Những bài học sau 100 năm cách mạng cộng sản (Ilya Somin)
Tổng cộng, các nước cộng sản đã giết khoảng 100 triệu người, nhiều
hơn số người mà tất cả các chế độ áp bức khác đã giết hại trong cùng
thời gian đó. Cho đến nay, số người chết nhiều nhất là do những nỗ lực
của cộng sản nhằm tập thể hóa nông nghiệp và giết hại những người nông
dân có tài sản tư hữu.
Kỉ
niệm 100 năm Cách mạng Bolshevik cũng là lúc suy nghĩ về những bài học
mà chúng ta rút ra được từ thực tiễn của cuộc cách mạng này.
Ngày 7 tháng 11 là kỷ niệm 100 năm ngày những người Bolshevik cướp
được chính quyền, dẫn tới việc thành lập chế độ cộng sản ở Nga và cuối
cùng là ở nhiều nước khác trên thế giới. Đó là thời điểm thích hợp để
cùng nhớ lại làn sóng đàn áp, những hành động bạo ngước và giết người
hàng loạt mà các chế độ cộng sản đã gây ra trên khắp thế giới. Trong khi
các nhà sử học và những người khác ghi lại được nhiều hành động tàn bạo
của cộng sản, phần lớn công chúng vẫn không nhận thức được quy mô to
lớn của chúng. Đây cũng là lúc suy nghĩ về những bài học mà chúng ta có
thể rút ra được từ giai đoạn lịch sử khủng khiếp này.
I. Kỉ lục về những vụ đàn áp và giết người hàng loạt
Tổng cộng, các nước cộng sản đã giết khoảng 100 triệu người, nhiều
hơn số người mà tất cả các chế độ áp bức khác đã giết hại trong cùng
thời gian đó. Cho đến nay, số người chết nhiều nhất là do những nỗ lực
của cộng sản nhằm tập thể hóa nông nghiệp và giết hại những người nông
dân có tài sản tư hữu. Riêng ở Trung Quốc, Đại nhảy vọt của Mao Trạch
Đông đã dẫn đến nạn đói do chính con người gây ra, làm 45 triệu người
thiệt mạng - vụ giết người hàng loạt lớn nhất trong lịch sử thế giới. Ở
Liên Xô, quá trình tập thể hóa của Joseph Stalin – mô hình cho những nỗ
lực tương tự ở Trung Quốc và các nước khác – làm thiệt mạng từ 6 đến 10
triệu người. Nạn đói xảy ra trong nhiều chế độ cộng sản khác, từ Bắc
Triều Tiên đến Ethiopia. Trong mỗi trường hợp, các ông trùm cộng sản đều
biết rõ rằng chính sách của họ đã làm nhiều người chết, nhưng họ vẫn
tiếp tục làm vì họ coi việc giết địa chủ là đặc điểm của cách mạng chứ
không phải là sai lầm.
Trong khi tập thể hóa là vụ giết người nhiều nhất, các chế độ cộng
sản còn tiến hành những hình thức giết người hàng loạt khác trên quy mô
lớn. Hàng triệu người đã chết trong các trại lao động khổ sai, ví dụ, hệ
thống Gulag của Liên Xô và những hệ thống tương tự ở những nước khác.
Nhiều người đã bị giết trong các vụ tử hình hàng loạt, ví dụ, vụ Đại
Thanh Trừng của Stalin và những Cánh Đồng Chết ở Campuchia.
Sự bất công do chủ nghĩa cộng sản gây ra không chỉ dừng lại ở những
vụ giết người hàng loạt. Ngay cả những người may mắn sống sót vẫn bị áp
bức nghiêm trọng, trong đó có vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do tôn
giáo, không có quyền sở hữu tài sản và hình sự hóa các hoạt động kinh tế
bình thường. Chưa có chế độ độc tài nào từng tìm kiếm những biện pháp
kiểm soát toàn diện hầu như tất cả các mặt của đời sống của con người
như cộng sản đã làm.
Mặc dù người cộng sản hứa hẹn xây dựng xã hội không tưởng, trong đó
giai cấp công nhân sẽ được hưởng sự thịnh vượng chưa từng thấy, nhưng
thực tế, họ đã tạo nạn đói nghèo trên diện rộng. Khi nào quốc gia cộng
sản và không cộng sản ở gần nhau, thì chính cộng sản phải xây những bức
tường và dọa giết để ngăn không cho người dân của mình chạy trốn sang
những xã hội có nhiều cơ hội hơn.
