Ông Nguyễn Đình Cung: “Chất lượng thể chế mới là động lực cho tăng trưởng” (VNN)
Ba cuộc cách mạng trước chúng ta
đã bỏ lỡ, lần này chúng ta hiểu biết mà còn làm như thế chắc chắn bị bỏ
lỡ. Vì thế, chất lượng của thể chế quyết định tái cơ cấu có thành công
hay không và quyết định sự phát triển tương lai của đất nước. Đây rõ
ràng là vai trò của cơ quan lập pháp.
Gần
đây, đại biểu Quốc hội đánh giá mô hình tăng trưởng vẫn dựa vào khai
thác dầu thô và than. Là thư ký cho Ban tái cơ cấu kinh tế của Chính
phủ, ông nhìn nhận đánh giá này thế nào?
Trước hết, nói
tăng trưởng dựa vào than, dầu thì nên hiểu thế nào? Trước đây, khi tăng
trưởng có nguy cơ không đạt mục tiêu của Quốc hội, thì Chính phủ khai
thác thêm vài triệu tấn dầu thô, than để đạt mục tiêu đó và có vài năm
chuyện này rất rõ nét. Tuy nhiên, ngành khai khoáng chỉ đóng góp 0,26
điểm phần trăm cho tăng trưởng gần 6% trong suốt giai đoạn 2011-2015.
Số
liệu thống kê 2 năm gần đây cho thấy, tăng trưởng không còn dựa vào
khai thác than và dầu thô nữa. Thậm chí, khu vực khai khoáng còn tăng
trưởng âm, tức bào mòn thành thích tăng trưởng. Nếu khai khoáng đóng góp
như giai đoạn trước, thì tăng trưởng của hai năm qua sẽ còn cao hơn.
Vậy tăng trưởng dựa vào những yếu tố chủ yếu nào, theo ông?
Có
vài yếu tố. Chẳng hạn tăng trưởng của ngành chế biến, chế tạo tăng lên
mà chủ yếu do khu vực đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, năng suất lao động
đã tăng lên gần 6 điểm phần trăm, cao hơn mức 3,8 điểm phần trăm giai
đoạn 2011-2015. Chỉ số TFP đóng góp vào tăng trưởng cũng cải thiện, đóng
góp tới 46% vào tăng trưởng.
Tôi muốn nhấn mạnh, tăng trưởng
không còn phụ thuộc vào khai khoáng như trước, chất lượng và năng suất
có cải thiện. Tăng trưởng phần lớn nằm ở năng suất lao động, TFP do cải
thiện chất lượng thể chế trong khuôn khổ hiện hành.
Một yếu tố nữa
là áp lực của cá nhân Thủ tướng lên tăng trưởng là mạnh, dù rất nhiều
người lo ngại. Phó thủ tướng Vương Đình Huệ là người đặc biệt hiểu được
cái giá của ổn định kinh tế vĩ mô. Trong điều hành ông Huệ luôn luôn
nhấn mạnh phải ổn định kinh tế vĩ mô và về ngắn hạn cung tiền phải kìm
chứ không thể thả bung ra như giai đoạn 2007-2012.
Có
nhiều chuyên gia khuyến nghị, Chính phủ chỉ cần lo ổn định kinh tế vĩ
mô chứ đừng lo tăng trưởng, đó là công việc của thị trường và doanh
nghiệp. Ông nhìn nhận ra sao?
Về nguyên tắc thì đúng như
tế. Có bốn chỉ số vĩ mô quan trọng, gắn bó chặt chẽ với nhau là tăng
trưởng, lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán. Trong nền kinh tế
thị trường hoàn hảo thì Chính phủ chỉ giữ ổn định những chỉ số này để
doanh nghiệp yên tâm sản đầu tư, sản xuất.
Vấn đề là ở chỗ, nếu Việt nam cố gắng duy trì các chỉ số đó mà không có tăng trưởng, thì có giữ được ổn định vĩ mô không?
Các
thị trường của Việt Nam méo mó, tín hiệu lệch lạc, không ai đọc được
thì Chính phủ vẫn đóng vai trò cần thiết trong khai thác dự địa của nền
kinh tế để tăng trưởng. Chính phủ không thể thụ động chỉ ổn định kinh tế
vĩ mô vì nếu chỉ tập trung nỗ lực vào đó mà không thúc đẩy tăng trưởng
thì chuyện tín dụng, ngân sách sẽ bùng lên ngay. Trong bối cảnh hiện nay
thì Chính phủ điều hành phải rất linh hoạt, rất nhạy bén.
