nước.
Nói
sơ lược nhất, hệ thống “chính quyền Đảng” ở Liên xô hồi bấy giờ có ít
nhất có 3 đặc trưng cơ bản: không được hình thành theo quy định của pháp
luật nhà nước; trên thực tế có siêu quyền lực; không hề chịu bất kỳ
trách nhiệm pháp lý và vật chất nào trước dân tộc về các quyết định do
mình đưa ra.
Nói rõ đôi điều về ba đặc trưng cơ bản nêu trên:
(i) Hệ thống chính quyền Đảng không được hình thành theo quy định của pháp luật.
Nhắc
lại, với cả hệ thống tổ chức và nhân sự lãnh đạo đảng các cấp, lãnh đạo
các cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô (ĐCSLX) thuộc các nhánh lập pháp,
hành pháp và tư pháp thực thi công vụ hằng ngày không khác tý nào so với
hệ thống chính quyền Nhà nước hoàn chỉnh thuộc các nhánh tương ứng. Tuy
nhiên, hệ thống chính quyền Đảng chỉ được hình thành theo Điều lệ Đảng
và theo các quy định, quyết định nội bộ của ĐCSLX. Đương nhiên hệ thống
chính quyền đảng không do chính quyền Nhà nước quyết định thành lập,
giải thể khi cần thiết. Nhân sự của hệ thống chính quyền đảng không hề
được dân bầu, không được bổ nhiệm như hệ thống chính quyền nhà nước.
(ii)
Trên thực tế, các nghiên cứu cho thấy, hệ thống chính quyền đảng ở Liên
xô hồi bấy giờ có siêu quyền lực, đứng trên hiến pháp và pháp luật,
đứng trên chính quyền Nhà nước ở tất cả các cấp, không có ngoại lệ.
Bởi
không hề có văn bản pháp quy nào quy định quyền kiểm soát, giám sát của
dân đối với hệ thống chính quyền đảng… ngoài vài câu ghi tại Điều 126
Hiến pháp Liên xô năm 1936 và Điều 6 Hiến pháp Liên xô năm 1977: “ĐCSLX
là lực lượng lãnh đạo và dẫn dắt xã hội Xô viết, là hạt nhân của hệ
thống chính trị của nhà nước và các tổ chức xã hội”; “ĐCSLX tồn tại vì
nhân dân và phục vụ nhân dân”; “Mọi tổ chức đảng hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp Liên Xô”. Điều đáng nói hơn, không hề có văn bản pháp quy
nào quy định cái gọi là “khuôn khổ” đó cả, nên trên thực tế ĐCSLX hoạt
động trên và ngoài hiến pháp và pháp luật.
(iii) Hệ thống chính
quyền đảng không hề chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý và vật chất nào
trước dân về các quyết định do mình đưa ra.
Cho đến ngày tan rã,
không hề có bất kỳ văn bản pháp quy nào quy định rõ trách nhiệm của
ĐCSLX trước dân. Trong khi đó, rất khó tìm một lĩnh vực, một khu vực,
một hoạt động cụ thể nào, cả đối nội lẫn đối ngoại trong đời sống của
người dân Liên xô mà ở đó không có sự can thiệp, điều hành của cơ quan
đảng và người lãnh đạo đảng các cấp của ĐCSLX.
Khi lãnh đao ĐCSLX
nhận ra những điều tồi tệ trên đây thì đã quá muộn. Ngày 23 tháng 6 năm
1990, trên tờ “Sự thật”, ông A. Iakovlev, ủy viên Bộ chính trị, nhà lý
luận của ĐCSLX đã nêu lên đặc trưng của hệ thống chính quyền nhà nước
Liên Xô lúc bấy giờ là: “Một nền kinh tế trì trệ, phản dân chủ một cách
trắng trợn, quan liêu và tham nhũng. Các cơ quan của Đảng, trên thực tế,
đã thay thế tất cả các tổ chức khác, nhưng lại không chịu bất kì trách
nhiệm về kinh tế hay pháp lý nào về các chỉ thị và nghị quyết của mình”.
Chỉ
14 tháng sau khi tuyên bố này được đưa ra, ngày 19 tháng 8 năm 1991,
ĐCSLX tan rã trong nháy mắt và Liên xô sụp đổ ngay sau đó sau 74 năm tồn
tại. Đương nhiên, ai cũng hiểu việc Liên xô sụp đổ do nhiều nguyên nhân
phức tạp, nhưng không thể không kể đến nguyên nhân về tổ chức quản trị
quốc gia như nêu trên đây.
