Trung Quốc 2018 - Bài 3 : Một sự sụp đổ có thể là một tai họa toàn cầu (Nguyễn Gia Kiểng)
Đừng
quên là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 đã nổ ra khi ngân hàng đầu tư
Lehman Brothers phá sản. Lần này một sự phá sản đột ngột của kinh tế
Trung Quốc sẽ kéo theo sự phá sản không chỉ của một mà nhiều ngân hàng
và quỹ đầu tư lớn. Chấn động sẽ dữ dội gấp nhiều lần và không chỉ nhân
dân Trung Quốc khốn khổ mà nhiều nước, kể cả Việt Nam, cũng sẽ phá sản
theo với những bi kịch không lường được. Khủng hoảng của kinh tế sắp tới
của Trung Quốc vì thế phải được chuẩn bị và quản lý với tất cả thận
trọng. (Nguyễn Gia Kiểng)
III. Một sự sụp đổ có thể là một tai họa toàn cầu
Trong hai bài trước tôi đã trình bày một cái nhìn chung về Trung Quốc và cuộc phiêu lưu được gọi là "Sáng kiến Vành đai và Con đường". Lần này xin thảo luận về những gì sắp đến.
Trước
hết là một cảnh giác. Phải rất thận trọng với những con số về kinh tế
Trung Quốc. Chúng có thể rất khác nhau và khiến cuộc thảo luận bế tắc
ngay từ đầu.
Thí
dụ như tổng sản lượng nội địa (GDP) của Trung Quốc. Con số này có thể
là 23.000 tỷ, hay 12.000 tỷ hay 7.000 tỷ USD tùy theo nguồn gốc của nó
và cách nhìn của mỗi người. Một con số mơ hồ như vậy có giá trị gì trong
một cuộc thảo luận ? Tuy vậy chúng ta vẫn cần đến nó để theo dõi tỷ lệ
tăng trưởng, một chỉ số quan trọng để đánh giá tình trạng kinh tế của
một quốc gia.
Phải
loại con số 23.000 tỷ USD. Đây là "GDP tính theo mãi lực" của Trung
Quốc do Ngân Hàng Thế Giới ước lượng. Nó có nghĩa là "nếu so với vật giá
ở Mỹ thì phải coi như GDP của Trung Quốc là 23.000 tỷ USD" và chỉ có
mục đích giúp ta có một ý niệm về mức sống tại Trung Quốc chứ hoàn toàn
không có một giá trị nào trong quan hệ kinh tế quốc tế. Còn lại là GDP
danh nghĩa (GDP nominal). Sau nhiều bàn cãi con số được phần lớn các
định chế tài chính và cơ quan truyền thông ghi nhận là 12.000 tỷ USD.
Các ước lượng về mức tăng trưởng của Trung Quốc dựa trên con số này.
Tuy nhiên đặc tính chung của các số liệu của Trung Quốc là rất không chính xác,
nhiều chuyên gia nói rằng GDP của Trung Quốc nếu tính lại một cách
nghiêm chỉnh chỉ vào khoảng 7.000 tỷ USD. Họ cũng có lý nếu loại khỏi
GDP những "sản lượng" vô ích chỉ được làm ra để nâng GDP lên và sẽ hư
hao với thời gian, thí dụ như những thành phố ma.
Số
nợ của Trung Quốc được biết rõ hơn. Hầu như mọi định chế tài chính đều
đồng ý rằng khối nợ của Trung Quốc cuối năm 2017 là trên 31.000 tỷ,
nghĩa là 260% GDP nếu dùng con số GDP 12.000 tỷ USD, trong đó chính phủ
nợ 5.500 tỷ, các công ty quốc doanh nợ 19.000 tỷ, các gia đình nợ 6.000
tỷ, phần còn lại là nợ của các ngân hàng. Như vậy khối nợ công của nhà
nước Trung Quốc (nợ chính phủ và nợ của các công ty nhà nước) là khoảng
25.000 tỷ USD, nghĩa là hơn hai lần GDP. Ngoài ra, các chính quyền tỉnh
còn nợ còn nợ khoảng 6.000 tỷ USD. Không hiểu vì sao khối nợ này ít khi
được kể vào khối nợ công. Có thể chỉ vì nó chưa đầy đủ, nghĩa là chưa
bao gồm tất cả các khoản nợ của tất cả các tỉnh ? Nếu như thế thì khối nợ
công của Trung Quốc phải ít nhất là 31.000 tỷ USD, nghĩa là hơn hai lần
rưỡi con số GDP 12.000 tỷ USD mà Trung Quốc chưa chắc đã có.
