Hàng triệu tỷ đồng trong ‘hộp đen’: Bao giờ dân được biết? (VNN)
Trong
nhiều trường hợp tương tự như vậy, vốn, tài sản nhà nước (thực ra là
tài sản quốc gia) đã bị thất thoát, chảy vào túi của một nhóm người, mà
không phải vào ngân khố quốc gia. Không chỉ là tiền, đó còn là giá trị
từ đất đai ngày càng khan hiếm; giá trị thương hiệu; sở hữu trí tuệ;
tiềm năng phát triển, và những yếu tố vô hình khác.
Một khối tài sản hàng triệu tỷ đồng đang nằm
trong những “hộp đen” cần phải được công khai, minh bạch, chịu sự soi
rọi của xã hội, sự giám sát của thị trường, công chúng, báo chí.
LTS: Theo
chương trình, thứ 2 ngày 28/5, Quốc hội thảo luận báo cáo giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà
nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa DNNN giai đoạn 2011-2016. Xung quanh vấn đề này, Tuần Việt Nam giới thiệu bài viết dưới đây của tác giả Nguyễn Đức Lam.
Một
doanh nghiệp tư nhân mua DNNN nằm trên mảnh đất vàng, có giá trị vô
hình, với giá bị "dìm" xuống ở mức rẻ mạt. Đây chỉ là một trường hợp
điển hình cho những lùm xùm, bất cập trong việc quản lý, sử dụng vốn,
tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, cho thấy những vấn đề mấu chốt của
lĩnh vực này, từ những chuyện kỹ thuật như định giá doanh nghiệp, giá
trị thương hiệu, giá trị vô hình, chọn nhà đầu tư chiến lược; chuyện
công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, cho đến những vấn đề về
quan niệm, tư duy…
Những cái mất đi
Quá
trình cổ phần hóa Hãng phim truyện Việt Nam đã trở nên “nổi tiếng” với
nhiều vấn đề ở tất cả các khâu: Mục đích của cổ phần hóa dường như chỉ
bán cổ phần thu tiền; chọn một đối tượng chiến lược không phù hợp; định
giá doanh nghiệp quá thấp, trong đó có vấn đề về giá trị quyền sử dụng
đất; giá trị thương hiệu bằng 0 chỉ vì nhiều năm trước đó không chi cho
quảng bá hình ảnh; lợi ích của người lao động, các nghệ sỹ không được
quan tâm, không được hỏi ý kiến; tiến trình CPH không minh bạch, không
đúng quy định v.v… Nhưng tại sao người ta vẫn làm được, điều gì đã bị bỏ
qua, và tại sao hiện giờ lại khó xử lý?
Trong
nhiều trường hợp tương tự như vậy, vốn, tài sản nhà nước (thực ra là
tài sản quốc gia) đã bị thất thoát, chảy vào túi của một nhóm người, mà
không phải vào ngân khố quốc gia. Không chỉ là tiền, đó còn là giá trị
từ đất đai ngày càng khan hiếm; giá trị thương hiệu; sở hữu trí tuệ;
tiềm năng phát triển, và những yếu tố vô hình khác. Không những thế, đó
còn là chi phí cơ hội - phí tổn mất đi do không làm được thứ tốt nhất;
đối chiếu, so sánh với những thứ tốt nhất có thể mang lại.
Chẳng
hạn như Công ty lọc hóa dầu Bình Sơn trong đợt IPO đầu năm 2018 đã bán
được số lượng cổ phần lớn, với giá gấp rưỡi giá khởi điểm, được nhiều
người cho là thành công. Tuy nhiên, cũng có những chuyên gia đặt câu
hỏi, liệu có thể thành công hơn không, khi tính cả giá trị do hàng km bờ
biển nằm dọc theo chiều dài của công ty; tính cả giá trị thực tế và
tiềm năng nhờ vị thế độc tôn cả đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp trên
thị trường.
Đó là nhìn vào từng DNNN, còn nếu nhìn tổng thể một
cách sâu hơn, có thể có những phát hiện thú vị đằng sau các con số. Ví
dụ, theo thống kê chính thức, đến năm 2017, đã cổ phần hóa được 96,5% số
DNNN, thế nhưng tổng số vốn CPH chỉ được 8%. Còn lại, 7 tập đoàn kinh
tế chiếm 63% số vốn, 76 tổng công ty nhà nước chiếm 28%.
