Chính sách đào tạo trí thức của nước Nga (Vương Trí Nhàn)
Nên đọc bài này để biết chế độ cộng sản Liên xô đã thành công như thế nào trong việc tiêu diệt và loại bỏ hoàn toàn tầng lớp trí thức tinh hoa của Nga sau năm 1917 và thay thế vào đó là một tầng lớp nông dân có bằng cấp cao. Hậu quả của việc tiêu diệt trí thức đã làm cho nước Nga giàu có và hùng mạnh trở thành kiệt quệ và sụp đổ sau 73 năm cầm quyền của đảng cộng sản. Hậu quả đó vẫn tiếp diễn khi Putin, một nhà độc tài kiểu mới dành được quyền lực và nắm quyền trọn đời tại Nga. Trí thức Nga hoàn toàn biến mất khỏi chính trường Nga. Nhiều lãnh đạo Việt Nam học từ Nga về và mang theo văn hóa độc tài, coi rẻ trí thức đó nên Việt Nam ngày càng lụn bại.
Tập tiểu luận Về trí thức Nga (La Thành và Phạm Nguyên Trường dịch, nxb Tri thức H. 2009) gồm có nhiều bài viết xuất sắc
+ Chân lý của triết học và sự thật của người trí thức
+ Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh của tầng lớp trí thức cả hai cùng của tác giả N.A. Berdaev
+ Tầng lớp kỹ giả -- Alekssandr Solzhenítsyn
+ Phẩm tính trí thức -- Dmitri Likhachev
Riêng bài Bàn về số phận của tầng lớp có học ở Nga của Sergey
Kirilov thì bàn sâu vào lớp trí thức Nga sau 1917. Tầng lớp này đã được
quan niệm như thế nào, nhà nước xô viết đã hình thành họ theo những
cách thức ra sao, tại sao giới trí thức Nga lại có bộ mặt như chúng ta
đang thấy, tại sao trong thời đại mới, đa số những người này dừng lại ở
cái trình độ thảm hại và kèm theo những suy đồi về đạo đức quá rõ so với
trí thức Nga trước Cách mạng.
Chúng tôi lược thuật bài này, cốt để các bạn xa gần qua đó, từ trí
thức Nga sau 1917, có thể hiểu thêm về lớp trí thức được đào tạo ở Hà
Nội sau 1954.
Trong cơn thức tỉnh sau chiến tranh, nay là lúc xã hội thường hay
chê trách lớp trí thức này về mọi mặt. Nhưng nếu hiểu được người trí
thức ở ta là thế và được nhào nặn như thế, chúng ta sẽ độ lượng với họ
hơn với nghĩa… bớt hy vọng ở họ hơn.
Cũng như ở các nền văn hóa khác, nền văn hóa Nga trước 1917 mang tính
thượng lưu. Lí do, chỉ có một số người có thể làm được việc mà đa số
không thể làm nổi. Trí thức nói chung chỉ chiếm tối đa 10%, còn thấp
nhất là 2 - 3%. Ở các cộng đồng khác đã vậy, ở Nga trước 1917 cũng vậy.
Đến thời Xô Viết, có một xu thế chỉ đạo việc đào tạo, đó là tạo nên
giới tri thức không có sự tách biệt với dân chúng như thời Nga hoàng. Để
làm được việc đó, người ta xóa bỏ những chuẩn mực cần thiết, tạo ra một
lớp trí thức yếu ớt phàm tục, không có khả năng độc lập mà phụ thuộc
nhà nước, do đó sống chết cũng phải trung thành với nhà nước. Tầng lớp
trí thức này luôn luôn được bổ sung bởi các bộ phận ít học là quần chúng
công nông, cho nên nó chỉ có trình độ rất thấp và một cấu trúc dễ bị
phá vỡ.
