Sự thật về lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời gian "chống Pháp kháng Mỹ" (Vũ Dương Huân)
Việt Nam theo quan điểm của Trung Quốc, từ áp dụng
cải cách ruộng đất đến đàm phán và ký kết hiệp định Geneva. Trong quá
trình đàm phán, Việt Nam bị Trung Quốc, và phần nào đó là Liên Xô, lèo
lái, dẫn đến những hạn chế không nhỏ cho kết quả hiệp định.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Liên Xô năm 1955. Ảnh tư liệu/ Báo Nghệ An
LTS: Hai bài viết trên Tuần Việt Nam của tác giả Huỳnh Phan phỏng vấn ông Vũ Dương Huân, nhà nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam đã hé mở cho chúng ta biết thêm được ít nhiều về lịch sử của đảng cộng sản trong thời gian "chống Pháp kháng Mỹ". Ngoài việc tung hô và ca ngợi sự sáng suốt và tài tình của bác và đảng như thường lệ, ông Vũ Dương Huân cho chúng ta biết nhiều sự thật đáng để suy ngẫm. Đó là chuyện ông Hồ đã 8 lần gửi thư cho tổng thống Mỹ Truman nhưng không được trả lời vì Mỹ biết ông Hồ là người của Quốc tế cộng sản. Chính ông Hồ đã nói: "Dù đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải dành cho được độc lập". Ông Hồ sau khi từ Việt Bắc trở về Hà Nội, để tỏ ra mình không phải cộng sản đã giả vờ đổi tên đảng, thay các bộ trưởng cộng sản bằng các thành phần và đảng phái khác, "cho" tổ chức tổng tuyển cử...Mặc dù sau chiến tranh thế giới lần thứ hai "Pháp đã đồng ý Việt Nam là quốc gia tự do, với chính phủ, quân đội và tài chính – những yếu tố chủ chốt của độc lập" nhưng đảng cộng sản vẫn tiến hành cuộc chiến tranh 9 năm với Pháp (1945-1954).
Trong phần hai ông Vũ Dương Huân đã cho chúng ta thấy được sự phụ thuộc của quá lớn của Việt Nam vào Trung Quốc để đổi lấy vũ khí, lương thực phục vụ cho công cuộc "kháng chiến chống Mỹ". Tuy nhiên mục đích chính của Trung Quốc khi giúp Việt Nam đánh Mỹ không hoàn toàn vô tư để bây giờ chúng ta phải "mang ơn" Trung Quốc như nhiều người nghĩ. Ông Huân cho biết "Liên Xô muốn có hòa dịu trên thế giới, còn Trung Quốc, sau Chiến tranh
Triều Tiên (đình chiến năm 1953) muốn thoát khỏi sự bao vây của Mỹ (Nam
Triều Tiên, Đài Loan và Đông Dương) và đẩy Mỹ ra xa hơn. Họ muốn miền
Bắc Việt Nam trở thành khu đệm. Ý đồ sâu xa của Trung Quốc, sau này mới
được làm rõ, là chia Đông Dương thành những nước nhỏ để trị".
Đảng cộng sản Việt Nam tồn tại nhờ sự hà hơi tiếp sức của Trung Quốc nhưng không hề có một cơ quan nào nghiên cứu về Trung Quốc, thậm chí trong phái đoàn hơn 30 người sang Trung Quốc đàm phán không hề có điện đàm, không có phiên dịch nên phải sử dụng phiên dịch của Trung Quốc là Văn Trang, không có một chuyên gia nào về Trung Quốc và thế giới...cho nên Việt Nam nói gì, nghĩ gì, bàn gì và gửi thông tin gì về nước đều bị Trung Quốc biết được và ngăn cản.
Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết không phải vì chiến thắng Điện Biên Phủ mà vì Trung Quốc ép Việt Nam phải ký, Việt Nam không muốn nhưng "Đến khi bị hù dọa rằng Mỹ sẽ can thiệp nếu Việt Nam tiếp tục cuộc chiến, chúng ta đã buộc phải nghe theo, vì thiếu thông tin". Việt Nam cũng không hề có một chuyên gia nào nghiên cứu về Mỹ và chính trị thế giới nên không biết gì về tình hình thế giới sau thế chiến thứ Hai, Trung Quốc dọa gì cũng nghe theo "Lúc đó chúng ta không có nhà nghiên cứu nên không biết, nhưng sau này
chúng tôi mới nghiên cứu và kết luận rằng lúc đó Mỹ không nhảy vào".