Nhưng
chưa hết, các ngân hàng Trung Quốc còn một thủ thuật khác mà họ học
được từ các ngân hàng Mỹ để giấu nợ. Họ lập những công ty tài chính ma
để cho vay, rồi kể tài sản của các công ty này (trong đó có các khoản
cho vay) như là đầu tư thay vì nợ. Đây không phải là một nghi ngờ của
các quan sát viên mà là một phát hiện của Ủy Ban Kiểm Tra Ngân Hàng của
Trung Quốc, do chính ông chủ tịch Shang Fu-lin công bố. Các khoản tín
dụng trá hình này được ước lượng là ở mức ít nhất 2.000 tỷ USD.
Tóm
lại, tuy các con số của Trung Quốc rất thiếu chính xác nhưng chúng ta
có thể khẳng định là mức nợ công của Trung Quốc rất cao, cao hơn tất cả
những gì được công bố, cao một cách nguy ngập. Chính vì nhận định khối
nợ công của Trung Quốc thực sự đã quá nguy ngập mà ngày 23/05/2017 cơ
quan thẩm định Moody's đã hạ điểm tín nhiệm của Trung Quốc khiến cho lãi
suất công trái của Trung Quốc đã dần dần leo lên tới 3,2% cho các công
trái hai năm và chắc chắn sẽ còn leo lên nữa. Với lãi suất này, Trung
Quốc từ nay sẽ phải trả 1.000 tỷ USD mỗi năm cho tiền lãi của nợ công.
Để so sánh, lãi suất công trái hai năm của Mỹ là 0,5%, chính phủ Mỹ phải
trả khoảng 100 tỷ USD cho tiền lãi nợ công, nghĩa là bằng 1/10 số tiền
lãi mà Trung Quốc phải trả.
Sở
dĩ nhiều người vẫn còn tin là kinh tế Trung Quốc chưa thực sự lâm nguy
là vì khối ngoại tệ dự trữ của Trung Quốc vẫn còn khá lớn, dù đã giảm từ
4.000 tỷ USD xuống còn 3.000 tỷ USD. Nhưng nếu nhìn sát hơn thì trong
khối dự trữ này 1.000 tỷ USD không còn động viên nhanh chóng được nữa vì
đã được sử dụng trong các quỹ đầu tư, 2.000 tỷ USD còn lại chủ yếu để
cấp cứu các ngân hàng, thị trường chứng khoán và đồng Nhân Dân Tệ.
Thị
trường chứng khoán Thượng Hải đã giảm hơn 20%, Thẩm Quyến sụt gần 30%
mặc dù chính quyền Trung Quốc không ngừng cứu giúp - Ảnh minh họa
(zonebourse.com)
Khi
tôi viết các dòng này thì từ đầu năm 2018 đồng Nhân Dân Tệ đã mất giá
9% so với đồng Đôla Mỹ, thị trường chứng khoán Thượng Hải đã giảm hơn
20%, Thẩm Quyến sụt gần 30% mặc dù chính quyền Trung Quốc không ngừng
cứu giúp, trong khi các thị trường chứng khoán Mỹ, Nhật và Châu Âu hoặc
thăng bằng hoặc chỉ sụt từ 5% tới 10%. Dự trữ của Trung Quốc tuy lớn
nhưng vẫn thiếu.
