Dân chủ? Nếu biết mơ! (Phạm Phú Khải)
Tóm lại ông Kiểng, ông Hoàng hay Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nói chung 
quan niệm rằng không có nền tảng tư tưởng/triết lý lớn để vạch ra nguyên
 một lộ trình xây dựng dân chủ thành một dự án chính trị, không kết hợp 
được những người yêu chuộng dân chủ trong và ngoài Việt Nam thành một 
mối có tổ chức hẳn hoi, và không có lãnh đạo, thì mọi cuộc xuống đường 
rầm rộ bao nhiêu đi nữa, và các thách thức lẻ tẻ đối với chế độ hiện 
nay, sẽ không đi đến đâu cả.
Vào dịp 30 tháng Tư, tôi muốn hỏi tại sao Việt Nam vẫn chưa có dân 
chủ? Tại sao tiến trình dân chủ hóa vẫn dậm chân tại chỗ, nếu không phải
 thụt lùi, trong những năm vừa qua?
Tiến trình dân chủ hóa của bất cứ một quốc gia nào, kể cả Việt Nam, 
nhất là trong thời đại toàn cầu hiện nay, đều chịu ảnh hưởng chung của 
nền chính trị quốc tế, quốc nội và các phong trào vận động dân chủ trong
 và ngoài quốc gia đó.
Trên bình diện quốc tế, trào lưu dân chủ khắp nơi đều gặp khó khăn, 
và suy thoái. Tạp chí Foreign Affairs số mới nhất tháng Năm/Sáu “Dân chủ
 đang dẫy chết? - Bản tổng kết toàn cầu”, có những nhận định sâu sắc về 
chủ đề này [1]. Tập trung quyền lực vào chính quyền (ngành hành pháp), 
chính trị hóa ngành tư pháp hay các định chế vốn hoạt động độc lập, tấn 
công vào sự độc lập của truyền thông, lợi dụng công quyền để gia tăng tư
 quyền/lợi v.v… là những dấu hiệu thoái trào của dân chủ. 
Từ Hungary, Ba Lan thuộc Đông Âu cho đến Ý, Anh thuộc Tây Âu, và cả 
Hoa Kỳ, chủ nghĩa dân tuý và các xu hướng chuyên quyền đang vươn mình 
trổi dậy giành ảnh hưởng khắp nơi. Ngay cả Đan Mạch, Hòa Lan và Thuỵ Sĩ…
 cũng không nằm ngoài ảnh hưởng chung trên. Trong khi đó, các chế độ 
chuyên quyền như Nga, Trung Quốc không những ngày càng hung bạo đối với 
người dân của mình mà còn trở nên hung hãn, gây hấn qua sự can thiệp vào
 nội tình chính trị của Hoa Kỳ hay các quốc gia khác, hoặc qua các biện 
pháp có vẻ như mềm mỏng hơn, như văn hóa, chẳng hạn, điển hình là Viện 
Khổng Tử của Trung Quốc.
Học giả Ronald Inglehart, trong bài “Thời đại bất an” (The Age of 
Insecurity) trong tạp chí trên, có đưa ra một nhận định đáng suy ngẫm. 
Inglehart cho rằng những người nghiên cứu dân chủ thường bất đồng nhau, 
nhưng điều họ gần như hoàn toàn đồng ý với nhau, là rằng “sự bất bình 
đẳng cực độ không thích ứng với dân chủ” (extreme inequality is 
incompatible with democracy). Chẳng hạn, tại Hoa Kỳ hiện nay, thiểu số 
mười phần trăm dân số lại có thu nhập gần nửa tổng thu nhập của toàn 
quốc gia. Còn đối với tất cả ngoại trừ một nước thuộc Tổ Chức Hợp Tác và
 Phát Triển Kinh Tế (OECD), sự bất bình đẳng về thu nhập đã gia tăng từ 
năm 1980 đến năm 2009. Do đó mà xu hướng chuyên quyền đã tranh giành 
được nhiều ảnh hưởng tại các quốc gia này trong thời gian qua.