Có nghĩa
CPH thời gian qua mới chỉ về hình thức, còn thực chất vẫn chưa thu hút
được nhiều vốn, nhân lực, công nghệ mới. Để không bỏ sót tài sản quốc
gia, cần lưu ý soi xét, giám sát việc sử dụng vốn và tài sản nhà nước
tại những doanh nghiệp không nằm trong diện định nghĩa chính thức là
“doanh nghiệp nhà nước”, các doanh nghiệp sau khi CPH không còn là DNNN
nhưng vốn và tài sản nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Hai hiện tượng “ba trong một” và những “hộp đen”
Trong
vận hành DNNN ở Việt Nam hiện nay đang có hai hiện tượng “ba trong
một”: cơ quan nhà nước vừa quản lý Nhà nước, vừa đại diện chủ sở hữu,
đồng thời quản lý kinh doanh; có chức năng vừa hoạch định chính sách,
vừa điều tiết, vừa chủ quản.
Bên cạnh đó, trong việc quản lý, sử
dụng vốn Nhà nước tại DNNN, đang tồn tại một chuỗi ủy quyền dài dằng
dặc: người dân > cơ quan dân cử > cơ quan hành pháp, hành chính
> HĐQT của DNNN > giám đốc DNNN. Trong chuỗi ủy quyền này, toàn
dân Việt Nam – chủ sở hữu đích thực lại là người ít có thông tin nhất,
cách xa “diệu vợi” với khối tài sản khổng lồ nằm trong DNNN.
Trong
khi đó, những nhân vật quyền lực như giám đốc DNNN nắm nhiều quyền,
nhiều thông tin như hồ sơ CPH, định giá DNNN, lựa chọn nhà đầu tư “cánh
hẩu”, thao túng giá để sau đó nếu không bán được hết thì tự mình mua
lại.
Những điều trên đây tạo ra hiện tượng “hộp đen” trong quản
lý, sử dụng khối tài sản quốc gia nằm trong DNNN, khi mà người chủ sở
hữu hầu như không biết được tài sản, tiền đi đâu, về đâu. Nó cũng làm
suy giảm động lực của DNNN phục vụ lợi ích tốt nhất của doanh nghiệp và
người dân, thay vào đó là trục lợi cá nhân. Lãnh đạo DNNN không phải là
chủ sở hữu thực sự, không sợ bị trừng phạt bởi khả năng bị thâu tóm hay
phá sản – tức là không phải chịu kỷ luật của thị trường. Việc ra quyết
định dựa trên các tiêu chí không phải là lợi ích tốt nhất của doanh
nghiệp và người dân – người sở hữu tối thượng của doanh nghiệp.
Để
giảm thiểu rủi ro thất thoát vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp,
sự công khai, minh bạch có vai trò mấu chốt. Công khai, minh bạch phải
chi tiết, ví dụ như phải công bố phụ lục danh mục các khoản chi tiêu kèm
theo; thời hạn cụ thể. DNNN phải công bố thông tin cần thiết (báo cáo
tài chính có kiểm toán, báo cáo hợp nhất, báo cáo riêng lẻ, báo cáo quản
trị….) để thị trường và toàn xã hội giám sát thường xuyên.
Khi
đó, các nhà đầu tư tiềm năng sẽ có thông tin đầy đủ, cập nhật để định
giá DNNN một cách chính xác, hiệu quả nhất với chi phí tốt nhất, thay vì
tình trạng thiếu minh bạch tạo kẽ hở cho việc bán doanh nghiệp dưới giá
trị thật hoặc không cổ phần hóa thành công vì không thu hút được nhà
đầu tư tiềm năng; giảm thiểu tình trạng dàn xếp chỉ định thầu tư vấn,
tình trạng đấu giá dàn xếp thiếu cạnh tranh.
Việc xây dựng một cơ
quan quản lý vốn và tài sản nhà nước tập trung có vị thế độc lập, có
năng lực kỹ trị, chuyên môn sâu, tách bạch chức năng quản lý điều tiết
hành chính và chức năng quản trị doanh nghiệp, quản lý kinh doanh sẽ
giúp cho việc giám sát, quản lý việc sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại
doanh nghiệp hiệu quả hơn, trách nhiệm giải trình tốt hơn. Tuy nhiên,
hiện nay quan điểm, ý kiến về Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp đang rất khác nhau. Cơ quan này cần theo mô hình nào: Công ty
quản lý vốn, hay cơ quan quản lý hành chính?
