Nhất thể hóa và qui luật đào thải tất yếu của các chế độ độc tài (Việt Hoàng)
Người dân Việt Nam và trí thức Việt Nam
đã đến lúc chủ động tìm hiểu về các "dự án chính trị" của các tổ chức
chính trị có tham vọng cầm quyền trong tương lai để đánh giá và kiểm
định chúng. Việc làm này là cần thiết và bắt buộc vì lịch sử sẽ sớm sang
trang khi tình hình thế giới biến động có lợi cho công cuộc dân chủ hóa
đất nước.(Việt Hoàng)
Đúng
như nhiều người dự đoán, ông Nguyễn Phú Trọng sẽ kiêm luôn chức "chủ
tịch nước" của ông Trần Đại Quang vừa mới mất. Hội nghị Trung ương 8
khai mạc hôm 2/10/2018 đã nhất trí 100% như vậy. Việc quốc hội bỏ phiếu
chỉ là chuyện hình thức.
"Nhất
thể hóa" vừa là sự cẩu thả về mặt ngôn ngữ vì nó không thuần tiếng Việt vừa
tùy tiện về luật pháp vì nó không hề có trong bất cứ một văn bản nào của
nhà nước, thậm chí là trong các văn kiện của đảng. Như vậy đây chỉ là
nhu cầu mới phát sinh. Trước đây hai năm chính ông Trọng cũng phản đối
chuyện gộp bí thư và chủ tịch làm một vì sợ quyền hành quá lớn không
kiểm soát được.
Nhất
thể hóa cũng không phải là bản sao hay sự rập khuôn của Trung Quốc mà
vì nhu cầu trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam. Sỡ dĩ giống Trung Quốc
là vì hoàn cảnh của Đảng cộng sản Việt Nam cũng bế tắc và bi đát như
Đảng cộng sản Trung Quốc.
Nhất
thể hóa có thể hiểu là sự thống nhất trong việc gộp chung cấp ủy với
nhà nước làm một ở cấp lãnh đạo. Tuy nhiên chỉ bản thân ông Trọng là đảm
nhiệm hai chức vụ còn "văn phòng trung ương đảng" với "văn phòng chủ
tịch nước" lại không thể gộp chung vì chức năng khác nhau, theo như
thông báo của ông Lê Quang Vĩnh, phó chánh văn phòng trung ương đảng.
Lý
do dẫn đến việc phân chia quyền lực trong đảng cộng sản thành "tứ trụ"
có nguồn gốc từ hồi Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Hai người này làm thành một
cặp đôi quyền lực tuyệt đối, quyết định và chi phối hoàn toàn nhân sự và
chính sách của đảng. Đây là hiện tượng "đảng trong đảng". Lê Duẩn dùng
"đảng con" của mình để khống chế đảng cộng sản và dùng đảng cộng sản
khống chế toàn bộ xã hội Việt Nam. Sau khi Lê Duẩn chết thì ban lãnh đạo
đảng quyết định chia quyền thành tứ trụ như bây giờ để không xuất hiện
người thứ hai như Lê Duẩn. Ông Nguyễn Tấn Dũng bị hạ bệ cũng vì lý do
tập trung quá nhiều quyền lực cho mình và phe nhóm.
Lý
do chính dẫn đến việc "nhất thể hóa" là vì Đảng cộng sản Việt Nam đã
mất đồng thuận trên những giá trị nền tảng mà một tổ chức chính trị cần
phải có. Chủ nghĩa cộng sản đã trở nên nhảm nhí và vớ vẩn mà chẳng mấy
đảng viên còn tin tưởng. Việc bộ máy tuyên truyền của đảng suốt ngày kêu
gọi "học tập tư tưởng Hồ Chí Minh", giữ vững niềm tin vào đảng, tu
dưỡng đạo đức cá nhân… chỉ nói lên sự bất lực trước hiện tượng suy thoái
trong đảng. Những đảng viên có chức quyền đều chuyển tiền và gửi con
cái ra nước ngoài để mong được "hạ cánh an toàn" trong tương lai.
Chuyện
nhất thể hóa không có gì là lạ, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã nhận định
rằng đây là quá trình chuyển hóa bắt buộc từ độc tài tập thể sang độc
tài cá nhân và đây cũng là quá trình sụp đổ tất yếu của các chế độ độc
tài.