Ngoài ra, suy thoái dân chủ cũng do một số nguyên nhân khác. Một, suy
 thoái kinh tế hay tăng trưởng chậm chạp trong các nền dân chủ dễ làm 
cho người ta cảm tưởng và kết luận rằng dân chủ chưa chắc đã là giải đáp
 tốt hơn độc tài. Hai, khoa học kỹ thuật tiên tiến như tự động và trí 
tuệ nhân tạo dẫn đến mất việc làm của công nhân, cái mà một thời cuộc 
cách mạng kỹ nghệ đã mang lại, và tiến trình này ngày càng gia tăng chứ 
không gia giảm. Ba, mạng truyền thông xã hội, như facebook, chẳng hạn, 
bị các thế lực chuyên quyền và các công ty vì quyền lợi đã khai thác để 
tuyên tuyền và thổi phồng các tin giả/nhảm (fake news), gia tăng sự tràn
 lan thông tin nhiễu. Bốn, những người sống và hít thở dân chủ từ lúc 
lọt lòng chưa chắc đã hiểu được cái giá phải trả để có được dân chủ nếu 
không chịu tìm hiểu tiến trình lịch sử của nó, mà chỉ coi như được cấp 
sẵn (take it for granted); trong khi những người chưa hề sống trong dân 
chủ sẽ không nhận ra được các giá trị đích thực nó mang lại; cho nên dân
 chủ chưa chắc đã là giá trị hàng đầu để người ta bảo toàn hay đấu tranh
 để có.
Trên hết, theo tôi, là vì tính cả tin của con người nói chung. Vì dễ 
tin quá vào một cái gì đó, có thể do văn hóa, tôn giáo, gia đình hay ảnh
 hưởng của môi trường chung quanh, lại không có thói quen kiểm chứng, 
không có thời gian hay kiến thức để đối chiếu, không sở hữu suy nghĩ phê
 phán để truy tìm căn cốt của vấn đề, nên không quen tự suy nghĩ cho 
mình và không phân biệt được hư thực ra sao. Đây là điểm chung của đa số
 người dân thuộc mọi quốc gia. Họ đều có điểm yếu, đều dễ bị tổn thương,
 và các chế độ chuyên quyền đều biết khai thác điểm yếu này cho mục tiêu
 chính trị của họ. Tất nhiên tỷ lệ của mỗi quốc gia mỗi khác. Ở các nước
 có nền dân chủ lâu đời, có truyền thông độc lập và đa dạng, có nền tư 
pháp hoàn toàn độc lập và chuyên nghiệp, thì chất lượng của nền dân chủ 
cao vì người dân nói chung có sự hiểu biết và suy nghĩ thấu đáo. Tính 
cách suy nghĩ phê phán/triệt để (critical thinking) chính là nền tảng 
của các xã hội văn minh.
Tóm lại, yếu tố khác biệt lớn nhất giữa một thể chế dân chủ và độc 
tài ngày nay không còn là kinh tế/phát triển như suy nghĩ trước đây mà 
có lẽ nằm ngay ở chất lượng suy nghĩ phê phán của tỷ lệ công dân trong 
xã hội đó. Trong khi suy nghĩ phê phán được phát huy tối đa, bằng các 
phương thức chính thức của chính quyền/nhà nước qua giáo dục, chẳng hạn,
 hay qua không gian của thương mại và của xã hội dân sự trong thể chế 
dân chủ, thì ngược lại, trong chế độ độc tài, suy nghĩ phê phán bị hạn 
chế tối đa hoặc không hề hiện hữu trong diễn ngôn/truyền thông chính 
mạch của xã hội, nhất là chính trị.
Ngoài các yếu tố nói trên, dân chủ bị suy thoái khắp nơi vì nó có lắm
 kẻ thù, ở trong và ngoài quốc gia đó. Kẻ thù hàng đầu của dân chủ là tư
 duy chuyên quyền, độc đoán (lại có đủ khả năng, phương tiện và lý do để
 tấn công, gây hấn cho nền dân chủ); là văn hóa chính trị chuyên sử dụng
 bạo lực như là cứu cánh; là làm luật và dùng luật để kìm hãm và chế tài
 phía đối lập và người dân chứ không phải để pháp trị; là sự bất tài và 
bất lực để kinh tế và chính trị suy thoái làm mất niềm tin của dân 
chúng, vân vân…
Trên đây là một số yếu tố quốc tế ảnh hưởng đến trào lưu dân chủ toàn
 cầu hiện nay, kể cả các nền dân chủ lâu đời và ổn vững như Hoa Kỳ, Anh,
 Pháp và nhiều quốc gia Tây Âu và Đông Âu. Xu hướng dân chủ tại Việt 
Nam, do đó, cũng chịu ảnh hưởng nặng nề và tiêu cực của tốc độ và mức độ
 suy thoái này.