Từ căm ghét đến tiêu diệt trí thức cũ và thay thế bằng trí thức mới
Chính quyền Xô Viết có một niềm căm ghét đặc biệt đối với nền văn
hóa trước cách mạng, tồn tại trong lòng nó một giai tầng có học mang
tính hiện đại. Do yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, những năm đầu, họ
phải sử dụng tạm thời lớp trí thức đó, nhưng nhanh chóng tìm cách dần
dần thủ tiêu những người này -- cả với nghĩa đen lẫn nghĩa bóng là làm
biến chất họ --, thay vào đó là những người của mình.
Cách mạng đặt ra mục đích tiêu diệt trí thức đồng thời tiêu diệt văn hóa cũ.
Mặc dù số trí thức tham gia nội chiến không nhiều, nhưng đại diện
của tầng lớp trí thức vẫn chiếm từ 80 – 90% những người chống đối việc
thiết lập chế độ Bolsevik. Lúc ấy một phần lớn trí thức Nga là người
trong quân đội.
Vào năm 1917, tất cả những người có học, trong độ tuổi nghĩa vụ, đều là sĩ quan.
Những người Bolsevik nhận thức rõ kẻ thù thật sự của họ trong
cuộc nội chiến không phải là bọn tư sản và địa chủ, mà chính là tầng
lớp trí thức có quân hàm hoặc không đeo quân hàm.
Cuộc khủng bố đỏ được tiến hành nhằm vào tầng lớp trí thức ấy.
Các lãnh tụ Bolsevik coi việc giai cấp vô sản đã bẻ gãy được ý
chí của tầng lớp trí thức là sự bảo vệ tốt nhất cho thắng lợi của cách
mạng trong tương lai. Và cái mục đich cao cả ấy được dùng để biện hộ cho
những hành động phản tiến hóa của họ.
Sự đàn áp thô bạo, nạn đói, bệnh dịch – vốn là hậu quả của cách mạng
– làm mấy trăm ngàn trí thức thiệt mạng, một số thì lưu vong.
Những người còn sống sót thì bị thù ghét. Họ không có chỗ đứng trong
các sơ đồ mác - xit bởi lúc nào cũng làm vướng cẳng các lí thuyết gia
mác - xit. Theo quan niệm của những người xây dựng xã hội mới thì trong
tương lai tầng lớp này sẽ không còn. Hệ thống giáo dục có mục đích tạo
ra “một sự đồng nhất về mặt xã hội” (tương tự như Việt Nam từng có khẩu
hiệu Trí thức hóa công nông và công nông hóa trí thức -- VTN)
Đào tạo lớp người thay thế.
Bùng nổ về số lượng đi đôi với sự hạ thấp chất lượng
Tầng lớp trí thức Nga trước cách mạng có số lượng tương đối nhỏ, khoảng từ 2- 3 triệu người tức khoảng 3% dân số.
Ngược lại, dưới chính quyền Xô Viết, sự phát triển trí thức lại có
tính cách ồ ạt, nhà nước chủ trương một sự phát triến nhanh chóng và giả
tạo số người có học.
Tại sao cần vậy?
Luôn luôn trong giới trí thức cũ, người ta nhận ra những chuyên gia nổi loạn.
Nảy sinh nhu cầu thay thế.
Nhưng cái mà người không thể làm được là chất lượng.
Vậy phải bù vào bằng sự dư thừa số lượng để tạm an lòng.
Hầu như trong tất cả các giai đoạn lịch sử, người ta đều cố gắng
thúc đẩy việc đào tạo các chuyên gia và phát triển hệ thống trường học.
Mục đích là “biến tất cả mọi người thành trí thức” và không để cho giai
tầng này được hưởng đặc quyền đặc lợi nữa. Tốc độ đào tạo kỹ sư và
chuyên gia các ngành khác nhau vượt xa nhu cầu của nền kinh tế và được
quyết định chủ yếu bởi nhu cầu chính trị và tuyên truyền.