II. Vì sao cộng sản thất bại
Làm sao mà hệ tư tưởng nói là giải phóng lại dẫn đến quá nhiều vụ đàn
áp, bạo ngược và nhiều người chết như thế? Có phải đấy là những thất
bại thuộc về bản chất của dự án cộng sản, hay chúng đã phát sinh từ
những sai lầm có thể tránh được của những người cầm quyền hoặc dân tộc
cụ thể? Giống như bất kỳ quá trình phát triển lịch sử vĩ đại nào khác,
những thất bại của chủ nghĩa cộng sản không thể quy giản thành một
nguyên nhân duy nhất. Nhưng, nói chung, những thất bại này là bản chất
cố hữu của dự án.
Hai yếu tố chính trở thành nguyên nhân quan trọng nhất của những hành
động tàn bạo mà các chế độ cộng sản đã gây ra: động cơ sai lầm và sự
hiểu biết không đầy đủ. Việc thiết lập nền kinh tế và xã hội kế hoạch
hóa tập trung theo yêu cầu của tư tưởng xã hội chủ nghĩa buộc phải tập
trung quyền lực rất lớn vào tay một nhóm người. Trong khi cộng sản mong
muốn xã hội không tưởng, trong đó nhà nước nhà nước sẽ “biến mất dần”
thì họ lại tin rằng việc đầu tiên là phải thiết lập nền kinh tế do nhà
nước quản lý để sản xuất vì lợi ích của nhân dân. Về mặt này, họ có
nhiều điểm chung với những người xã hội chủ nghĩa khác.
Muốn cho xã hội chủ nghĩa hoạt động, những người lập chính sách của
chính phủ phải có quyền chỉ đạo sản xuất và phân phối hầu như tất cả các
mặt hàng mà xã hội sản xuất được. Bên cạnh đó, cần phải đàn áp trên
diện rộng để buộc người ta từ bỏ tài sản cá nhân và làm những việc mà
nhà nước yêu cầu. Nạn đói và giết người hàng loạt có thể là biện pháp
duy nhất mà những người cầm quyền ở Liên Xô, Trung Quốc và các quốc gia
cộng sản khác có thể sử dụng nhằm ép buộc nông dân từ bỏ đất đai và gia
súc của mình và chấp nhận hình thức nô lệ mới trong các nông trang tập
thể - đa số đều bị cấm, không được rời bỏ nông trang nếu chưa được phép,
vì sợ rằng người nông dân có thể tìm kiếm cuộc sống dễ dàng hơn ở những
nơi khác.
Quyền lực rất lớn nhằm thiết lập và duy trì hệ thống cộng sản là
chiếc nam châm tự nhiên, thu hút những kẻ vô đạo đức, trong đó có nhiều
kẻ tự tư tự lợi, những kẻ đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích của sự
nghiệp mà họ theo đuổi. Nhưng đáng kinh ngạc là, những hành động tàn bạo
nhất của cộng sản lại không phải do những ông trùm thối nát gây ra, mà
do các tín đồ thực sự như Lenin, Stalin và Mao. Chính vì họ là những tín
đồ thật sự, họ sẵn sàng làm bất cứ việc gì để biến ước mơ không tưởng
của mình thành hiện thực.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa tạo ra những cơ hội để người cầm quyền phạm
những tội ác khủng khiếp, đồng thời nó còn tiêu diệt động cơ sản xuất
của những người dân bình thường. Thiếu vắng thị trường (chí ít là hợp
pháp), thì chẳng có mấy động lực khuyến khích người lao động tăng năng
suất hay chú tâm vào việc sản xuất ra những hàng hoá thực sự có ích cho
người tiêu dùng. Nhiều người tìm cách làm việc cơ quan càng ít càng tốt
và nếu có điều kiện thì cố gắng làm cho chợ đen (ở VN gọi là chân ngoài
dài hơn chân trong – ND). Ở Liên Xô cũ, người ta thường nói: “Chúng tôi
giả vờ làm việc, còn họ thì giả vờ trả lương cho chúng tôi”.
Ngay cả khi kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa thực sự tìm cách tạo ra
thịnh vượng và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, họ cũng không đủ
thông tin để làm việc đó. Như nhà kinh tế học F.A. Hayek, huân chương
Nobel, từng mô tả trong một bài báo nổi tiếng, rằng kinh tế thị trường
đưa những thông tin quan trọng – thông qua hệ thống giá cả - đến người
sản xuất và người tiêu dùng. Giá thị trường tạo điều kiện cho người sản
xuất biết được giá trị tương đối của các món hàng hoá và dịch vụ khác
nhau và xác định người tiêu dùng đánh giá sản phẩm của họ cao đến mức
nào. Ngược lại, kế hoạch hóa tập trung xã hội chủ nghĩa không có cái gì
thay thế cho kiến thức cực kì quan trọng này. Kết quả là, những người
lập kế hoạch xã hội chủ nghĩa thường không thể biết cần sản xuất món
hàng gì, sản xuất bằng phương pháp nào, hoặc sản xuất bao nhiêu. Đây là
một trong những lý do vì sao các nước cộng sản thường xuyên thiếu những
hàng hoá cơ bản nhất, đồng thời lại làm ra nhiều sản phẩm kém chất lượng
mà lượng cầu lại không cao.