Tuy nhiên ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất đối với xu hướng dân 
chủ tại Việt Nam vẫn do nền chính trị quốc nội. Nhà nước độc Đảng, Đảng 
Cộng Sản Việt Nam, vẫn chủ trương cai trị một cách toàn diện và tuyệt 
đối, và không hề có ý định chia sẻ quyền lực với bất cứ xu hướng chính 
trị nào khác.
Từ khi Nguyễn Phú Trọng lên nắm vai trò Tổng Bí Thư, các biện pháp 
thẳng tay đàn áp các nhà dân chủ hay thanh trừng các xu hướng khác biệt 
trong Đảng đã gia tăng đáng kể. Sử dụng chiêu bài Điều 79 hay 88 của Bộ 
Luật Hình Sự, hay luật về an ninh quốc gia như âm mưu lật đổ chế độ, vân
 vân…, để bỏ tù 21 người trong năm 2017, theo tổ chức Human Rights Watch
 [2]. Theo tổ chức Amnesty International thì Việt Nam hiện có khoảng 97 
tù nhân lương tâm (được định nghĩa như là những người không sử dụng hay 
cổ võ bạo động nhưng bị tù đầy vì họ là ai và họ tin tưởng gì, chẳng hạn
 như tôn giáo, chính trị hay các vấn đề lương tri khác). Nguyễn Phú 
Trọng cũng sử dụng chiêu bài chống tham nhũng để loại trừ các phe cánh 
khác, răn đe các mầm móng chống đối khác trong Đảng. Những chiêu bài của
 Đảng Cộng Sản Việt Nam gần như lập khuôn chiêu bài của Tập Cận Bình của
 Trung Quốc từ năm 2012 đến nay. Thật ra nếu quan sát kỹ thì chúng ta có
 thể thấy rằng từ thời Mao Trạch Đông đến nay, các chính sách lớn, có 
sức tàn phá khủng khiếp (như Cải Cách Ruộng Đất, Bước Đại Nhảy Vọt, Cách
 Mạng Văn Hóa), cho đến chính sách sửa chữa như Kinh Tế Thị Thường (theo
 định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa với Đặc Tính Trung Hoa) của Đặng Tiểu Bình 
và các chính sách kinh tế, chính trị và văn hóa về sau, ĐCSVN nghiên cứu
 học hỏi và áp dụng một cách tận tình nhưng thận trọng cho Việt Nam. Cho
 nên tìm hiểu kỹ lưỡng các chính sách của Trung Quốc hiện nay cũng là 
cách nghiên cứu các nước cờ và bước đi có thể có của ĐCSVN vậy.
Còn các phong trào vận động dân chủ trong và ngoài Việt Nam thì sao?
Ba năm về trước, trong bài “Dân chủ? Vẫn là mơ thôi” [3], giáo
 sư Cao Huy Thuần đã công nhận rằng xu hướng dân chủ trên toàn 
cầu đã trì trệ, khủng hoảng, và ông không khỏi bi quan cho 
triển vọng dân chủ trong tương lai. Bàn về Việt Nam, ông nhận 
định 40 năm rồi mà vẫn chưa đi được bước nào trên con đường dân 
chủ. Suy nghĩ về một giải pháp cho Việt Nam, ông đắc ý với 
quan niệm “bình thường” và “đồng thuận” của một trí thức uy 
tín của Singapore, ông Kishore Mahbubani, mà ông cho rằng có khả 
năng khai sáng con đường dân chủ hóa Việt Nam. Ông biện luận 
rằng xây dựng một văn hóa chính trị mới, lấy dung hòa làm căn 
bản thay cho mệnh lệnh, trong đó phát huy quyền tự do ngôn luận,
 là bước đầu tiên để làm nền tảng.