Có thể thấy sự gia tăng đột ngột số lượng người có học diễn ra trong
những năm 1930 qua các con số - chỉ trong một chục năm lớp người này đã
gia tăng gần 300%, riêng số người có bằng đại học và trung học chuyên
nghiệp gia tăng 360%.
Cú bùng nổ thứ hai diễn ra trong những năm 1950 – 1960, lúc đó trong
một số ngành tốc độ phát triển lên đến 100% trong có một chục năm.
Nhưng đặc điểm chung của cả hai giai đoạn bùng nổ này là lớp tri
thức mới có trình độ thấp hơn rất nhiều so với chuẩn mực trên thế giới.
Những trí thức xa lạ với văn hóa
Cuối những năm 80, cả Liên Xô có 87 triệu chuyên gia, trong đó 16
triệu người tốt nghiệp đại học. Sự phình ra một cách vô giới hạn tầng
lớp tri thức dẫn đến hiện tượng giả tạo là mặc dù mức độ phát triển khoa
học kĩ thuật và văn hóa xã hội của Liên Xô thấp hơn so với các nước
phát triển ở châu Âu, nhưng lại đứng đầu về số lượng bác sĩ kỹ sư cán bộ
nghiên cứu khoa học. Không chỉ về số lượng tuyệt đối mà Liên Xô còn
đứng đầu tỉ lệ trí thức tính theo đầu người. Đồng thời lớp trí thức này
lại được trả lương ở mức thấp nhất. Sự thấp kém nói ở đây không phải về
giá trị tuyệt đối mà là thấp hẳn so với mức lương trung bình của cả
nước.
Trở lại với sự so sánh trí thức cũ và mới. Nét đặc biệt của người
trí thức mới là họ phải phủ nhận bản chất tinh hoa của mình. Kết quả là
không có gì chung giữa tầng lớp có học hiện nay với lớp tri thức của
nước Nga xưa.
Trong xã hội Xô Viết, một người bình thường (không phải nhân vật mà
nhà nước đào tạo) gần với văn hóa truyền thống hơn là người có học kiểu
Xô Viết.
Người bình thường ấy còn giữ khái niệm về một nền văn hóa chân chính.
Nhưng người bình thường ấy lại không phải là nhân vật chủ đạo của xã hội.
Người có học thời Xô Viết không hiểu gì về người trí thức trước cách
mạng, cũng chả hiểu gì về châu Âu và văn hóa cổ điển. Họ bịa đặt ra một
số nét đặc thù của văn hóa Nga, mà thực tế chỉ là thứ văn hóa bị hạ
thấp và đứng ngoài mọi chuẩn mực.
Hợp thức hóa tình trạng vô học của giới quan chức.
Không chỉ đẩy mạnh đào tạo và tăng nhanh sinh viên, người ta còn đề
cử những người không có bằng cấp làm những việc đòi hỏi trí thức, bằng
cách đó tạo ra một sự hỗn loạn mà chỉ chủ nghĩa xã hội mới có.
Môt đặc điểm của bộ máy quan chức Xô Viết là sự phình ra vô tội vạ.
Số lượng nhân viên nhà nước thời Nga hoàng tính tới 1917 là 576.000, tới
1923 – 1925 con số quan chức đã lên tới 2.230.000.
Vấn đề cắt giảm bộ máy phải nói đến thường xuyên, nhưng sát nhập,
giải tán… chỉ là trò đùa. Không thể tưởng tượng nổi chế độ Xô Viết mà
không có quá trình quan liêu hóa.
Việc làm giảm trình độ giới trí thức nói chung còn được thúc đẩy bởi
việc có một số chuyên gia thực hành chỉ học theo lối hàm thụ cũng được
đề bạt đặc cách.
Sinh ra hàng loạt chức vụ đòi hỏi đại học, việc này tạo ra đơn đặt hàng giả tạo với ngành giáo dục.
Người ta đòi hỏi có bằng cấp ngay cả khi đó là nghề lao động bình thường (kiểu đại học phòng cháy chữa cháy của Việt Nam VTN).
