Trung Quốc đã muốn thì phải chiều (Trân Văn)
3 năm trước vẫn còn xoay sở được nên ĐCSVN mới dám từ chối đề nghị sử dụng đồng nhân dân tệ. Bây giờ thì khác rồi, con nợ VN không còn biết vay ở đâu trong khi tiền để trả lương cho bộ máy công chức khổng lồ thì không thể thiếu...Có gì mà con nợ đang khát tiền không dám làm? Vấn đề đáng nói nhất là trí thức VN vẫn không chịu tìm hiểu và ủng hộ cho một giải pháp mới của một tổ chức chính trị mới, để thay thế cho giải pháp cộng sản. Còn cộng sản thì sẽ đến lúc không được nói cả tiếng Việt.
Để cảm nhận một cách rõ ràng “Trung Quốc đã muốn thì phải chiều” xin
cùng xem lại sự kiện, ý kiến về việc có nên cho phép sử dụng Yuan tại
Việt Nam cách nay ba năm rưỡi…
***
Tháng 1 năm 2015, ngay sau khi Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại
Việt Nam và Ngân hàng Công Thương của Trung Quốc (ICBC) đề nghị Việt Nam
cho phép sử dụng Yuan (Nhân dân tệ của Trung Quốc) trong các giao dịch
tại Việt Nam, thông qua báo giới, mạng xã hội, doanh giới, các chuyên
gia kinh tế trong và ngoài Việt Nam đã đồng loạt phân tích - cảnh báo
hàng loạt hậu quả theo sau việc chấp nhận đề nghị này.
Lúc ấy, một trong những người khuyến cáo chính phủ Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam không nên gật đầu với đề nghị cho phép sử dụng Yuan
tại Việt Nam là ông Cao Sỹ Kiêm – cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông Kiêm nhấn mạnh: Cho dù mối quan hệ
giao lưu hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc rất rộng nhưng vì sức cạnh
tranh và khả năng quản lý thị trường của Việt Nam còn kém, việc từ chối
hay cho phép sử dụng Yuan ở Việt Nam sẽ dẫn tới hệ quả là kinh tế Việt
Nam lệ thuộc vào Trung Quốc ít hay nhiều.
Khi được đề nghị bình luận về nhận định của ông Lê Đăng Doanh (một
chuyên gia kinh tế - người cho rằng đề nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp
Trung Quốc tại Việt Nam và ICBC, vi phạm chủ quyền của Việt Nam), ông
Kiêm cho rằng, chủ quyền của Việt Nam có bị xâm hại hay không là do Việt
Nam. Nếu sức cạnh tranh đã đủ lớn, hợp thức hóa việc sử dụng Yuan bằng
các quy định mà có thể kiểm soát chặt chẽ thì sẽ bảo vệ được chủ quyền.
Ngược lại, không giữ được độc lập về kinh tế, độc lập trong việc quản lý
chính sách thì chủ quyền sẽ bị xâm hại (1).
Không chỉ có ông Doanh, ông Kiêm, ông Nguyễn Minh Phong – một chuyên
gia kinh tế làm việc tại Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Hà
Nội, cũng tin rằng, chấp nhận sử dụng Yuan để thanh toán các giao dịch
thương mại tại Việt Nam sẽ đẩy kinh tế Việt Nam đến chỗ đối mặt với hai
nguy cơ: Gia tăng rủi ro đối với doanh nghiệp Việt Nam vì Yuan chưa phải
là ngoại tệ được tự do chuyển đổi trên thị trường quốc tế. Mặt khác,
nhập siêu từ Trung Quốc rất lớn, ở vị thế yếu hơn về thương mại, doanh
giới Việt Nam sẽ phải vay Yuan từ Trung Quốc, Việt Nam sẽ không chỉ lệ
thuộc Trung Quốc về hàng hóa mà còn lệ thuộc cả về tài chính.
Ông Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Kinh
tế (VEPR), khẳng định nguyên tắc, thanh toán cho các giao dịch trên lãnh
thổ của quốc gia nào phải sử dụng tiền tệ của quốc gia đó. Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam từng làm đủ cách để loại bỏ tình trạng vàng hóa, đô la
hóa, tại sao lại có thể chấp nhận cho sử dụng Yuan trên lãnh thổ Việt
Nam (?) (2). Tương tự, bà Phạm Chi Lan – một chuyên gia kinh tế khác –
ví von, nội tệ cũng như quốc kỳ, cho phép sử dụng Yuan tại Việt Nam cũng
như cho phép treo cờ Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam (3).