Ba năm sau bài viết của giáo sư Cao Huy Thuần, tưởng phong 
trào dân chủ Việt Nam tiến một chút, dù chưa là một bước, về 
phía trước, thế nhưng tình trạng không mấy sáng sủa chút nào 
qua bao cuộc bắt bớ tù đầy trong hai năm qua, mà đã nói trên. Trong
 bài “Cứu nguy phong trào dân chủ Việt Nam” vào tháng hai năm 
nay, ông Nguyễn Gia Kiểng cho rằng ông và các bạn trong và ngoài
 nước nhận định phong trào dân chủ “đang ở trong tình trạng rất
 bi đát và cần được cứu nguy” vì một phần bị đàn áp một 
cách hung bạo, một phần vì “chia rẽ nội bộ ngay cả khi chưa bị
 đe dọa” [4]. Ông Kiểng 
trình bày một số trường hợp tiêu biểu qua đó cho thấy suy nghĩ
 chung của một số người, cho dù đầy thiện chí và lý tưởng cho
 mục tiêu chung, nhưng dễ dàng trở thành hằn học với người bất
 đồng quan điểm với mình; hoặc có những nhận định ngây thơ, 
thiếu hiểu biết căn bản về chính trị. Ông biện luận những thí
 dụ trên góp phần giải thích vì sao phong trào dân chủ bế tắc 
ngay cả nếu không bị đàn áp. Ba tuần sau đó, ông Việt Hoàng, 
qua bài “Tập Hợp đang làm gì và ở đâu trong phong trào dân chủ 
Việt Nam”, đã chia sẻ những khó khăn chung trong bước đường đấu 
tranh trong thời gian qua, và những nguyên do chưa xây dựng được 
một chính đảng dân chủ có tầm vóc [5].
Tóm lại ông Kiểng, ông Hoàng hay Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nói chung 
quan niệm rằng không có nền tảng tư tưởng/triết lý lớn để vạch ra nguyên
 một lộ trình xây dựng dân chủ thành một dự án chính trị, không kết hợp 
được những người yêu chuộng dân chủ trong và ngoài Việt Nam thành một 
mối có tổ chức hẳn hoi, và không có lãnh đạo, thì mọi cuộc xuống đường 
rầm rộ bao nhiêu đi nữa, và các thách thức lẻ tẻ đối với chế độ hiện 
nay, sẽ không đi đến đâu cả.
Ngay cả khi chế độ độc tài, vì lý do nào đó mà sụp đổ, thì nếu không 
có sự chuẩn bị kỹ càng thì tất nhiên sẽ không có gì bảo đảm là dân chủ 
sẽ đến.
Nhưng vấn đề chính hiện nay, theo tôi, là sự nhập nhằng hay, nói đúng
 hơn, là không ý thức phân biệt rõ ràng giữa mục tiêu chống cộng và mục 
tiêu xây dựng/vận động dân chủ.
Thoạt nhìn tưởng hai là một, nhưng không phải, nên mới có vấn đề lớn.
Rõ ràng chống cộng và vận động dân chủ đều có mục tiêu giống nhau: 
chống độc đoán chuyên quyền cộng sản. Nhưng có lắm điều khác nhau.
Phe chống cộng chống mọi thứ thuộc về chế độ hiện nay, từ lá cờ, chủ 
nghĩa, cho đến tất cả những gì trực tiếp thuộc về nó. Như các nhân vật 
lãnh đạo của ĐCSVN, hay các ban, ngành, cơ quan chính phủ, nhà nước v.v…
 ĐCSVN, như đã nói trên, lãnh đạo trực tiếp và toàn diện, cho nên hầu 
như không có cái gì mà không thuộc về nó trong xã hội Việt Nam, kể cả 
các tổ chức xã hội, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Không những thế, một 
cách rất thâm độc, ĐCSVN ban hành nghị quyết 36, và sử dụng dư luận viên
 phản công lại những ảnh hưởng có thể có của Internet và truyền thông xã
 hội. Xu hướng chống cộng, vì thế, nhìn đâu cũng thấy bóng dáng cộng 
sản, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, thấy nghị quyết 36 đàng sau, kể cả sinh 
viên du học tự túc qua đây. Xu hướng chống cộng cũng chống nhau tơi tả, 
và chống luôn cả xu hướng dân chủ. Tóm lại, cái gì cũng chống, nhưng 
không có đủ lực. Và chống, theo các hình thức trước đây, chỉ có thể xảy 
ra ở hải ngoại, chứ không thể trong nước được. Cách chống như thế trong 
mấy chục năm qua ngày càng thưa thớt và mất hiệu quả.