Do hệ thống lương bổng quái gỡ, lại sinh ra hiện tượng có những
người chỉ làm công việc như công nhân cũng phải xoay sở bằng được lấy
bằng đại học, vì chỉ nhờ thế họ mới được tăng lương, -- tuy đó chỉ là
đồng lương chết đói (nhưng lại đã là quá cao so với lao động của họ.
VTN)
Sự tầm thường đã đến với lớp người vốn được coi là cao quý
Người ta đã học như thế nào?
Phần lớn giới trí thức Liên Xô được đào tạo rất hời hợt. Nguyên tắc
lớn nhất của giáo dục Xô Viết là tầm thường hóa lao động trí óc, tầm
thường hóa quá trình đào tạo những kẻ muốn phát triển về mặt trí tuệ.
Trong những năm 1920 – 1930 người ta sử dụng rộng rãi phương pháp
“học theo đội”, chỉ cần một sinh viên trả lời đúng là cả nhóm được cho
qua kỳ kiểm tra. Các chuyên gia được đào tạo theo kiểu đó vốn có trình
độ khá thấp ngay trước khi nhập trường, sẽ không thể nào so sánh được
với các trí thức trước cách mạng. Trình độ văn hóa chung, nhất là trình
độ các môn khoa học nhân văn do hệ thống nhà trường Liên Xô đào tạo
không những đơn sơ cổ lỗ mà còn sai lầm có hại, vì đó không phải là kiến
thức văn hóa thực thụ, mà đã bị làm méo bởi các nguyên tắc tư tưởng của
đảng. Các môn học nhằm tạo ra cơ sở văn hóa tổng quát được dạy rất ít.
Các trường đại học khoa học tự nhiên không có môn này, còn trong các
trường khoa học xã hội nhân văn thì sinh viên lại được học một số kiến
thức giống như thần học.
Đặc trưng của trí thức Nga là tính chất quý phái, tức là sang trọng
vượt lên sự tầm thường, kết quả của sự tu dưỡng nhiều đời, có sự tham
gia của kiến thức sách vở.
Tất cả những người có học đều có phẩm chất quý tộc ấy. Có quý tộc một đời lại có quý tộc kế thế, nhiều đời – bộ phận nhiều đời này mới thật là tinh hoa ổn định.
Có chân trong giới thượng lưu, người ta dễ dàng giữ được sự độc lập
về tinh thần, dễ tự tin, tin vào giá trị thật của mình, và giữ được tính
độc lập trước mọi hệ thống quyền lực. Có điều lạ là cả một giáo sư đại
học lẫn ông giáo làng dạy tiểu học, họ đều chia sẻ cảm giác tự hào mà
trí thức vốn có. Khi người trí thức không có cảm giác về thân phận cao
quý của mình thì họ cho phép mình làm bậy.
Ở trên chúng ta đã xét tới việc học ngày nay. Học như thế thì làm
sao giới trí thức mới có được cảm giác quý phái mà trí thức cũ đã có.
Thời Xô Viết, người ta chỉ lo tri thức không quên nguồn gốc công
nông của mình. Bộ phận trí thức xuất thân lớp trên bị hạ nhục, bị làm
phiền: người ta chỉ muốn họ quên họ từ đâu tới.
Nguyên tắc giai cấp, chiếu cố giai cấp, ưu tiên giai cấp, cho phép
tình trạng phi chuẩn mực đối với những con người thuộc giai cấp công
nông bộc lộ khá lộ liễu và thô bạo.
Đầu cách mạng, số sinh viên xuất thân từ tầng lớp có học, tức là lớp thượng lưu cũ chiếm 2/3.
Tới 1923, số này chỉ còn lại 1/2
Tới đầu những nằm 30 thì còn lại 20 – 10%.
Kết quả là ¾ trí thức Xô Viết là hạng F1 mới từ công nông lên. Đó là
các trí thức một đời. Người trí thức khộng có khái niệm về sự cao quý
của mình, về lòng tự trọng.