Bàn
về tình hình kinh tế Trung Quốc cũng sẽ thiếu sót nếu bỏ qua những nét
đặc thù có ảnh hưởng quan trọng, nhất là trong tình trạng khó khăn hiện
nay. Ngoài hàng trăm tỷ USD đào thoát ra nước ngoài hàng năm còn có ít
nhất hai hiện tượng cần được lưu ý.
Một
là loại "tín dụng tay đôi" (crowd lending, hay peer to peer, viết tắt
là P2P). Loại tín dụng này có ở hầu như mọi nước nhưng không đâu mạnh
như ở Trung Quốc. Tầm vóc của nó tại Trung Quốc lớn hơn hẳn tất cả phần
còn lại của thế giới. Một cách vắn tắt, đó là những công ty được thành
lập chung quanh một trang Web và dùng trang Web này kêu gọi quần chúng
trực tiếp cho các công ty vay. Các công ty P2P này đảm nhiệm vai trò cầu
nối giữa tư nhân cho vay và các công ty cần vay tiền để kinh doanh,
thường thường là những công ty không đủ tiêu chuẩn để vay tiền tại các
ngân hàng. Sự hấp dẫn của công thức này là lãi suất rất cao, có thể đến
15% mỗi năm, cao gấp 4 hoặc 5 lần lãi suất tiết kiệm. Ngược lại rủi ro
rất cao và lừa bịp cũng rất nhiều. Chính quyền Trung Quốc trong cố gắng
kích thích tăng trưởng để thoát hiểm sau cuộc khủng hoảng 2008 đã để mặc
cho các công ty P2P này phát triển, thậm chí còn khuyến khích. Đã có
hàng chục ngàn công ty P2P ra đời, lôi kéo hơn 50 triệu người ghi danh
cho vay, huy động trên 10.000 tỷ USD. Gần đây chúng ồ ạt phá sản, nhiều
chủ công ty P2P ôm tiền của khách hàng trốn ra nước ngoài. Những người
cho vay mất trắng. Theo tờ Hoa Nam Tảo Báo (South China Morning
Post) thì tới nay đã có hơn 4.500 công ty P2P phá sản, với 225 vụ phá
sản riêng trong tháng 7/2018 vừa qua. Vụ phá sản được nói tới nhiều trên
báo chí Trung Quốc là công ty eZubao làm mất 6,7 tỷ USD. Sự phá sản của
phong trào P2P này, sau khủng hoảng của thị trường chứng khoán Thượng
Hải và Thẩm Quyến năm 2015 đã làm cạn kiệt khối tiền tiết kiệm tư nhân,
khiến chính quyền Trung Quốc không còn nguồn vốn trong nước để động viên
nữa.
Các
công ty P2P này đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa tư nhân cho vay và các
công ty cần vay tiền để kinh doanh, thường thường là những công ty không
đủ tiêu chuẩn để vay tiền tại các ngân hàng - Ảnh minh họa (P2P
Construction-The Star)
Một
hiện tượng khác mà báo chí Trung Quốc nói đến là các công ty quốc doanh
sau khi vay được tiền ở các ngân hàng nhà nước với lãi suất thấp đem
cho các công ty tư nhân vay lại với lãi suất cao hơn để lấy lời. Càng
làm gia tăng nguy cơ sụp đổ dây chuyền.
Trong cơn hốt hoảng
Chúng
ta sẽ không thể hiểu vì đâu Trung Quốc đến nông nỗi này nếu không ý
thức được sự hốt hoảng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc sau cuộc khủng hoảng
năm 2008, khi kinh tế thế giới sụp đổ vì hai bong bóng địa ốc và chứng
khoán bể tại Mỹ. Cuộc khủng hoảng này sau hơn mười năm vẫn chưa chấm dứt
vì đa số các chính quyền vẫn còn đang phải gánh những khối nợ công
ngang với GDP.
Trước năm 2008 mô hình kinh tế Trung Quốc có thể gọi tắt một cách chính xác là "mô hình tăng trưởng dã man".