Phe vận động dân chủ thì cũng tứ bề thọ địch. Lực của họ quá mỏng và 
họ quá cô đơn. Chung quanh họ là tư duy và cung cách hành xử, nếu không 
là kẻ thù, thì cũng là sự cản trở lớn cho tiến trình dân chủ: lười biếng
 và vô kỹ luật. Đấu tranh vô tổ chức và chỉ muốn thấy kết quả liền là 
các thái độ này.
Lười biếng suy nghĩ, nên không chịu tìm hiểu vấn đề rốt ráo, cộng với
 bao nhiêu thành kiến hay định kiến sẵn có, lại thiếu tinh thần bao dung
 khách quan và khoa học, trong khi đó không chịu mở lòng lắng nghe quan 
điểm khác biệt để tìm hiểu xem người khác nói có gì đúng và đáng để học 
hỏi không, cho nên lắm khi đi cãi nhau những chuyện nhỏ nhặt, lặt vặt 
chứ không hề biết văn hóa tranh luận là gì, do đó gây thù oán vì những 
lý do con kiến biến thành con voi. Nói chung, có tư duy “làm lớn 
chuyện”, không phải “làm chuyện lớn”.
Nên nhớ, dân chủ phải đi đôi với pháp trị. Không có nền dân chủ đích 
thực nào mà không phải là pháp trị cả, để kiểm soát và cân bằng quyền 
lực. Các chế độ độc tài cũng có hiến pháp và pháp luật, nhưng họ ngồi 
chễm chệ trên nó, coi nó thêm một phương tiện để áp chế. Trong nền dân 
chủ, ngay cả tổng thống hay thủ tướng nếu có vi phạm luật thì cũng bị 
phạt như thường, và không ai đứng trên hay ngoài pháp luật. Trong nền 
pháp trị, những người làm trong chính quyền phải đầu tiên và trên hết 
phải thể hiện sự hiểu biết, sự tôn trọng và sự làm gương cho các công 
dân khác. Luật pháp tự bản chất rất phức tạp do đó đòi hỏi tính chuyên 
môn rất cao. Một xã hội có nền văn hóa dân chủ cao, nền kinh tế tri thức
 tiên tiến, thì càng đòi hỏi tính chuyên môn trong mọi địa hạt. Hiến 
pháp và pháp luật chi phối mọi hoạt động của xã hội đó, nên nó phải cập 
nhật thường xuyên để đáp ứng nhu cầu của xã hội tiên tiến đó. Cho nên 
không chịu tìm hiểu căn nguyên vấn đề vốn vô cùng phức tạp và đa chiều, 
không chịu động não suy nghĩ, mà lại suy nghĩ hời hợt hay cực đoan, thì 
sẽ không giúp ích gì cho sự phát huy của văn hóa dân chủ.
Người yêu chuộng dân chủ là người có khả năng thể hiện tinh thần kỹ 
luật cao. Họ biết nguyên tắc hành xử dân chủ và áp dụng nghiêm khắc với 
chính mình. Họ tôn trọng tối đa giá trị tự do, bình đẳng và công lý. 
Thay vì loại trừ, họ tìm cách dung hợp. Thay vì chụp mũ, vu khống, mạ 
lỵ, họ dùng lý luận và tinh thần khách quan khoa học để thuyết phục. 
Thay vì phản ứng, một cách thiếu tự tin, khi gặp phải chỉ trích hay phê 
bình, họ ôn tồn lý giải để trình bày quan điểm của mình, dùng nó như cơ 
hội để “cưỡi sóng”, để thuyết phục đối thủ và những người chung quanh. 