Trí thức cấp thấp và quan chức cấp cao. Xu thế bành trướng
Trước 1917, người trí thức giữ chức vụ cao trong bộ máy nhà nước
không có bất động sản. Nhưng lương họ cao – cao gấp vài chục lần người
lao động chân tay.
Sau cách mạng, thu nhập trí thức chỉ nhỉnh hơn chút ít so với thu
nhập công nhân. Nếu thêm việc các quỹ gọi là “phúc lợi xã hội” cũng được
tái phân phối theo hướng có lợi cho công nhân thì cho đến năm 1980, mức
sống của tầng lớp trí thức chỉ bằng một nửa hoặc 40% mức sống của công
nhân.
Ví dụ giáo viên thì lớp giáo viên tiểu học còn đỡ; lớp dạy đại học
chỉ được nhận 20% mức lương trước cách mạng. Từ đó nảy sinh trong tầng
lớp trí thức xu thế quan liêu hóa vì chỉ trở thành quan chức trong giới
của mình thì mới có thể có mức thu nhập cao.
Sự xây dựng tri thức trong xã hội Xô Viết tiến hành theo nguyên tắc
phản chọn lọc. Nó tiêu diệt những người ưu tú, lại cất nhắc những kẻ tồi
tệ. Quá trình chọn lựa kéo dài hơn một nửa thế kỉ, những kẻ xấu xa nhất
được nâng đỡ, việc này đã dẫn đến kết quả là, không những nhóm lãnh đạo
chính trị chóp bu, mà cả những nấc thang thấp hơn của kim tự tháp quyền
lực, đều nhung nhúc những kẻ không ra gì.
Đấy là lý do vì sao chế độ Xô Viết về nguyên tắc là không thể thay đổi được, dù lãnh đạo cao nhất bị thay đổi.
Nếu tầng lớp tinh hoa trong lĩnh vực quản lí trước cách mạng bao gồm
những người được giáo dục và có học vấn tốt nhất trong thời đại của
mình, và tầng lớp tinh hoa chính trị trong các nước châu Âu ngày nay
cũng bao gồm chủ yếu là những người đã tốt nghiệp các trường đại học uy
tín nhất, thì ở Liên Xô, bức tranh hoàn toàn ngược lại.
Tầng lớp lãnh đạo chính trị cao nhất gần như là những người có trình
độ học vấn văn hóa kém nhất trong số những người lao động trí óc.
Mặc dù trong thời Xô Viết cũng có một số trường đại học có chất
lượng cao nhưng hiếm khi những người tốt nghiệp các trường đại học như
thế được gia nhập vào bộ phận tinh hoa trong lĩnh vực quản lí. Tầng lớp
quản lí thường chỉ bao gồm những người tốt nghiệp các trường đại học
tỉnh lẻ cộng với các trường Đảng cao cấp, nghĩa là những trường đại học
có trình độ văn hóa thấp nhất nếu không nói là giả đại học.
Trình độ học vấn kém cỏi của giới quan chức dẫn đến sự đối lập quan
chức – trí thức. Bộ máy quản lí thời Khruchev là một ví dụ tiêu biểu của
chất lượng giáo dục khi họ tham gia vào việc quản lí.
Đây là giai đoạn mà sự tầm thường hóa giáo dục đại học đạt đến đỉnh
điểm. Lạm phát trí thức bùng nổ với nghĩa hàng chục trường đại học không
đủ điều kiện đã được thành lập.
Đây cũng chính là giai đoạn hình thành cơ sở cho việc sản xuất thừa các chuyên gia.
Kết quả và quá trình bành trướng số người lao động trí óc đã dẫn đến
sự suy giảm nghiêm trọng uy tín của lao động trí óc. Tương lai của khoa
học cũng gánh chịu những hậu quả nặng nề. Biên chế của các viện nghiên
cứu khoa học tăng theo cấp số nhân.