Theo
ông, Chính phủ có thể làm gì khác hơn không để thúc đẩy chất lượng tăng
trưởng mà nhiều chuyên gia đã cảnh báo là đang còn thấp?
Nhiều
đại biểu Quốc hội nhận xét, chất lượng tăng trưởng chưa được cải thiện
bao nhiêu và đáng lo về dài hạn, tôi cho là đúng. Dù tăng trưởng không
còn phụ thuộc dầu, than như trước nhưng cơ chế phân bố nguồn lực vẫn cơ
bản là xin cho, ban phát; tăng trưởng vẫn phải dựa nhiều vào khai thác
các yếu tố đầu vào chứ không phải vào nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
lực.
Theo tôi, phải thay đổi cách thức huy động, phân bố và sử
dụng nguồn lực. Phân bổ nguồn lực hiện nay là xin cho, chia chác. Nó là
hệ quả của hệ thống luật, hệ thống thể chế mà trong đó Chính phủ chỉ có
thể khai thác ở khía cạnh quản trị hay kỹ thuật với các nguồn lực chứ
Chính phủ không thể khai thác được hiệu quả phân bố để nền kinh tế vận
hành năng động hơn, tạo ra sản phẩm mới, công việc mới, dẫn dắt tăng
trưởng có chất lượng về dài hạn.
Nguồn lực được phân bố theo kiểu
xin cho, ban phát thì doanh nghiệp chỉ đi tìm kiếm chênh lệch địa tô chứ
không phải tạo ra giá trị gia tăng. Toàn bộ năm thị trường các nhân tố
sản xuất của ta không có, hoặc kém phát triển. Ví dụ, thị trường đất đai
hầu như không có. Đất đai là nguồn lực quan trọng nhất mà lại không
được thị trường hóa nên người ta trục lợi, xâu xé, trở nên giàu có, tham
nhũng do chênh lệch địa tô.
Ví dụ, thị trường đất đai không có
thì doanh nghiệp không dám đầu tư vào nông nghiệp, ngành nông nghiệp
không thể phát triển được. Dù Nhà nước có đi giải phóng mặt bằng thì
doanh nghiệp vẫn phải bỏ tiền ra đền bù, rồi thuê lại của Nhà nước và
rồi mảnh đất đó vẫn không phải là tài sản của mình. Vậy doanh nghiệp nào
đầu tư?
Luật Đất đai thiết kế theo cách, chỉ người nông dân địa
phương mới có quyền sở hữu/chuyển nhượng đất nông nghiệp. Vậy là dù để
đất hoang hóa hay đã thoát ly, người ta không rút khỏi tư cách nông dân
vì rút là mất đất. Chính quyền thu ngay quyền sử dụng đất vì đất đai bị
coi là công cụ sản xuất chứ không phải tải sản. Ông không còn là nông
dân thì ông không được dùng công cụ đó nữa.
Luật được thiết kế
theo cách hoàn toàn phi trị trường như thế thì không thể đưa nông dân ra
khỏi nông nghiệp và không khuyến khích doanh nghiệp đầu tư sản xuất.
Đất đai là nguồn lực cực kỳ lớn cho tăng trưởng, phát triển mà bị phân
bổ méo mó như vậy thì làm sao mà tái cơ cấu được? Mà đó mới chỉ là một
thị trường.
Những điểm nghẽn mà ông đang đề
cập liên quan trực tiếp và chặt chẽ đến thể chế, luật pháp và đâu dễ gì
giải quyết được từ phía Chính phủ?
Nghị
quyết của Đảng từ lâu đã nói, phải xây dựng thị trường các nhân tố sản
xuất, đặc biệt là thị trường đất đai, trong đó nhấn mạnh quyền sử dụng
đất nông nghiệp để các thị trường này đóng vai trò quan trọng trong phân
bố nguồn lực. Vậy mà bao nhiêu năm nay bên lập pháp chưa để ý làm. Nếu
Quốc hội không xây dựng các luật liên quan, Chính phủ không còn dư địa
gì để tái cơ cấu. Chính phủ chỉ loay hoay bỏ mấy điều kiện kinh doanh,
cải cách hành chính chứ không thể mở rộng được quy mô thị trường, không
thay đổi cơ chế phân bổ nguồn lực để tạo ra động lực tăng trưởng.