Tóm lại, dân chủ là đa nguyên, lắm khi trái chiều, cho nên người có tinh
 thần dân chủ thật sự là người phải biết sử dụng trí tuệ và lý luận để 
thuyết phục người khác quan điểm, chứ không phải đổ thừa hay gán nhãn 
hiệu cho nó là tin tặc, là phản động, hay tội đồ dân tộc v.v…
Dân chủ, vì thế, nên xây khó mà phá dễ. Một nền dân chủ vững ổn như 
Hoa Kỳ thì khó thể nào phá đổ bằng một, hay nhiều, cá nhân đặc biệt như 
Donald Trump, chẳng hạn. Nhưng một nền dân chủ non nớt, nền móng chưa 
vững, thì rất dễ đổ vỡ. Dân chủ không hoàn hảo, nên nó cần luôn được cải
 thiện. Thể hiện tính dân chủ không hề dễ, hay tự nhiên, mà là một ý 
thức tự giác cao độ. Ai cũng muốn quyết định nhanh chóng, hiệu quả để 
công việc được chạy cho tốt, trong khi đó dân chủ có nghĩa là tham khảo ý
 kiến, thảo luận rốt ráo và tôn trọng khác biệt và các quyết định chung.
 Tuy chậm nhưng chắc. Trong chính trị, mọi chính sách hay quyết định lớn
 đòi hỏi sự suy nghĩ và kế hoạch rốt ráo, sự thách thức thường xuyên 
giữa những người cùng chung trách nhiệm, giữa các đảng phái, công chúng 
và truyền thông và, quan trọng không kém, là sự phê bình hay chỉ trích 
nặng nề của công chúng, truyền thông hay đối lập. Không có một chính 
sách hay một kế sách nào hoàn hảo cả, dù được thiết kế bởi những đầu óc 
ưu tú nhất. Không có chính sách nào thoả mãn mọi ước vọng hay nhu cầu 
của xã hội đa nguyên cả. Nó chỉ mang tính tương đối và lắm khi đầy rủi 
ro. Phê bình là sự bình thường của xã hội, và chính là sức mạnh của xã 
hội đó.
Xu hướng vận động dân chủ của Việt Nam, vì các lý do trình bày trên, 
cũng chỉ là thiểu số so với xu hướng chống cộng trong và ngoài nước. 
Đồng minh của họ thì ngày càng ít và yếu trong khi đối thủ của họ ngày 
càng nhiều và mạnh. Nhưng không có gì là bất khả cả. Một khi đã nghĩ bất
 khả thì chỉ có thất bại, chưa đánh mà đã thất bại, nói chi đến thành 
công!
Tại sao phải là dân chủ? Bởi vì thể thế chính trị dân chủ 
tuy bất toàn nhưng nó đỡ tệ hại nhất trong tất cả các thể 
chế chính trị đã được thử nghiệm. Trong nền dân chủ, mạng 
sống con người được coi trọng tối đa, nhân phẩm được tôn trọng 
tối đa, và mọi người trong xã hội được tự do để phát triển 
tối đa tiềm năng của mình.
Hơn tám mươi triệu người Việt trong nước nghĩ gì, muốn gì, có ai biết
 không? Sức dân là sức nước mà. Họ đưa thuyền và cũng lật thuyền.
Chỉ lo người dân Việt Nam không chịu mơ những giấc mơ lớn thôi. Nếu 
biết mơ, nếu có niềm tin, thì sẽ có hy vọng. Bởi không có thành công 
(lớn) nào mà không khởi đầu bằng giấc mơ (lớn).
Phạm Phú Khải
Úc Châu, 30/04/2018
VOA 
Tài liệu tham khảo:
1. Foreign Affairs, “Is democracy dying”, a global report, May/June 2018, Volumn 97, Number 3.
2. Hunter Marston, “Vietnam’s crackdown on dissent could undermine its stability and growth”, Lowy Institute, 12/04/2018.
3. Cao Huy Thuần, “Dân chủ? Vẫn là mơ thôi?”, Thời Đại Mới, số 33, tháng 7 năm 2015.
4. Nguyễn Gia Kiểng, “Cứu nguy phong trào dân chủ?”, đăng trên trang mạng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, 04/02/2018.
5. Việt Hoàng, “Tập Hợp đang làm gì và ở đâu trong phong trào dân chủ Việt Nam?”, đăng trên trang mạng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, 24/02/2018.