Ông Huân cũng đã phê phán sự "cực đoan" của ông Lê Duẩn và đảng cộng sản, lúc thì nhất nhất nghe theo Trung Quốc, lúc thì ngả hẳn theo Liên Xô quay lại chống Trung Quốc một cách cực đoan. Ví dụ hành động của Lê Duẩn là cực đoan và nhỏ nhặt không thể chấp nhận được khi bắt thủ tướng Chu Ân Lai phải cuốc bộ từ nhà chờ ra máy bay để về nước, bất chấp mọi qui tắc tối thiểu trong ngoại giao.
Trong cuộc thảm sát Gạc Ma chính ông Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh, Đào Duy Tùng đã dùng đa số chống lại sự phản kháng của bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, quyết đổi các đảo ở Trường Sa để "bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc". Chính bộ ba này đã ra lệnh cho các chiến sĩ hải quân không được nổ súng...
Nhắc lại những điều này không phải để đổ lỗi cho ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam mà chúng tôi chỉ muốn nói lên một thực tế là người Việt Nam chúng ta chưa bao giờ xây dựng cho mình được một tổ chức chính trị thật sự có tư tưởng chính trị với một đội ngũ nhân sự chính trị có hiểu biết và bản lĩnh để chèo lái con thuyền đất nước. Thiếu vắng tư tưởng và định hướng nên Việt Nam như con thuyền không lái, luôn trôi dạt vô định và gặp hết tai tương này đến rủi ro khác.
(Việt Hoàng)
(Việt Hoàng)
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
“Các đồng chí cứ làm cách mạng văn hóa đi, tôi làm cách mạng vũ hóa”

Tuần Việt Nam giới thiệu tiếp với quý vị phần 2 cuộc trao đổi với GS-TS Vũ Dương Huân về trường phải ngoại giao Hồ Chí Minh.
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, vai trò của ngoại giao Hồ Chí Minh được thể
hiện như thế nào để tận dụng được sự giúp đỡ to lớn của cả Liên Xô và
Trung Quốc, mặc dù hai nước đang có mâu thuẫn về đường lối từ năm 1963
và đỉnh điểm là xung đột quân sự ở biên giới năm 1969?
Ví
dụ, khi Việt Nam bắt đầu đàm phán với Mỹ năm 67-68, Trung Quốc không hài
lòng. Việc ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam mình có giảm, và gần
như không có tiếp xúc giữa lãnh đạo hai nước. Việt Nam không có cơ hội
để giải thích tại sao phải làm như vậy.
Bác Hồ mới cử đoàn của
Trung ương Cục miền Nam, dẫn đầu là ông Bí thư Nguyễn Văn Linh, sang
Trung Quốc để báo cáo với Chủ tịch Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản Trung
Quốc về tình hình kháng chiến của nhân dân miền Nam. Trung Quốc đành
phải tiếp vì họ giương cao ngọn cờ chống Mỹ. Nhưng Bác Hồ rất khôn khéo,
ông đã gài Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào đoàn, và ông Đồng có cơ hội giải
thích, trao đổi với họ về việc tại sao Việt Nam tiến hành đàm phán với
Mỹ.
Trung Quốc luôn đòi hỏi Việt Nam ủng hộ đường lối cách
mạng của Trung Quốc, nhất là Cách mạng Văn hóa, và đề nghị Việt Nam tiếp
bước làm cách mạng văn hóa. Bác Hồ, bảo rằng “các đồng chí cứ làm cách
mạng văn hóa đi, tôi làm cách mạng vũ hóa”, cho nên Trung Quốc đành
chịu.
Trong quan hệ với Trung Quốc, Bác Hồ đã
làm gì để dần thoát khỏi sức ép Trung Quốc, như đối với đàm phán và
ký Hiệp định Geneva, phân chia tại vĩ tuyến 17, hay cải cách ruộng đất?
Khi
mâu thuẫn với Liên Xô, Trung Quốc luôn luôn đòi hỏi Việt Nam phải ủng
hộ các quan điểm, đường lối của Trung Quốc. Nghị quyết Trung ương 9
tháng 12/1963 chống xét lại, nhưng thực chất Việt Nam theo quan điểm
Trung Quốc nhiều hơn. Việt Nam theo quan điểm của Trung Quốc, từ áp dụng
cải cách ruộng đất đến đàm phán và ký kết hiệp định Geneva. Trong quá
trình đàm phán, Việt Nam bị Trung Quốc, và phần nào đó là Liên Xô, lèo
lái, dẫn đến những hạn chế không nhỏ cho kết quả hiệp định.