Những bài học cần rút ra
Ở nước ta trong một thời gian không ngắn cũng áp dụng hệ thống quản trị quốc gia na ná như ở Liên Xô đã phân tích trên.
Để
tránh hiểu lầm, cần nói rõ thêm, ở hầu hết các quốc quốc gia trên thế
giới, đảng chính trị sau khi thắng cử, nắm quyền quản trị quốc gia,
không bao giờ nhân danh một hay một số đảng cầm quyền để ban hành các
đường lối, chính sách phát triển đất nước nói chung cũng như từng lĩnh
vực trọng yếu, mà luôn nhân danh nhà nước để thực thi các chức năng quản
trị quốc gia.
Ở nước ta, khi công cuộc đổi mới được bắt đầu,
Đảng ta cũng làm rất nhiều việc, chẳng hạn giải thể một loạt các Ban mà
chức năng quản lý trùng lặp với các cơ quan quản lý Nhà nước (Ban Nông
nghiệp TW; Ban Công nghiệp; Ban Tài mậu...). Đồng thời, Đảng ta đã đề ra
mô hình quản trị quốc gia theo hướng: Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý –
Nhân dân làm chủ. Và Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý – Nhân dân làm
chủ đều phải theo khuôn khổ của pháp luật.
Mô hình ba vế vừa nêu
là đúng đắn, rõ ràng. Trong mấy thập niên qua, chúng ta đã từng bước
hình thành và hoàn thiện hệ thống pháp luật áp dụng đối với hệ thống
quản lý nhà nước. Các văn bản pháp quy đã quy định rõ, mỗi nhánh quyền
lực được làm những gì, không được làm gì. Chưa nói đến nội dung, về hình
thức văn bản pháp quy, chẳng hạn Quốc hội được ban hành Luật, Nghị
quyết; Chính phủ được ban hành Nghị định, Nghị quyết; Thủ tướng Chính
phủ được ban hành Quyết định, Chỉ thị… Tất nhiên vẫn còn vô số việc phải
làm để nâng cấp, hoàn thiện hệ thống pháp luật này.
Đối với hai
vế còn lại, nhất là vế "Đảng lãnh đạo, về mặt pháp lý vẫn còn các khoảng
trống lớn. Đây là sự chậm trễ rất đáng tiếc, để lại hậu quả không tốt.
Xin nói rõ thêm vài điều liên quan đến điều đáng tiếc đó.
Hiến
pháp của nước ta ghi rõ “Đảng Cộng sản Việt Nam […] là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội”; “Đảng Cộng sản Việt Nam […] chịu sự giám sát
của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của
mình”; “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt
động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật”.
Những điều ghi trên
đây là cần thiết, nhưng chưa đủ. Để đưa những nội dung rất quan trọng đã
được ghi vào Hiến pháp như vừa nêu vào thực hiện trong cuộc sống một
cách đúng đắn thì còn cần một hệ thống pháp luật quy định rõ "Đảng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội" là thế nào, Ban lãnh đạo cũng như người đứng đầu
cơ quan lãnh đạo Đảng các cấp được làm gì và không được làm gì; quy
định rõ cơ chế “chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước
Nhân dân về những quyết định của mình” là thế nào…
Báo cáo Chính
trị trình Đại hội XII và một số Đại hội Đảng trước đó cũng thừa nhận
một phần nội dung còn khiếm khuyết này: “Sự phân định giữa vai trò lãnh
đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước còn những nội
dung chưa rõ; phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở
các cấp còn nhiều điểm chưa được chế định rõ và phù hợp với nguyên tắc
của Nhà nước pháp quyền”.
Chúng ta đã hình thành được hệ thống
pháp luật để thực hiện vế “Nhà nước quản lý”, thì không khó khăn gì
trong việc hình thành hệ thống pháp luật để thực hiện hai vế còn lại,
nhất là vế “Đảng lãnh đạo”. Hệ quả của khiếm khuyết nêu trên là chúng ta
vẫn chưa hoàn toàn xóa bỏ được tình trạng “hai chính quyền song song
tồn tại trong một nhà nước thống nhất” trong quản trị quốc gia. Hệ lụy
của sự chậm trễ này, có nhiều. Dưới đây, xin nêu vài chuyện:
Thứ nhất,
trên thực tế, lâu nay Đảng nắm quyền quyết định tuyệt đối trong một số
lĩnh vực quan trọng. Thí dụ, Đảng nắm quyền quyết định tuyệt đối về công
tác cán bộ, không có ngoại lệ. Bao giờ lãnh đạo Đảng cũng là người đầu
tiên đưa quyết định liên quan đến các chức danh quản lý trong hệ thống
chính quyền Nhà nước, thăng quân hàm trong các lực lượng vũ trang. Sau
đó hệ thống chính quyền Nhà nước chỉ làm các thủ tục có tính chất hành
chính tiếp theo.