"Đảng
cộng sản đã phân hóa. Nó không còn một lý tưởng chung để gắn kết các
đảng viên. Đã thế tham nhũng, bất tài và vô đạo đức còn gây sự ganh ghét
và khinh thường lẫn nhau trong toàn bộ đảng, kể cả ở cấp cao nhất. Bộ
chính trị không còn quyền lãnh đạo tối cao vì mâu thuẫn với ban chấp
hành trung ương, một định chế không thường trực nhưng lại có thẩm quyền
tối hậu trong việc chỉ định và kỷ luật các cấp lãnh đạo. Đảng cộng sản
chỉ còn là một hư cấu.
Chế
độ như một con tầu không còn đoàn thủy thủ và đang chuyển hóa từ độc
tài đảng trị sang độc tài cá nhân. Sự chuyển hóa này diễn ra trong những
điều kiện rất bất lợi : đảng phân hóa cùng cực, nhân dân thù ghét trong
khi không có một nhân vật nào có uy tín. Tình trạng chỉ có thể dẫn tới
sự sụp đổ.
Trong
lịch sử Châu Á thường có hai nguyên nhân chính đưa tới sự sụp đổ của
các chế độ. Một là, cho tới khi tiếp xúc với Phương Tây, vì lớp người
thống trị cướp bóc quá đáng, nhất là cướp đất của người dân; hai là, sau
khi tiếp xúc với Phương Tây, vì chế độ ngoan cố theo đuổi một hệ tư
tưởng đã quá lỗi thời. Chế độ cộng sản Việt Nam có cả hai yếu tố đó. Nó
không thể tồn tại".
Trước
đại hội đảng 12 nhiều người đoán là ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ thâu tóm
được quyền lực và trở thành "Đinh Bộ Lĩnh", nhưng ông ta không đủ bản
lĩnh và can đảm dù nắm thế thượng phong.
Người
thứ hai, từng được ca ngợi và hy vọng sẽ là "Đinh Bộ Lĩnh thứ hai của
Ninh Bình" là ông Trần Đại Quang cũng đã về nơi chín suối (1).
Người
thực sự trở thành "Đinh Bộ Lĩnh" với trọng trách chế ngự các "sứ quân"
hóa ra lại là ông Nguyễn Phú Trọng. Đúng là một trớ trêu vì ông vẫn được
dân gian gọi là "Lú" và tuổi của ông đã quá cao (74 tuổi).
Có hai lý do khiến ông Trọng trở thành "Đinh Bộ Lĩnh" :
1. Nội bộ Đảng cộng sản đã quá phân hóa
Trong
thực tế đảng cộng sản đã tạo ra hàng trăm, hàng ngàn "sứ quân". Các sứ
quân này có mặt khắp nơi, mỗi tỉnh là một sứ quân, mỗi bộ là một sứ
quân, mỗi doanh nghiệp nhà nước là một sứ quân. Các sứ quân này mạnh ai
nấy phá. Ví dụ Tập đoàn Than-Khoáng sản, chỉ mỗi việc đào bới tài nguyên
đất nước lên bán mà vẫn lỗ hơn 100.000 tỉ đồng (hơn 4 tỉ USD). Tình
trạng mạnh ai nấy phá đã vượt qua mọi tưởng tượng và giới hạn. Việc bắt
giam và kỷ luật Đinh La Thăng và 13 ông tướng quân đội lẫn công an thời
gian qua là giọt nước tràn ly. Nếu cứ để tiếp diễn như thế thì đảng cộng
sản sẽ sụp đổ vì không còn gì để phá, để bán nữa.
Trong
tình trạng loạn sứ quân đó Đảng cộng sản Việt Nam phải lấy một quyết
định bắt buộc là tập trung hết quyền hành cho một người, đó là tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng. Họ hy vọng là sứ quân mạnh nhất sẽ trấn áp được
các sứ quân khác. Trường hợp này cũng giống hệt bên Trung Quốc mà Tập
Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã trình bày và phân tích trong kỳ đại hội 19 Đảng
cộng sản Trung Quốc với việc đăng quang hoàng đế của ông Tập Cận Bình.
Ngày xưa chỉ có 12 sứ quân nên Đinh Bộ Lĩnh mới dẹp được chứ bây giờ với
hàng ngàn, hàng vạn sứ quân thì ông Trọng làm sao mà dẹp nổi ?