Nếu
theo mô hình cơ quan quản lý hành chính sẽ thêm một tầng nấc quản lý,
chồng chéo với các cơ quan hiện nay gồm có các bộ, UBND các tỉnh, không
rõ phân định trách nhiệm, quyền hạn như thế nào. Đồng thời, quyền lực
của Ủy ban rất lớn, nắm giữ khối tài sản khổng lồ 5 triệu tỷ VND, khoảng
230 tỷ USD, tức là bằng GDP hàng năm của Việt Nam. Trong khi đó, năng
lực nhân sự, chuẩn mực quản trị hiện nay không đáp ứng yêu cầu, và đặc
biệt không rõ cơ chế kiểm soát, giám sát cơ quan này như thế nào. Tất cả
những điều này gây ra sự lo ngại về khả năng vận hành hiệu quả của Ủy
ban trong thời gian tới.
Nhà nước nên bỏ vốn vào đâu?
Nhìn
vào khối DNNN, nhiều người không khỏi đặt câu hỏi: Nhà nước có cần đầu
tư vào những lĩnh vực như bia rượu, thuốc lá, thủy sản, hay dành đất cho
tư nhân? Trả lời câu hỏi này, có một nguyên lý kinh tế căn bản mà ngay
cả nhiều người ngoại đạo đều biết. Đó là: Nhà nước chỉ nên can thiệp để
sửa chữa thất bại thị trường nhằm tăng cường hiệu quả hay phân phối lại
để đảm bảo công bằng.
Thất bại thị trường xảy ra khi có độc quyền
tự nhiên; ảnh hưởng ngoại lai; khi phải cung cấp dịch vụ và hàng hóa
công cộng như an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường; khi có rào cản
thông tin, không có đủ thông tin cho các bên; khi có bất ổn định như suy
thoái; khi cần lấp khoảng cách giàu nghèo. Điều đó có nghĩa là nếu
không chỉ ra được bằng chứng là thị trường thất bại trong một lĩnh vực
thì tốt nhất không nên để Nhà nước can thiệp vào lĩnh vực đó.
Khi
đã thông về tư duy, đối chiếu với nguyên lý này, có thể loại ra nhiều
lĩnh vực Nhà nước không nhất thiết phải bỏ vốn, tài sản đầu tư kinh
doanh, cũng có nghĩa giảm gánh nặng chi phí, quản lý, giảm rủi ro thất
thoát, tham nhũng, lạm dụng quyền lực. Những DNNN không cần nhà nước
tiếp tục nắm giữ 100% vốn phải được cổ phần hóa và chuyển sở hữu cho khu
vực tư nhân, các nhà đầu tư chiến lược, nhà đầu tư nước ngoài có năng
lực quản trị điều hành tốt hơn.
Mặt khác, nhiều chuyên gia, nhà
đầu tư thắc mắc, CPH khác gì tư nhân hóa? Đằng sau từ ngữ này, ẩn giấu
một rào cản về tư duy: có sự e ngại rằng, nếu dùng tư nhân hóa thì không
thể hiện được vai trò nòng cốt của DNNN và chủ đạo của KTNN. Thế nhưng,
vì chỉ nghĩ đến từ cổ phần hóa, cho nên dường như người ta chỉ lo làm
sao bán được cổ phần, thu tiền về.
Trong khi đó, như đã nói, đây
là quá trình chuyển giao hình thức sở hữu để đạt nhiều mục tiêu: vừa
giảm gánh nặng của Nhà nước ở những nơi không cần can thiệp, đồng thời
thu hút vốn, nhân lực, mô hình quản trị mới, công nghệ mới. Không những
thế, nhiều DNNN bên cạnh việc kinh doanh còn phải gánh vai trò công cụ
ổn định kinh tế vĩ mô. Đây là một vướng mắc khác về mặt tư duy trong ứng
xử với DNNN, khiến cho bản thân DNNN lúng túng trong hoạt động, cái cớ
để trốn tránh trách nhiệm, gây khó khăn trong việc giám sát từ bên
ngoài.
Một khối tài sản hàng triệu tỷ đồng đang nằm trong những
“hộp đen” cần phải được công khai, minh bạch, chịu sự soi rọi của xã
hội, sự giám sát của thị trường, công chúng, báo chí.
Đặc biệt,
tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ xem xét, thảo luận báo cáo giám sát chuyên
đề về quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần
hóa DNNN. Quốc hội, HĐND với vai trò giám sát, lập pháp có thể làm được
nhiều việc để làm sao tài sản khổng lồ của quốc gia được dùng vào đúng
việc, đúng cách. Trong đó, bên cạnh những giải pháp mang tính kỹ thuật,
chuyên môn, trước hết cần thông suốt về tư duy, quan niệm.
Nguyễn Đức Lam