Từ
Đại hội Đảng II (1951), Đảng Cộng sản đưa tư tưởng của Mao Trạch Đông
làm tư tưởng chủ đạo. Về phía Bác Hồ, người chỉ nói đạo đức thôi.
Tháng
7/1954, Thủ tướng Chu Ân Lai gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Liễu Châu (Nam
Ninh, Trung Quốc), có Đại tướng Võ Nguyên Giáp tháp tòng. Ông Chu Ân Lai
hỏi Tướng Giáp rằng, nếu đánh tiếp thì bao lâu thống nhất được đất
nước, Tướng Giáp nói rằng “cần 3 năm chúng tôi sẽ giải phóng hoàn toàn
miền Nam và thống nhất đất nước”.
Nhưng tại hội nghị Geneva, Việt
Nam không hiểu tình hình nên đành nghe theo Trung Quốc và Liên Xô. Liên
Xô muốn có hòa dịu trên thế giới, còn Trung Quốc, sau Chiến tranh Triều
Tiên (đình chiến năm 1953) muốn thoát khỏi sự bao vây của Mỹ (Nam Triều
Tiên, Đài Loan và Đông Dương) và đẩy Mỹ ra xa hơn. Họ muốn miền Bắc Việt
Nam trở thành khu đệm. Ý đồ sâu xa của Trung Quốc, sau này mới được làm
rõ, là chia Đông Dương thành những nước nhỏ để trị (Bắc Việt Nam, Nam
Việt Nam, Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia).
Ông
Việt Phương, nguyên thư ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong buổi họp
báo giới thiệu sách của các nhà ngoại giao, đã tiết lộ rằng khi đàm phán
hiệp định Geneva (1954), Bộ trưởng Ngoại giao lúc đó là Phạm Văn Đồng
đã mắc một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng là nhờ Trung Quốc chuyển các bức
điện về nước, và Trung Quốc biết hết các sách lược của Việt Nam và sử
dụng chúng để ép Việt Nam ký hiệp định, theo lợi ích của Trung Quốc. Ông
có nghe chuyện đó không?
Một như anh vừa nói, vì đoàn đàm
phám không mang theo điện đài, hai là trong đàm phán lại sử dụng phiên
dịch Trung Quốc tên là Văn Trang, trước đây đã phiên dịch cho Đại tướng
Võ Nguyên Giáp khi tiếp xúc với cố vấn Trung Quốc. Đoàn đàm phán nói gì,
viết gì, báo cáo bất cứ điều gì về Trung ương, và xin chỉ thị, Trung
Quốc biết trước và tìm cách ngăn lại. Ông Phạm Văn Đồng sau này cũng thú
nhận là Việt Nam quá tin Trung Quốc.
Tại hội nghị ấy, ông Đồng
chỉ chủ yếu tiếp xúc với đoàn Liên Xô và đoàn Trung Quốc, trong khi Anh
là đồng chủ tịch, quan điểm lại khác với Pháp, đoàn ta lại không tranh
thủ, không hề tiếp xúc với phái đoàn Anh. Đó không phải là trường phái
ngoại giao Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, đoàn đàm phán Việt Nam, có hơn
30 người, mà không có một chuyên gia nghiên cứu phục vụ đoàn. Đến khi bị
hù dọa rằng Mỹ sẽ can thiệp nếu Việt Nam tiếp tục cuộc chiến, chúng ta
đã buộc phải nghe theo, vì thiếu thông tin. Và kết quả là chúng ta đã
phải bỏ ra gấp 7 lần thời gian, với bao nhiêu xương máu, để thực hiện
cái điều mà Tướng Giáp nói với ông Chu Ân Lai.
Theo ông, nếu Việt Nam tiếp tục cuộc chiến, liệu Mỹ có nhảy vào can thiệp không?
Không!
Lúc đó chúng ta không có nhà nghiên cứu nên không biết, nhưng sau này
chúng tôi mới nghiên cứu và kết luận rằng lúc đó Mỹ không nhảy vào.