Đó là mô hình tăng trưởng bất chấp cả con người lẫn môi trường, chỉ
nhắm sản xuất thật nhiều với giá thành thật rẻ để xuất khẩu tối đa. Nói
cách khác, chính quyền cộng sản Trung Quốc xuất khẩu sự nghèo khổ mà
chính họ là nguyên nhân. Mô hình này đã khiến kinh tế Trung Quốc tăng
trưởng liên tục trên 10% mỗi năm trong gần 30 năm, với cao điểm là 14%
năm 2007 ngay trước cuộc khủng hoảng.
Người
ta nói tới một phép mầu Trung Quốc mà không tìm hiểu tại sao các cấp
lãnh đạo tuyệt đối không có một sự hiểu biết nào về kinh tế, hơn nữa còn
suốt đời được đào tạo để phủ nhận kinh tế thị trường, lại có thể tạo ra
một phép mầu như vậy. Trong cơn choáng váng người ta đã quên rằng mọi
sự kiện đều có logic của chúng. Trung Quốc thật ra đã trả một giá kinh
khủng cho sự tăng trưởng này. Môi trường đã bị tàn phá một cách triệt để
và không thể phục hồi. Một phần lớn của miền Bắc Trung Quốc đã trở
thành khô cằn ; hơn một nửa các dòng sông không còn nước, các con sông
còn lại ô nhiễm tới mức mọi sự sống gần như biến mất.
Cuối
năm 2007 tôi đã tham quan Trung Quốc và nhận xét rằng các thành tựu
hoành tráng của Trung Quốc thực ra chỉ là những Vạn Lý Trường Thành mới
tuy bề ngoài hào nhoáng nhưng chỉ làm Trung Quốc kiệt quệ về lâu về dài.
Tôi vẫn giữ nguyên quan điểm đó.
Cũng
không phải chỉ có thế, lý tưởng công bằng xã hội mà Đảng Cộng Sản Trung
Quốc đề cao để biện minh cho việc gây ra cái chết của hàng trăm triệu
người Trung Quốc trong nội chiến cũng như trong các chiến dịch Bước Nhảy
Vọt và Đại Cách Mạng Văn Hóa đã hoàn toàn biến mất nhường chỗ cho một
chênh lệch giầu nghèo chưa từng có, không chỉ giữa những con người mà
còn cả giữa các vùng.
Tăng
trưởng kinh tế chủ yếu tập trung ở khu vực Bắc Kinh và vùng bờ biển
phía Đông, tổng cộng vào khoảng 1/5 lãnh thổ, nhưng ngay trong các vùng
này bất công xã hội cũng cực kỳ thách đố. Hàng trăm triệu người đổ về
Bắc Kinh, Thẩm Quyến, Thượng Hải và các thành phố duyên hải để bán sức
lao động, họ sống chen chúc trong những khu nhà chật hẹp và dơ bẩn.
Vào
cuối năm 2007 tôi đã thấy một đám đông mà tôi chưa bao giờ thấy. Tại
quảng trường trước nhà ga Bắc Kinh hàng triệu người chen chúc nhau. Họ
đứng, ngồi và nằm bên cạnh những bao hành lý lớn. Đó là các công nhân từ
các tỉnh chờ xe lửa để về quê thăm gia đình. Họ chỉ là một thiểu số
trong số những người tha hương cầu thực bởi vì những người này trung
bình chỉ về quê thăm gia đình mỗi năm một lần.
Trên
thực tế phải nói Trung Quốc không phải là một nước với 1.400 triệu dân
như cách nhìn bình thường. Đó là một nước với khoảng 300 triệu dân và
một khối nô lệ hơn một tỷ người bị bóc lột thẳng tay.