Tất
nhiên hy vọng này là hão huyền. Một tổ chức chính trị chỉ có thể tồn
tại nếu có một "dự án chính trị" hay nói một cách khác là phải có một
"tư tưởng chính trị" để kết nối các thành viên lại với nhau. Chủ nghĩa
cộng sản đã trở nên lố bịch và đảng cộng sản hiện nay đã "trần trụi"
hoàn toàn về tư tưởng, thậm chí ngay cả một ảo tưởng họ cũng không có
nốt. Ông Trọng từng nói là đến hết thế kỷ 21 không biết có chủ nghĩa
cộng sản ở Việt Nam hay không.
Khi
không còn lý tưởng mà quyền lực lại có trong tay thì chuyện đập phá và
cướp bóc là lẽ đương nhiên. Khi đó mọi giá trị và đạo đức đều qui đổi
thành tiền, kẻ nào mạnh thì phải có nhiều tiền. Chia bè, kéo phái, giành
giật và đấu đá lẫn nhau sẽ là môn thể thao yêu thích và bắt buộc của
các nhóm lợi ích.
Khi
không còn đồng thuận và không thể thảo luận với nhau được nữa thì chỉ
còn mỗi cách là ủy quyền hay đặt cược vào một người nào đó theo kiểu
"may nhờ rủi chịu" với hy vọng kéo dài thêm được thời gian tồn tại.
2. Khủng hoảng nhân sự trầm trọng trong đảng cộng sản
Đúng
ra thì các chính trị gia không cần giới hạn về tuổi tác. Nếu họ còn sức
khỏe, còn minh mẫn và còn được người dân hay tổ chức của họ tín nhiệm
thì họ vẫn tham gia vào chính trường đến lúc chết (như trường hợp thượng
nghị sĩ Mỹ John McCain).
Ông
Trọng không có thành tích gì ngoài việc tụng kinh chủ nghĩa Mác-Lênin
trong trường đảng Nguyễn Ái Quốc. Ông cũng không có gì nổi bật về trí
tuệ, các phát ngôn của ông thể hiện điều đó. Dân gian còn gọi ông là
"Lú". Ông Trọng có chăng hơn những người khác ở bản tính hiền lành, ít
tham vọng, trung thành với lý tưởng cộng sản... Tóm lại, ông Trọng cũng
như các lãnh đạo khác của đảng cộng sản, tất cả đều là những con người
mờ nhạt, thiếu bản lĩnh, thiếu tầm nhìn vì thế ông Trọng không thể trở
thành một nhà độc tài như nó cần có.
Việt Nam không
thiếu người tài, Đảng cộng sản cũng không thiếu nhân sự có khả năng và
trí tuệ, nhưng bộ máy sàng lọc của đảng với tiêu chí "hồng hơn chuyên"
đã loại bỏ hoàn toàn những người có năng lực trong đảng. Càng lên cao
càng mờ nhạt, chỉ cần có băng nhóm, phe cánh hậu thuẫn là được. Người tử
tế không có cửa. Cả bộ máy công chức trở nên vô cảm, không ai quan tâm
đến ai và không ai nghĩ đến dân, tất cả đều lo thân mình còn lại sống
chết mặc bay. Nhà nước, nhân dân, công việc, chức vụ... tất cả chỉ là
phương tiện để kiếm tiền và làm tiền. Đảng cộng sản Việt Nam không còn
những người có tâm và có lòng với đất nước.
Trước
đây khi chưa nhất thể hóa thì đảng thường trốn tránh trách nhiệm với lý
do đảng chỉ ra nghị quyết chứ không nhúng tay vào việc, đảng là vô
hình. Nay nhất thể hóa rồi thì trách nhiệm sẽ đổ hết lên đầu ông Trọng
đồng thời ông Trọng cũng sẽ trở thành mục tiêu để các sứ quân tấn công
và người dân Việt Nam qui trách nhiệm. Ngược lại, với quyền lực bao trùm
lên tất cả ông Trọng sẽ mạnh tay thanh trừng nội bộ nhằm xoa dịu sự
phẫn nộ của người dân. Con số tướng tá và quan chức cao cấp bị tống vào
"lò" sẽ tăng mạnh chứ không dừng lại ở con số 13. Báo chí thông tin về
Hội nghị 8 đã dọn đường cho các hành động trấn áp mạnh tay của ông Trọng
rằng ngay cả các ủy viên bộ chính trị cũng phải "chủ động từ chức khi
không đủ uy tín" (2), có nghĩa là ngay cả đến ủy viên bộ chính trị cũng
không còn "bất khả xâm phạm".