Lý
do thứ nhất là vì vừa kết thúc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953),
trong đó Mỹ thiệt hại mấy trăm nghìn quân đã ảnh hưởng rất nhiều tới dư
luận và Quốc hội Mỹ, và Tổng thống Eisenhower đã vận động Quốc hội mấy
lần về việc đem quân ra nước ngoài, nhưng Quốc hội bác hết. Lý do thứ
hai là sau đó Chính phủ Eisenhower mới ra một chính sách quốc phòng mới
là New Look, chỉ cho phép quân Mỹ sử dụng không quân và hải quân, chứ
không được đưa lục quân, ra nước ngoài. Như vậy, rõ ràng Mỹ đã không có
chính sách, và ý đồ can thiệp vào Đông Dương.
Nếu cứ theo ý Tướng
Giáp đánh tiếp, chỉ 3 năm sau chúng ta đã giải phóng được đất nước. Khi
đó, Mỹ có thay đổi chính sách cũng không kịp.
Chúng ta sợ lời đe
dọa của bạn cũng do đánh giá sai tình hình. Hội nghị Trung ương 6
(15/7/1954) đã đánh giá lực lượng của ta và Pháp tương đương nhau, nên
đánh nhau sẽ rất lâu, và quyết định đường lối đàm phán gửi cho Trưởng
đoàn Phạm Văn Đồng. Chúng ta quên mất rằng chúng ta vừa chiến thắng ở
Điện Biên Phủ nên thế của ta vượt trội so với Pháp. Tình báo của ta đã
phát hiện ra việc Pháp điện cho Bộ Chỉ huy ở Hà Nội nói rằng “đừng đề Hà
Nội trở thành Điện Biên Phủ thứ hai”. Sau này, Mao Trạch Đông và Chu Ân
Lai cũng thừa nhận bằng miệng rằng ép Việt Nam ký hiệp định chia cắt
đất nước là sai.
Tướng Giáp là tướng thực địa ở Điện Biên Phủ, nên
ông nói 3 năm là hoàn toàn có lý. Có điều Tướng Giáp đã không thuyết
phục được Bác Hồ, và qua đó là Trung Quốc, Liên Xô.
Sau
Hiệp định Geneva và cải cách ruộng đất, khi chúng ta nghe theo Trung
Quốc, làm sao Việt Nam lấy lại thế bình đẳng tương đối với Trung Quốc?
Việt
Nam, từ Đại hội II chấp nhận nhiều quan điểm của Trung Quốc, nhưng dần
dần Việt Nam cũng nhận thức được rằng những thứ đó là không đúng.
Trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước chúng ta cũng rút kinh nghiệm từ
Geneva, và rất thành công. Kinh nghiệm Geneva đã giúp chúng ta tiến hành
chiến tranh thành công, nếu không rút kinh nghiệm từ đàm phán ở Geneva,
chúng ta không thể đàm phán hiệp định Paris thành công được. Thứ nhất,
chúng ta rút kinh nghiệm ở Paris là đàm phán trực tiếp, chứ không đa
phương (9 bên) như ở Geneva, thứ hai, chúng ta tự quyết định đường lối,
chính sách, không dựa vào ai cả.
Có phải
trong nội bộ Đảng ta, Bí thư Thứ nhất BCH TƯ Lê Duẩn có vai trò quan
trọng trong việc lấy lại tính độc lập tự chủ trong các quyết định của
Đảng?
Ông Lê Duẩn là người có ý kiến độc lập, tự chủ, ông
nhận thức ra được sự phụ thuộc vào Trung Quốc có hại thế nào, và cố gắng
tách ra khỏi Trung Quốc. Nhưng, sau này, ông lại quá cực đoan, chống
Trung Quốc mạnh quá, và ngả hẳn sang Liên Xô.
Trong thời kỳ chống
Mỹ, sau khi Mao Trạch Đông gặp Tổng thống Nixon ở Thượng Hải, Thủ tướng
Chu Ân Lai có sang Việt Nam để giải thích rằng Trung Quốc làm thế là vì
Trung Quốc muốn thoát khỏi bị cô lập (kẻ thù của cả Liên Xô và Mỹ), và
đưa Trung Quốc phát triển lên, chứ không phải phản bội lại Việt Nam. Ông
Lê Duẩn không chấp nhận lời giải thích đó, và khi tiễn ông Chu Ân Lai
về nước, ông không cho xe ra đưa ông Chu Ân Lai ra máy bay, buộc ông Chu
Ân Lai và người phiên dịch phải đi bộ từ sảnh chờ ra cầu thang máy bay.