Cuộc di dân khổng lồ của hàng trăm triệu công nhân Trung Quốc về quê ăn Tết mỗi năm - Ảnh minh họa
Ban
lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đã hốt hoảng khi cuộc khi cuộc khủng hoảng
kinh tế 2008 nổ ra vì ít nhất hai lý do. Một là kinh tế Trung Quốc lúc
đó chủ yếu dựa vào xuất khẩu trong khi xuất khẩu chắc chắn sẽ sút giảm
rất nặng. Hai là, quan trọng hơn, chế độ Trung Quốc dựa trên một hợp
đồng bất thành văn, theo đó chính quyền được quyền mặc sức hủy hoại môi
trường và khai thác sức lao động của quần chúng cũng như của các tỉnh
phía Tây, nhân danh một tỷ lệ tăng trưởng cao hứa hẹn một ngày mai tươi
sáng ; hợp đồng này nếu không được tôn trọng sẽ đưa tới bạo loạn và ly
khai.
Kết
luận của Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc mà Ôn Gia Bảo đã là
người đầu tiên nói ra là phải giữ tỷ lệ tăng trưởng ở mức 8%. Trong một
bài trước tôi đã trình bày là họ đã tìm đủ mọi cách để giữ tỷ lệ tăng
trưởng này, dù là một cách giả tạo. Họ đã cố phát triển thị trường nội
địa, nhưng cố gắng này đã không thành công mà còn có kết quả ngược lại
là khiến hoạt động xuất khẩu trở thành khó khăn hơn. Họ đã dồn tiền vào
các thị trường chứng khoán với mơ ước biến Thượng Hải và Thẩm Quyến
thành những trung tâm tài chính lớn như New York, Tokyo hay London để có
thể huy động các nguồn tài chính thế giới ; dự án này không chỉ thất
bại mà còn là một thảm họa đến nay vẫn còn tiếp tục tàn phá một nền tài
chính vốn đã rất nguy ngập. Cố gắng chuyển hóa từ một nền kinh tế dựa
trên khối lượng sang một nền kinh tế phẩm chất cao là đúng nhưng đòi hỏi
thời gian và những yếu tố khác mà các chế độ độc tài không có : tự do, ý
kiến và sáng kiến.
Giải
pháp cứu nguy còn lại là xây dựng, xây dựng trong nước rồi xây dựng
ngoài nước khi không còn xây dựng thả cửa ở trong nước được nữa.
Như tôi đã viết trong một bài trước (2), giải pháp này, được gọi là "Sáng kiến Vành đai và Con đường"
(Belt and Road Initiative), thực ra chẳng có gì là độc đáo để đáng được
gọi là một sáng kiến. Nó chỉ là một giải pháp dễ dãi. Ai cũng biết
ngành xây dựng có tác dụng lôi kéo rất nhiều ngành khác. Người Pháp có
câu "Khi xây dựng lên thì tất cả đều lên" (Quand le bâtiment va, tout va).
Ngành
xây dựng dễ tăng cường vì không đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp lại có
hiệu ứng lôi kéo lớn nên nó luôn luôn là cám dỗ của các chính quyền hoặc
muốn tăng trưởng nhanh hoặc muốn thoát hiểm trong một bối cảnh kinh tế
khó khăn. Điều mà một số người không lưu ý đúng mức là ngược lại khi
ngành xây dựng bế tắc nó cũng khiến rất nhiều ngành khác bế tắc theo và
gây khủng hoảng lớn. Đó là điều đã xảy ra tại Mỹ năm 2008 khi chiếc bong
bóng địa ốc xì hơi. Đó cũng là lý do khiến Espana và Hy Lạp khốn đốn từ
mười năm nay. Xây dựng có hiệu quả tức khắc nhưng nguy hiểm về lâu về
dài. Nó như một thứ thuốc kích thích phải được sử dụng một cách rất thận
trọng. Ban lãnh đạo cộng sản Trung Quốc chắc chắn phải biết điều này vì
nó quá sơ đẳng nhưng họ không còn chọn lựa nào khác.