Kể cả những kẻ tầm thường vốn không thể có hi vọng và bản thân không
hề nghĩ việc nghiên cứu khoa học, cũng trở thành các “nhà khoa học”.
Đến những năm 80 họ đã trở thành gánh nặng, khiến cho những dự định
cải cách chỉ trở thành ảo tưởng. Hơn thế nữa, lúc đó do quá trình thay
đổi thế hệ, lớp trẻ hãnh tiến này đã chiếm giữ hầu hết các vị trí lãnh
đạo trong khoa học và thực hiện chính sách trí thức dội từ trên xuống
theo đúng bản chất của mình.
Kết cục khó tránh
Chế độ Xô Viết, sau hàng chục năm phấn đấu đã gần đạt được thành
công trong việc loại bỏ tầng lớp trí thức như một hiện tượng xã hội đặc
thù, như một cơ cấu tương đối hoàn chỉnh; hoàn toàn loại bỏ được đặc
trưng mang tính thượng lưu của nó; và xóa bỏ được sự khác biệt về trình
độ học vấn và vốn văn hóa giữa nó với đám quần chúng được gọi là nhân
dân.
Có những khó khăn nhất định ngăn cản không cho tầng lớp có học hiện
nay nhận thức được sự bất toàn về mặt xã hội của mình. Cơ sở tư tưởng
của chế độ toàn trị cộng sản là sự sùng bái “con người bình thường”. Sau
hàng chục năm bị thôi miên rằng chân tay quan trọng hơn đầu óc và đầu
óc là để phục vụ cho chân tay, thì đầu óc – tức là lớp trí thức -- đã
quen dần với định đề phản tự nhiên đó. Họ dần đánh mất phần lớn khả năng
tư duy của mình và cho đến nay vẫn chưa có đủ dũng khí vươn lên để
khẳng định vai trò của mình trong xã hội.
Những thành quả sáng chói của nền khoa học và văn hóa Nga thế kỉ XIX
được tạo nên bởi những con người sinh ra trên những nguyên tắc có nguồn
gốc từ sự phát triển xã hội ba thế kỉ trước.
Còn việc cố tình hạ thấp vai trò của trí thức và tiêu diệt trên thực
tế tầng lớp này sau 1917 lại chỉ bắt nguồn từ sự trì trệ trong vận động
lịch sử của những thập kỉ gần đây.
Kết quả là chúng ta có một tầng lớp có học nhưng không có khả năng thực hiện các thiên chức của nó.
Cuối cùng trong xã hội Xô Viết, chỉ có một chút ngoại lệ là các nhà
trí thức hàn lâm và các nhà kĩ thuật quân sự, vốn được đào tạo như một
khu vực tách rời khỏi xã hội. Sau năm 1991, chính bộ phận này khi ra
nước ngoài đã hòa nhập được với giới khoa học của các nước phương Tây.
Muốn thay đổi được thực trạng nói trên thì chính nhà nước phải có
một quan niệm khác đi về giới tri thức. Phải công nhận rằng trong xã hội
Xô Viết đã hình thành một lớp kỹ giả ngu dốt – vô năng. Đoạn
tuyệt với họ rất khó. Người trí thức chân chính sau 1991 vẫn không thể
lọt vào cả giới chính trị lẫn giới kinh doanh – môi trường kinh doanh
vốn đầy tính chất mafia của Nga.
Tầng lớp tinh hoa trí thức như một giai tầng xã hội chỉ có thể được
hình thành nhờ những cố gắng mang tính chủ động của nhà nước. Phải bắt
đầu bằng sự phủ nhận rằng chúng ta đã làm sai, đào tạo sai thì sau đó
mới có thể bắt tay làm lại mọi việc. Không có sự cố gắng như thế, đất
nước -- trong trường hợp tốt nhất -- chỉ biến thành người cung cấp
chuyên gia cho các nước khác mà thôi.
Theo Dân Luận