Ở đây, chưa cần bàn việc Đảng nắm quyền quyết
định tuyệt đối về công tác cán bộ như vừa nêu có hợp lý hay không, mà
điều cần bàn là việc Đảng nắm quyền quyết định tuyệt đối đó được quy
định tại văn bản pháp quy nào? Dường như chưa hề có văn bản pháp lý nào
quy định Đảng làm việc cụ thể ấy.
Thứ hai,
các văn kiện chính thức đã nói nhiều về sự “chồng chéo”, “lấn sân”,
“làm thay”… trong việc ra các quyết định trong điều hành phát triển đất
nước, nhưng thường nói về khiếm khuyết này trong nội bộ hệ thống.
Đã
có một vài dẫn chứng về “chồng chéo”, “lấn sân”, “làm thay” giữa “hai
hệ thống chính quyền”. Chẳng hạn, trong cuộc sống có vô số công việc
liên quan đến quản trị quốc gia, theo hệ thống pháp luật hiện hành đã
quy định rất rõ, là việc của cơ quan quản lý Nhà nước, nhưng cơ quan
Đảng tự mình vẫn ban hành quyết định và yêu cầu mọi người dân phải chấp
hành.
Hoặc cũng có vô số công việc, theo hệ thống pháp luật hiện
hành quy định, đó đích thực là việc của cơ quan quản lý Nhà nước. Nhưng
vì nhiều lý do khác nhau, cơ quan quản lý Nhà nước luôn “xin ý kiến chỉ
đạo” của cơ quan lãnh đạo Đảng tương ứng, mà thực chất là xin quyết định
của lãnh đạo cơ quan Đảng đó.
Cả hai tình huống vừa nêu xảy ra cả ở Trung ương lẫn địa phương, nhưng càng xuống cấp dưới xảy ra càng phổ biến hơn.
Hậu
quả để lại của các tình huống vừa nêu là không tốt, cũng có thể nói là
xấu. Hậu quả xấu thường hay nhắc tới là bộ máy quản lý phình to, kém
hiệu quả… Đó chỉ là phần không lớn, phần nổi của hậu quả xấu. Hậu quả
nặng nề nhất của tình trạng nêu trên là gây ra sự mâu thuẫn, chậm trễ
không đáng có trong việc ra quyết định điều hành, phát triển đất nước.
Bởi
chậm trễ trong việc đưa ra các quyết định liên quan đến quản trị quốc
gia luôn gắn với “lỡ nhịp”, gắn với “mất cơ hội”. Mà mất cơ hội để đi
lên là mất mát tiền của của dân, mất cơ hội phát triển, tụt hậu ngày
càng xa so với các quốc gia khác…
Thứ ba,
tuy Hiến pháp quy định rõ: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật”; Đảng
“chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về
những quyết định của mình”, nhưng trên thực tế, hình như chưa có văn
bản pháp quy nào thể chế hóa “khuôn khổ” nêu trong Hiến pháp, cũng như
chưa có văn bản pháp quy nào quy định trách nhiệm pháp lý và vật chất
trước dân về các quyết định do Đảng đưa ra.
Đương nhiên từ đó Đảng
không chịu sự giám sát, kiểm soát của dân một cách cụ thể và sát thực.
Tha hóa luôn gắn liền với quyền lực. Đảng ta đang ra sức chống tha hóa
đối với từng cán bộ, đảng viên. Nhưng người viết cho rằng loại bỏ cho kỳ
được nguyên nhân sinh ra tha hóa là quan trọng, là cơ bản hơn nhiều.
Bài
viết đã quá dài, xin phép dừng ở đây. Lần nữa, rất hoan nghênh
VietNamNet mở Diễn đàn “Vì Việt Nam hùng cường”. Tôi cho rằng đây là nơi
rất tốt để mọi người tâm huyết nêu thực trạng, nguyên nhân cốt lõi của
tình hình và kiến nghị của mình để làm sao cho Việt Nam thịnh vượng. Nếu
được phép, tôi sẽ cùng mọi người tìm cách trả lời các khía cạnh khác
nhau của các câu hỏi do Diễn đàn nêu ra và tôi có nhắc lại tại các bài
viết trước.
Hải Lộc