Càng chìm sâu thêm trong nguy ngập
Vấn
đề của Bắc Kinh là họ không thể giảm bớt các hoạt động xây dựng vì
ngành này và những ngành gắn bó chặt chẽ với nó đang nuôi sống hàng trăm
triệu gia đình. Giảm xây dựng là dồn họ vào thế tuyệt vọng và chắc chắn
sẽ có bạo loạn.
Khó
khăn của Trung Quốc không dừng lại ở đó. Ngoài đe dọa kinh tế Trung
Quốc còn phải đương đầu một cách tuyệt vọng với một tai họa còn to lớn
hơn nhiều : môi trường. Một phần lớn của đất nước Trung Quốc gần như đã
bị hy sinh trên bàn thờ thần Tăng Trưởng.
Năm
2007, khi bầu trời Bắc Kinh và Hà Bắc đã đen nghịt khói, tôi đọc được
nhiều tài liệu cho biết là Trung Quốc dự định xây thêm mỗi năm hơn một
ngàn nhà máy nhiệt điện than và nhiều ngàn nhà máy chạy bằng than khác
như thép, phân bón, giấy v.v. Trong suốt một tháng đi đâu trên khắp
Trung Quốc (xin nhấn mạnh là trên khắp Trung Quốc !), tôi cũng gặp những
đoàn du lịch của Tổng Công Ty Than Khoáng Sản Việt Nam. Trung Quốc mua
tất cả khối lượng than mà Việt Nam có thể bán. Đó là thời vàng son của
than. Rồi đùng một cái các nhà lãnh đạo Trung Quốc khám phá ra là thời
đại của than đã chấm dứt và thời đại của dầu khí cũng sắp chấm dứt
nhường chỗ cho năng lượng tái tạo được, chủ yếu là năng lượng mặt trời.
Họ không biết phải làm gì với những thiết bị đã chế tạo ra cho những nhà
máy chạy bằng than được dự định thành lập nhưng sẽ không thành lập nữa.
Chỉ còn một giải pháp là xuất khẩu chúng bằng mọi giá.
Để
có thể xuất khẩu Trung Quốc đề nghị với tất cả các nước những hợp đồng
xây dựng và lắp ráp các kết cấu hạ tầng cũng như các nhà máy với những
điều kiện thật dễ dãi. Các ngân hàng của Trung Quốc, hoặc do Trung Quốc
tài trợ như AIIB, cho các nước đối tác vay để trả tiền các công trình do
các công ty quốc doanh Trung Quốc đấu thầu thực hiện. "Vành đai và Con
đường" là một cụm từ mơ hồ bao gồm tất cả những công trình mà Trung Quốc
thi công ở nước ngoài. Để thực hiện những công trình này, Trung Quốc
cho vay để khách hàng thanh toán cho mình, và cho vay bất chấp cả khả
năng hoàn trả của khách hàng. Những món nợ này dĩ nhiên là mất không
trong đa số các trường hợp.
Nhưng
Trung Quốc lấy tiền đâu để cho vay ? Câu trả lời giản dị là họ đi vay,
chủ yếu của các quỹ đầu tư đủ loại trên thế giới. Từ vài năm nay tình
hình kinh tế Trung Quốc có thể tóm tắt như sau : Trung Quốc nợ ngập đầu,
phải vay nợ mới để trả nợ cũ, phải vay thêm để tiếp tục cho vay, và cho
vay những con nợ ít khả năng hoàn trả. Tình trạng điên loạn này dĩ
nhiên không thể kéo dài.
Bao giờ và phải như thế nào ?
Nhưng bao giờ nó phải chấm dứt ?
Cho
tới nay nhiều chuyên gia đã dự đoán sự sụp đổ nhanh chóng của kinh tế
Trung Quốc. Các dự đoán này đều hợp lý nhưng đã không thành sự thực vì
ít nhất ba lý do :
Một là,
các chuyên gia này đã phạm sai lầm là lý luận về Trung Quốc như là một
nước trong khi Trung Quốc là một đế quốc và một đế quốc -hiểu theo nghĩa
nhiều nước phục tùng một trung tâm- sụp đổ một cách khác, phức tạp hơn
và lâu hơn.