Tại sao khi Việt Nam đã dần lấy lại thế độc lập tự chủ mà Trung Quốc vẫn đổ tiền đồ của cho chúng ta?
Đó
cũng do Việt Nam có chính sách ngoại giao khôn khéo. Trung Quốc cũng
đang chống Mỹ, và Trung Quốc muốn dùng ngọn cờ của Việt Nam để nâng vị
thế của mình, và tranh giành vị trí bá chủ của Liên Xô trong đối đầu với
Mỹ. Lợi ích trùng hợp thì họ phải giúp mình thôi.
Trong
cuộc chiến ở Gạc Ma tại sao công binh của mình không được trang bị vũ
khí, ngoài mấy khẩu AK tầm thường? Và được lệnh không nổ súng trước?
Sai
lầm của ta là không chuẩn bị các phương án. Một là phương án Trung Quốc
ứng xử hòa bình, Việt Nam chỉ mang tàu công binh ra thôi, phương án hai
là Trung Quốc ứng xử bằng vũ trang thì mình cũng phải chuẩn bị lực
lượng vũ trang, Trung Quốc đưa pháo thì mình cũng phải đưa pháo ra chứ.
Bởi
vì ta lúc đó chỉ nhăm nhăm muốn tạo môi trường hòa bình để bình thường
hóa quan hệ với Trung Quốc ngay trong nhiệm kỳ của mình (ông Nguyễn Văn
Linh hứa chỉ làm Tổng Bí thư một nhiệm kỳ). Trang bị của công binh ở Gạc
Ma mới như vậy.
Hôm
7/5/1988, sau khi Trung Quốc chiếm Gạc Ma, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức
Anh ra Trường Sa, phát biểu trước chiến sĩ hải quân rằng "tàu lạ" đã tấn
công và Việt Nam mất 64 chiến sĩ.
Hôm 14/3/1988, Trung Quốc chiếm
Gạc Ma, thì 16/3 Bộ Chính trị họp (vì 15/3 bận đám tang cố Thủ tướng
Phạm Hùng). Vào cuộc họp Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn
Cơ Thạch đã hỏi luôn: "Ai ra lệnh cho bộ đội không được bắn?" Đại tướng
Lê Đức Anh phản bác đầu tiên, rồi đến ông Nguyễn Văn Linh, ông Đào Duy
Tùng cũng đế vào. Ý kiến của ông Nguyễn Cơ Thạch hóa ra lại là ý kiến
thiểu số, bị gạt ra ngoài.
Vai trò của Bác Hồ trong đàm phán Paris là gì?
Ý
kiến Bác Hồ chỉ là những tư tưởng lớn thôi, nhưng nó được thể hiện rõ
ràng trong quá trình đám phán. Một là phải kiên trì độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, hai là những quyền dân tộc cơ bản. Sau
này, Bộ Chính trị đã nêu ra 4 điều kiện cơ bản mà đàm phán Paris phải
đảm bảo. Hay chỉ đạo của Bác Hồ để giành thắng lợi từng bước : đánh cho
Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Bác Hồ nói "mình phải biết thắng đế quốc to
như Mỹ không theo kiểu Liên Xô vật ngửa phát xít Đức đươc, mà phải đánh
cho Mỹ rút". Hay Bác Hồ nói "trải thảm đỏ cho Mỹ rút", Mỹ rút 500 ngàn
quân là cán cân lực lượng đã thay đổi, và chúng ta sẽ thắng.
Bốn chỉ đạo của Bộ Chính trị với đoàn đàm phán là gì?
Một
là Mỹ tôn trọng quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, hai
là Mỹ chấm dứt can thiệp vào Việt Nam, ba là Mỹ hàn gắn vết thương chiến
tranh, và bốn là mình giữ được lực lượng ở miền Nam, điều quan trọng
nhất.
Biểu hiện đầu tiên của quan điểm vừa đánh vừa đàm là gì?
Phó
Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh trong khi tiếp Bộ
trưởng Ngoại giao Mông Cổ, ông nâng ly lên và nói rằng “nếu Mỹ chấm dứt
ném bom miền Bắc, tôi sẽ nói chuyện với Mỹ”.
Vai
trò ngoại giao của Hồ Chí Minh trong việc thoát khỏi bao vây cấm vận
chính trị và bao vây về chính trị và cấm vận về kinh tế sau khi Việt Nam
đưa quân vào Cămpuchia như thế nào?