Tuy
nhiên, cho dù cố gắng đến đâu thì Đảng cộng sản cũng không còn khả năng
để sửa chữa một hệ thống đã quá lỗi thời. Đảng cộng sản Việt Nam không
hề có một dự án nào cho đất nước, mục tiêu của họ là giành chính quyền
bằng bạo lực rồi nhắm mắt xây dựng đất nước theo mô hình chủ nghĩa cộng
sản. Mô hình đó đã sụp đổ hoàn toàn trên thế giới. Chủ nghĩa cộng sản là
một tôn giáo khép kín chứ không phải một đảng chính trị, nó đặt niềm
tin trên sự xác quyết hồ đồ mà đảng viên không được phép hoài nghi hay
xét lại.
Nhiều
người Việt Nam vẫn chưa nhận ra một điều cực kỳ quan trọng trong cuộc
sống cá nhân cũng như trong chính trị đó là trước khi bắt tay vào làm
một việc gì thì cũng phải có sự chuẩn bị. Muốn đập bỏ và xây dựng lại
một ngôi nhà mới thì việc đầu tiên là phải có một dự án, một bản thiết
kế cho ngôi nhà tương lai đó.
Trí
thức và người dân Việt Nam phải tìm hiểu, đánh giá và kiểm định về các
dự án chính trị của các tổ chức chính trị trước khi ủng hộ cho nó. Năm
1945 dự án chính trị "chủ nghĩa xã hội" của Đảng cộng sản Việt Nam đã
không được người dân chú ý và kiểm định nên ngôi nhà chung này, thay vì
là nơi sinh sống êm đềm và hạnh phúc cho người Việt Nam thì nó trở thành
một địa ngục, lúc nào cũng chực đổ ụp xuống đầu người dân. Đã hơn 70
năm rồi, Đảng cộng sản càng sửa, càng vá víu thì nó càng hỏng nặng hơn.
Sớm
muộn thì người Việt Nam cũng không thể sống trong ngôi nhà rách nát mà
Đảng cộng sản đã dựng lên. Chế độ này rồi sẽ qua đi. Đó là qui luật tất
yếu của lịch sử.
"Cho
đến nay một đặc tính chung của các chế độ độc tài bạo ngược là chúng
thường tỏ ra rất vững chắc cho đến khi đột ngột sụp đổ. Lý do là vì sự
ngoan cố và hung bạo của chúng đòi hỏi một điểm đoạn tuyệt ở đó những
thay đổi về lượng đã tích lũy đủ để tạo ra một thay đổi về chất. Điểm
đoạn tuyệt đó đang đạt tới, nhờ làn sóng dân chủ mới, nhờ sự xuất hiện
ngày càng đông đảo của thành phần trí thức chính trị mới và nhờ ý thức
ngày càng rõ rệt, đặc biệt ngay trong thành phần công an và quân đội,
rằng chế độ không thể kéo dài lâu nữa và mọi người nên đóng góp thay vì
tiếp tay cản trở tiến trình dân chủ, để làm tác nhân thay vì nạn nhân
của một chuyển hóa cần có, bắt buộc phải có và sắp đến. Hạn kỳ dân chủ
có thể rất gần. Nhất là nếu những người dân chủ biết tranh thủ lòng tin
và sự hưởng ứng của nhân dân bằng một tình cảm trong sáng và quảng đại,
bằng những phương thức đấu tranh hợp tình hợp lý và bằng một dự án đúng
đắn để làm lại và thăng tiến đất nước".
Người dân Việt Nam và trí thức Việt Nam
đã đến lúc chủ động tìm hiểu về các "dự án chính trị" của các tổ chức
chính trị có tham vọng cầm quyền trong tương lai để đánh giá và kiểm
định chúng. Việc làm này là cần thiết và bắt buộc vì lịch sử sẽ sớm sang
trang khi tình hình thế giới biến động có lợi cho công cuộc dân chủ hóa
đất nước.
Phải tìm hiểu về các giải pháp thay thế cho giải pháp cộng sản để lịch sử đau thương không lặp lại một lần nữa.
Việt Hoàng
(07/10/2018)