Hai là,
trong tình trạng của Trung Quốc hiện nay sự sụp đổ kinh tế có mọi triển
vọng sẽ kéo theo cả sự sụp đổ của chế độ cộng sản và sự tan vỡ của
Trung Quốc, chính quyền Bắc Kinh vì vậy phải tìm mọi cách để trì hoãn nó
bằng mọi giá. Họ kháng cự tới cùng vì không còn gì để mất và để sợ.
Ba là,
các ngân hàng và các quỹ đầu tư đã cho Trung Quốc vay quá nhiều tiền
cho nên mắc kẹt và dù muốn hay không cũng vẫn bắt buộc phải tiếp tục cho
Trung Quốc vay vì sự sụp đổ của kinh tế Trung Quốc rất có thể sẽ kéo
theo sự khủng hoảng, thậm chí sự sụp đổ, của chính họ và do đó một khủng
hoảng lớn cho thế giới.
Tuy
vậy, vào lúc này, ta có thể nói là khủng hoảng kinh tế của Trung Quốc
không còn xa vì những dấu hiệu chắc chắn của khủng hoảng đã rõ ràng và
ngày càng nhiều. Khối nợ kinh hoàng của Trung Quốc là điều mà cả thế
giới đã biết và chỉ có thể tăng lên chứ không thể giảm đi, dự trữ của
Trung Quốc rất mỏng manh, thị trường chứng khoán của Trung Quốc liên tục
xuống nhanh chóng dù ngân hàng trung ương phải không ngừng cứu trợ, lãi
suất của các trái phiếu Trung Quốc đã vượt quá 3% và còn đang tiếp tục
lên. Các tin xấu đến hầu như hàng tuần.
Chúng ta không biết ngày nào nhưng chúng ta có thể biết khi nào
Trung Quốc sẽ lâm vào khủng hoảng kinh tế. Đó là lúc Trung Quốc không
còn vay nợ được nữa và lúc đó không còn xa bởi vì các cơ quan giám định,
như Moody's, đã đánh giá các món nợ Trung Quốc là rủi ro. Lãi suất các
trái phiếu Trung Quốc hiện nay đã ở mức 3,2%. Nó sẽ tiếp tục tăng lên
ngày càng nhanh và khi nó đạt tới mức 6% hay 7% thì không còn quỹ đầu tư
nào dám chối bỏ sự thực để tiếp tục cho Trung Quốc vay nữa ; lúc đó
kinh tế Trung Quốc sẽ sụp đổ với những hậu quả rất nghiêm trọng cho
Trung Quốc và cho cả thế giới nếu sự sụp đổ đến một cách đột ngột.
Tháng
trước tôi có nói chuyện với hai người bạn chuyên gia cao cấp. Chúng tôi
chia sẻ cùng một phân tích về tình hình Trung Quốc, kể cả nhận định
rằng kinh tế Trung Quốc sẽ sụp đổ vì những sai lầm của chính nó chứ hoàn
toàn không phải vì cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ. Nhưng khi tôi
nói rằng Trung Quốc có thể lâm vào khủng hoảng trong vòng hai năm nữa
thì họ dè dặt. Theo họ kinh tế Trung Quốc đáng lẽ đã phải khủng hoảng
lâu rồi nhưng nó vẫn còn đứng được chừng nào vẫn còn nhiều định chế tín
dụng, dù tự nguyện hay miễn cưỡng, tiếp tục cho Trung Quốc vay và những
định chế này vẫn còn khá nhiều.
Năm
2013, khi chính thức lên làm tổng bí thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc kiêm
chủ tịch nước, Tập Cận Bình đã long trọng công bố "Sáng kiến Một vành
đai Một con đường".