Tư tưởng của Bác Hồ là
ngoại giao phải rất năng động, phải kết hợp sức mạnh dân tộc và thời
đại, đoàn kết quốc tế và hội nhập quốc tế.
Ngoại giao phải năng
động tức là phải kiên trì nguyên tắc mềm dẻo, tranh thủ sự giúp đỡ của
bạn bè, tìm kiếm hỗ trợ quốc tế. Việt Nam vận dụng tốt những nguyên tắc
này nên mới phá vây, phá cấm vận, bằng ngoại giao. Đây là thời kỳ ngoại
giao vô cùng năng động, so với thời kỳ trước.
Ông nói về thế phá bao vây, từ việc đầu tiên là bắt tay với các nước ASEAN, đúng không?
Đầu
tiên là tranh thủ các nước ASEAN, xong lại giải quyết vấn đề Campuchia,
rồi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, bình thường hóa quan hệ với
Mỹ. Cái chốt ở đây là phải giải quyết vấn đề Campuchia, bởi vì nó mà
Việt Nam bị bao vây, cấm vận, bị cô lập hóa. Mình vực dậy lực lượng
Campuchia, họ cứng cáp lên thì Việt Nam rút quân về, rút toàn bộ vào
tháng 9/1989.
Điều thứ hai Việt Nam phải giải quyết vấn đề với
Trung Quốc, vì Trung Quốc vừa là nước lớn, nước láng giềng, vừa là nước
có vai trò quan trọng trong vấn đề Cămpuchia, và sau đó thúc đẩy bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Với ASEAN, Việt Nam có làm
trước đó có tiến hành JIM1 và JIM2, vừa để tăng cường quan hệ với các
nước Đông Nam Á, nhằm mục tiêu hội nhập ASEAN, vừa để giải quyết vấn đề
Campuchia.
Trong các bộ trưởng ngoại giao,
theo ông người nào thấm nhuần quan điểm ngoại giao Hồ Chí Minh nhất, nói
cách khác là thành công nhất?
Theo tôi có 2 bộ trưởng
ngoại giao thành công nhất, thể hiện quan điểm ngoại giao Hồ Chí Minh
nhiều và rõ nhất, đó là ông Nguyễn Duy Trinh và ông Nguyễn Cơ Thạch.
Ông
Nguyễn Duy Trinh là người có đóng góp tốt trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, ông chỉ đạo đàm phán Paris, ông chỉ đạo đấu tranh
ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, rồi tranh thủ dư luận,
tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, hay nghiên cứu chiến lược,
sách lược… đều hết sức thành công, hầu như không có thiếu sót.
Nhưng
trong giai đoạn đầu bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ
(1977-1978) ông không thành công, khi không tham mưu được cho lãnh đạo
cấp cao đừng đền bù chiến tranh là điều kiện tiên quyết, vì chuyện đền
bù do Quốc hội Mỹ quyết định, chứ không phải Tổng thống. Hay từ chối
bình thường hóa quan hệ với ASEAN. Hay trong Nghị quyết Hội nghị TW 4
(27/7/1978) đã đánh giá tình hình thế giới sai không chuẩn xác. Việt Nam
hành động sai, bị Trung Quốc đánh và bị bao vây cấm vận suốt hơn một
thập kỷ.
Có thể nhắc đến vai trò của TBT Lê Duẩn, hay ông Lê Đức
Thọ trong chuyện này, nhưng người phụ trách đối ngoại Nguyễn Duy Trinh
vẫn phải chịu trách nhiệm nào đó. Tất nhiên, tôi chưa kết luận vì không
tiếp cận được biên bản ghi quá trình thảo luận để ra được nghị quyết ấy.
Ông
Nguyễn Cơ Thạch là người có tư tưởng rất sáng, đánh giá tình hình thế
giới rất chuẩn xác, nghiên cứu rất sâu, đánh giá rất là chuẩn xác, mà
hành động rất năng động. Ví dụ, cái thời Việt Nam bị khốn đốn về vấn đề
Campuchia là thời ngoại giao năng động nhất, luôn có những hoạt động
ngoại giao lớn, khi thì chơi với anh này khi thì tập hợp với anh kia, để
chống trả anh khác.
Người thấm nhuần nhất tư tưởng Hồ Chí Minh chính là ông Nguyễn Cơ Thạch, người bảo vệ tốt nhất lợi ích của Việt Nam.
Xin cám ơn ông Vũ Dương Huân đã dành thời gian cho Tuần Việt Nam.
Huỳnh Phan (thực hiện)