Bên ngoài Việt Nam, sau khi phân tích lợi – hại nếu chấp nhận đề nghị
cho phép dùng Yuan thanh toán trực tiếp trên lãnh thổ Việt Nam mà phần
bất lợi Việt Nam gánh hết, ông Vũ Quang Việt – một chuyên gia kinh tế
từng là Vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia thuộc Cục Thống kê của Liên Hiệp
Quốc – nhận định, không quốc gia nào muốn có nền kinh tế độc lập, lại
xóa bỏ khả năng điều hành chính sách tiền tệ của mình bằng cách cho phép
sử dụng rộng rãi vàng hay ngoại tệ trong thanh toán nội địa, dù nó là
đồng Yuan hay Mỹ kim. Sử dụng ngoại tệ một cách rộng rãi chứng tỏ rằng
người dân không còn tin nội tệ và muốn giữ nó, đưa đến việc nội tệ mất
giá.
Ông Việt đưa ra hàng loạt dẫn chứng từ thực tế (chẳng hạn cho phép
mỗi người dân ở biên giới, mỗi ngày được mang lượng hàng hóa Trung Quốc
trị giá hai triệu đồng vào Việt Nam), cáo buộc chính quyền Việt Nam đang
tự cho phép mình mất chủ quyền về tiền tệ ở vùng biên giới, biến các
tỉnh này thành vùng đầu tầu giúp Trung Quốc tấn công, xâm nhập vào thị
trường Việt Nam. Ông Việt nêu thắc mắc, phải chăng những chính sách kiểu
đó là lý do khiến Việt Nam không kiểm soát được hoạt động nhập cảng từ
Trung Quốc cũng như chất lượng hàng nhập cảng từ Trung Quốc? Tiếp tục mở
rộng theo đề nghị của phía Trung Quốc là mở rộng khả năng Yuan đuổi
đồng nội tệ ra khỏi thị trường Việt Nam và sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến
việc điều hành nền kinh tế Việt Nam và chính trị ở Việt Nam. Ông Việt
khuyên chính quyền Việt Nam nên xem lại chính sách tiền tệ và thương mại
với Trung Quốc ở khu vực biên giới, thực hiện mậu dịch qua ngân hàng
bằng đồng tiền chuyển đổi được trên thị trường thế giới, còn nếu không
thì dựa trên việc thành lập qua ngân hàng một quĩ chuyển đổi giữa đồng
Việt Nam và Yuan, bên Việt Nam có thể mua hàng bằng đồng Việt và bên
Trung Quốc có thể mua hàng bằng Yuan, phần còn lại được giải quyết bằng
đồng chuyển đổi, đó mới là hợp tác nhằm có biện pháp phù hợp cân bằng
thương mại giữa hai quốc gia (4).
Ngoài chuyện giới thiệu ý kiến của các chuyên gia kinh tế, hồi tháng 1
năm 2015, báo giới Việt Nam còn dẫn ý kiến của các doanh nghiệp Việt
Nam đang có quan hệ thương mại với doanh nghiệp Trung Quốc để chứng
minh, chính họ cũng không mặn mà với đề nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp
Trung Quốc tại Việt Nam và ICBC. Ông Nguyễn Lâm Viên, Tổng Giám đốc
VINAMIT – một doanh nghiệp có nhiều đối tác thương mại ở Trung Quốc, cho
biết, hầu hết hợp đồng giữa hai bên đều chọn ngoại tệ thứ ba là Mỹ kim
làm phương tiện thanh toán. Nếu chuyển sang thanh toán bằng Yuan thì
thiệt thòi của doanh nghiệp Việt Nam sẽ rất lớn vì phải trả thêm 0,5%
phí chuyển đổi từ Mỹ kim sang Yuan. Ông Viên lưu ý, năm 2014, nhập siêu
từ Trung Quốc khoảng 29 tỉ Mỹ kim, cứ tính 0.5% khoản này sẽ thấy. Đó
cũng là điều mà Giám đốc một ngân hàng thương mại chuyên mở L/C cho các
doanh nghiệp Việt Nam có giao thương với Trung Quốc bảo với tờ Thanh
Niên rằng, bởi các giao dịch với Trung Quốc thường quy đổi thành Mỹ kim,
giao dịch bằng Yuan chiếm tỉ lệ rất nhỏ so với các đồng tiền khác nên
chắc chắn không doanh nghiệp Việt Nam nào mặn mà với ý tưởng dùng Yuan
thanh toán thương mại…
Tháng 1 năm 2015, ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu
xây dựng Việt Nam, gọi đề nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại
Việt Nam và Ngân hàng Công Thương của Trung Quốc (ICBC) là một đề nghị
kỳ quặc, phi lý, thiếu khả thi vì Yuan là loại tiền tệ mà Trung Quốc tìm
mọi cách vẫn chưa thể quốc tế hóa và tất nhiên không thể chấp nhận vì
gật đầu là chấp nhận bị khống chế, lệ thuộc (6)…
***
Tháng 1 năm 2015, ông Phạm Sỹ Thành - Giám đốc Chương trình Nghiên
cứu Kinh tế Trung Quốc (VCES) thuộc VEPR từng tỏ ra rất lạc quan trước