Tập
Cận Bình được bầu làm phó chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa từ
đầu năm 2008 để chuẩn bị thay thế Hồ Cẩm Đào. Như vậy ông đã có vai trò
quyết định trong chính sách kinh tế ngay khi cuộc khủng hoảng 2008 nổ
ra. Năm 2013 khi chính thức lên làm tổng bí thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc
kiêm chủ tịch nước ông đã long trọng công bố "Sáng kiến Một vành đai
Một con đường". Năm 2017 cũng ông đặt cho nó một tên mới : "Vành đai và
Con đường". Ông có thể được coi như là cha đẻ của chính sách kinh tế của
Trung Quốc trong hơn mười năm qua, một chính sách nhắm trước hết cứu
nguy đảng và chế độ cộng sản Trung Quốc. Chính vì thế mà ông đã được
Đảng Cộng Sản Trung Quốc dành cho mọi vinh dự và quyền lực. Tuy vậy có
mọi triển vọng chính sách này sẽ làm kinh tế Trung Quốc sụp đổ, làm chấn
động thế giới, làm sụp đổ chế độ cộng sản và làm Trung Quốc sau đó tan
vỡ làm nhiều khối. Có triển vọng cuộc khủng hoảng sẽ xảy ra ngay trong
nhiệm kỳ thứ hai này của ông. Tại sao không ai tranh giành quyền lực với
ông ? Có thể vì không ai muốn chịu trách nhiệm về một thảm bại chắc
chắn sẽ đến.
Người
ta có lý do chính đáng để ghét chế độ cộng sản Trung Quốc và mong nó
sụp đổ nhưng không phải vì thế mà mong nó sụp đổ ngay tức khắc. Đừng
quên là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 đã nổ ra khi ngân hàng đầu tư
Lehman Brothers phá sản. Lần này một sự phá sản đột ngột của kinh tế
Trung Quốc sẽ kéo theo sự phá sản không chỉ của một mà nhiều ngân hàng
và quỹ đầu tư lớn. Chấn động sẽ dữ dội gấp nhiều lần và không chỉ nhân
dân Trung Quốc khốn khổ mà nhiều nước, kể cả Việt Nam, cũng sẽ phá sản
theo với những bi kịch không lường được.
Khủng
hoảng của kinh tế sắp tới của Trung Quốc vì thế phải được chuẩn bị và
quản lý với tất cả thận trọng. Giải pháp đương nhiên là phải để các công
ty quốc doanh Trung Quốc lần lượt phá sản theo một nhịp độ mà các định
chế đầu tư có thể tiêu hóa được. Muốn như thế thì không thể đột ngột
ngừng cho vay hàng loạt các công ty lớn của Trung Quốc. Chắc chắn thế
giới đã rút được bài học Lehman Brothers.
Ảnh hưởng đến Việt Nam sẽ như thế nào ?
Nếu
như thế thì ảnh hưởng đến Việt Nam sẽ không quá nghiêm trọng. Các đế
quốc khác với các quốc gia ở chỗ chúng không hung hăng gây hấn với nước
ngoài khi bị khủng hoảng nội bộ. Chúng ta sẽ không sợ những hành động
liều lĩnh của Trung Quốc, kể cả trên Biển Đông. Tuy vậy cuộc khủng hoảng
sắp tới tại Trung Quốc sẽ rất lớn và Việt Nam sẽ như sống bên cạnh một
núi lửa đang phun trong một thời gian dài. Việt Nam cần những người lãnh
đạo có kiến thức và tầm nhìn để tránh những tai họa đáng lẽ có thể
tránh được. Cho đến nay những người kế tiếp nhau lãnh đạo đảng và nhà
nước cộng sản Việt Nam đều không chứng tỏ khả năng đó.
Một
bằng chứng là họ rập khuôn theo Trung Quốc mà không nhìn thấy sự khác
biệt căn bản giữa hai nước. Việt Nam có thể chuyển hóa về dân chủ mà vẫn
nguyên vẹn với cùng một lãnh thổ và dân số trong khi đó không phải là
trường hợp của Trung Quốc.
Nguyễn Gia Kiểng
(12/12/2018)
-----------------