Thực tế là có nhiều đại biểu nắm giữ các chức vụ bên hành pháp và họ
chịu nhiều sức ép của vị trí họ nắm giữ bên hành pháp. Kết quả là các
bản quyết toán ngân sách với bội chi vượt dự toán luôn được thông qua.
Thêm vào đó là tình trạng nhiều luật vừa thông qua đã phải sửa…
Đúng
là có tình trạng chất lượng luật chưa được quan tâm đúng mức, có không
ít luật được trình ra để sửa vài điều, vài chữ. Nhiều đại biểu lại là
quan chức hành pháp địa phương nên phải bảo vệ lợi ích địa phương như
xin con đường này, bệnh viện kia.
Chẳng hạn, vừa rồi có đại biểu
nói đến dự án đội vốn ở Ninh Bình thì có ngay đại biểu Ninh Bình đứng
lên phản biện, chúng tôi làm tốt lắm. Tôi cứ có cảm giác, họ đại diện
cho doanh nghiệp nào gắn với dự án đó. Hơn nữa, theo cơ cấu rất nhiều
đại biểu là của bên hành pháp từ trung ương tới địa phương nên thiếu
thời gian suy nghĩ để làm luật.
Tôi cũng nhận thấy tình trạng
thiếu vắng các chuyên gia giỏi trong các đại biểu chuyên trách, trong
các ủy ban. Quốc hội nắm quyền quyết định trong xây dựng pháp luật, cải
cách thể chế mà nếu chất lượng của thể chế, luật pháp chưa tốt, chưa đáp
ứng nhu cầu phát triển thì Chính phủ cũng khó có thể làm gì khác hơn.
Cách
làm luật vẫn phân tán, chia cắt theo các bộ, ngành. Trong một số trường
hợp, lẽ ra Chính phủ nên thống nhất và khi thấy chất lượng chưa tốt thì
chưa trình. Tuy nhiên, Quốc hội mà không thực sự chủ động trong xây
dựng luật thì chất lượng luật có thể chưa tốt, chưa nói đến tình trạng
thiếu các luật để thúc đẩy, khơi thông thị trường như tôi vừa nói.
Nếu
xây dựng luật pháp theo kiểu chỉ cho người dân làm những gì mà Nhà nước
biết thì vừa không tạo được không gian cho người dân và doanh nghiệp
phát triển, vừa không tạo ra áp lực cho cơ quan nhà nước, cho công chức
nhà nước để nâng cao năng lực, ứng phó với các vấn đề phát sinh. Kết quả
là mình luôn thụ động và co lại. Thể chế không khuyến khích cách làm
mới thì sẽ đẩy người tài đi, vuột mất cơ hội và chúng ta còn tụt hậu dài
vì thế giới đang thay đổi rất nhanh.
Ông có thể ví dụ?
Có
những dự thảo luật gần đây mà nếu được ban hành chỉ có lợi cho cơ quan
quản lý thôi. Có dự thảo mà được thông qua thì GDP giảm 1,7 điểm phần
trăm, theo nhiều tổ chức tính toán.
Theo tôi, đó mới chỉ là tính
toán mức giảm, chứ chưa đo lường được những thiệt hại cho tương lai phát
triển. Nó triệt tiêu những đổi mới, sáng tạo trong nước, đồng thời ngăn
cản du nhập những tiến bộ của thế giới. Người Việt Nam trong lĩnh vực
đó không làm được ở đây, muốn làm phải đi ra nước ngoài. Ta không tạo
được thể chế để tận dụng cơ hội của cách mạng 4.0. Chúng ta tham gia nó
ngay bây giờ hay không bao giờ?
Ba cuộc cách mạng trước chúng ta
đã bỏ lỡ, lần này chúng ta hiểu biết mà còn làm như thế chắc chắn bị bỏ
lỡ. Vì thế, chất lượng của thể chế quyết định tái cơ cấu có thành công
hay không và quyết định sự phát triển tương lai của đất nước. Đây rõ
ràng là vai trò của cơ quan lập pháp.
Tư Giang