đề nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và ICBC bởi đó
chỉ là một đề nghị và đâu phải đề nghị nào cũng “hợp lý”, “có hiểu
biết”. Chưa kể về mặt kỹ thuật, Việt Nam và Trung Quốc chưa có Hiệp định
Hoán đổi tiền tệ (Swap Agreement), giao dịch trực tiếp của tư nhân
trong thương mại tại biên giới là phạm pháp, chắc chắn Bộ Công Thương sẽ
lắc đầu, Ngân hàng Nhà nước không thể đồng ý. Cứ theo nhận định của ông
Thành thì đề nghị đó không thể chấp nhận vì gật đầu sẽ giúp “hệ thống
ngân hàng Trung Quốc bùng nổ tại Việt Nam”. Nếu tỷ trọng vốn của Trung
Quốc trong nền kinh tế Việt Nam lớn hơn sẽ “tác động tiêu cực đến an
ninh tài chính, an ninh tiền tệ của Việt Nam”. Chưa kể với tỷ trọng
thương mại chiếm 10% xuất khẩu và 25% nhập khẩu, rổ dự trữ thanh toán sẽ
phải giảm tỷ trọng Mỹ kim và thêm vào đó tỷ trọng Yuan – làm phức tạp
hơn cho quản lý trong bối cảnh trình độ quản lý tiền tệ của Việt Nam vẫn
còn chưa có nhiều kinh nghiệm. Ngoài ra sẽ không bao giờ dẹp được giao
dịch trực tiếp qua biên mậu, và theo đó, những vấn đề như nhập siêu,
quản lý chất lượng hàng hóa sẽ không thể cải thiện được…
Ông Thành quả là chủ quan, mà chẳng phải chỉ có ông Thành… Ba năm đủ
để phân tích, khuyến cáo, cảnh báo của các chuyên gia kinh tế trong và
ngoài Việt Nam, góp ý của doanh giới hóa… bùn. Tháng 1 năm nay, chính
phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị định 14/2018/NĐ-CP
“Quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới”. Đúng tám tháng
sau, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 19/2018/TT-NHNN “Hướng dẫn về
Quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam -
Trung Quốc”, theo đó, sử dụng Yuan để thanh toán trực tiếp cho các giao
dịch thương mại trên lãnh thổ Việt Nam và ủy thác thanh toán qua hệ
thống ngân hàng sẽ có hiệu lực vào tháng tới.
Hai tuần trước Quốc khánh lần thứ 73 của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam công khai báo
động về khả năng biểu tình vào dịp 2 tháng 9. Song song với khuyến cáo
được phát cho từng gia đình, lực lượng vũ trang rùng rùng chuyển động –
nhanh chóng bày ra quyết tâm đè bẹp, trừng trị thẳng tay tất cả các hành
động phản kháng ôn hòa. Đây có lẽ là lần đầu tiên kể từ khi quốc gia
thống nhất, Quốc khánh của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trôi qua
trong tình trạng các lực lượng vũ trang” được đặt vào tình huống “sẵn
sàng chiến đấu” trên toàn lãnh thổ.
Có một điểm mà tới giờ này, những người quan sát các diễn biến thời
sự tại Việt Nam vẫn chưa tìm được câu trả lời cho thắc mắc: Hệ thống
công quyền Việt Nam dựa vào đâu để dự đoán sẽ có biểu tình trên diện
rộng vào dịp Quốc khánh? Nếu xem mạng xã hội là một thứ phong vũ biểu và
so diễn biến trên mạng xã hội trong nửa đầu tháng 6 năm nay (thời điểm
hệ thống chính trị Việt Nam thúc ép Quốc hội Việt Nam thông qua luật đặc
khu) với nửa cuối tháng 8 vừa qua thì rõ ràng những dấu hiệu cho thấy
khả năng bùng phát biểu tình, bạo động trên diện rộng vào dịp Quốc khánh
rất mờ nhạt. Liệu chuỗi hành động báo động – quảng bá quyết tâm – biểu
diễn năng lực trấn áp của hệ thống công quyền Việt Nam có liên quan đến
Thông tư 19/2018/TT-NHNN không, khi “răn đe” vẫn được xem như một giải
pháp hữu hiệu để duy trì quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng
CSVN?
Cách nay ba năm rưỡi, đề nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc
tại Việt Nam và ICBC – cho phép sử dụng Yuan trong các giao dịch thương
mại trên lãnh thổ Việt Nam - từng làm dư luận Việt Nam dậy sóng. Giờ,
khi đề nghị đó trở thành hiện thực, tại sao phản ứng của báo giới, của
các chuyên gia kinh tế, doanh nhân, doanh giới Việt Nam lại khẽ khàng,
nhẹ nhàng như đó là chuyện tất nhiên của thực trạng Trung Quốc đã muốn
thì Việt Nam phải chiều?
VOA
Chú thích