III. Tại sao thất bại lại không thể biện hộ được
Cho đến nay, những người bảo vệ kế hoạch tập trung xã hội chủ nghĩa
khẳng định rằng chủ nghĩa cộng sản thất bại vì những lý do ngẫu nhiên,
có thể tránh được, chứ không phải là vì những lý do có tính bản chất,
nội tại của hệ thống. Có lẽ tuyên bố phổ biến nhất thuộc loại này là
kinh tế kế hoạch có thể hoạt động tốt nếu đấy là chế độ dân chủ. Liên Xô
và các nước cộng sản khác đều là chế độ độc tài. Nhưng nếu đấy là chế
độ dân chủ, có lẽ các nhà lãnh đạo sẽ có động cơ mạnh mẽ hơn nhằm làm
cho hệ thống hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Nếu họ không làm như
vậy, các cử tri có thể “vứt những kẻ vô tích sự đi” trong cuộc bầu cử
tiếp theo.
Thật không may là, ít có khả năng là nhà nước cộng sản có thể giữ
được tính dân chủ trong thời gian dài, ngay cả khi nó bắt đầu theo cách
đó. Dân chủ đòi hỏi phải có các đảng đối lập hoạt động hiệu quả. Và để
có thể hoạt động, các đảng phái cần có điều kiện đưa ra thông điệp của
họ và huy động cử tri, tức là cần nhiều nguồn lực. Trong hệ thống kinh
tế, trong đó, tất cả hay gần như tất cả các nguồn lực có giá trị đều nằm
trong tay nhà nước, chính phủ đương nhiệm có thể dễ dàng bóp nghẹt phe
đối lập bằng cách không cho họ tiếp cận với các nguồn lực đó. Trong chủ
nghĩa xã hội, phe đối lập không thể hoạt động nếu họ không được phép
truyền bá thông điệp của mình trên các phương tiện truyền thông của nhà
nước, hay sử dụng tài sản của nhà nước để tổ chức các cuộc mít tinh và
các cuộc tập hợp. Không phải ngẫu nhiên mà hầu như tất cả các chế độ
cộng sản đều đàn áp các đảng đối lập ngay sau khi gìanh được quyền lực.
Ngay cả nếu nhà nước cộng sản thể vẫn là chế độ dân chủ trong một
thời gian dài, thì cũng khó mà hiểu cách thức họ giải quyết hai vấn đề
cùng song tồn tại là kiến thức và động lực. Dù dân chủ hay không, kinh
tế xã hội chủ nghĩa vẫn đòi hỏi sự tập trung quyền lực to lớn và cưỡng
ép trên diện rộng. Và những người lập kế hoạch xã hội chủ nghĩa dân chủ
sẽ gặp nhiều vấn đề về thông tin, tương tự như các đối tác độc tài của
họ. Ngoài ra, trong xã hội mà chính phủ kiểm soát tất cả hay kiểm soát
hầu hết nền kinh tế, cử tri sẽ gần như không tìm được đủ kiến thức để
theo dõi các hoạt động của nhà nước. Nó sẽ làm trầm trọng thêm vấn đề
vốn đã nghiêm trọng về sự dốt nát của cử tri, gây ra nhiều rắc rối cho
các chế độ dân chủ hiện đại.
Cách giải thích khác là lãnh đạo kém. Chỉ cần các chế độ cộng sản
không có các nhà lãnh đạo tàn bạo như Stalin hay Mao, thì họ có thể đã
có kết quả tốt hơn. Không nghi ngờ gì rằng các chính phủ cộng sản có
nhiều nhà lãnh đạo độc ác và thậm chí rối loạn nhân cách hơn là các
chính phủ khác. Nhưng ít có khả năng đây là yếu tố quyết định làm cho họ
thất bại. Các chế độ cộng sản với các nhà lãnh đạo với những tính cách
khác nhau cũng đều đưa tới kết quả giống hệt nhau. Ở Liên Xô, điều quan
trọng cần nhớ là các thiết chế đàn áp chính (trong đó có Gulags và cảnh
sát mật) không phải do Stalin mà do Vladimir Lenin - một người “bình
thường” hơn – lập ra. Sau khi Lenin chết, đối thủ chính của Stalin -
Leon Trotsky – còn ủng hộ các chính sách mà trong một số mặt thậm chí
còn khắc nghiệt hơn cả Stalin. Khó mà không kết luận rằng nhân cách nhà
lãnh đạo không phải là nhân tố chính, hoặc - theo nói theo cách khác –
các chế độ cộng sản có khuynh hướng đưa những người độc ác vào vị trí
quyền lực.
Cũng khó công nhận những tuyên bố nói rằng chủ nghĩa cộng sản thất
bại là do những khiếm khuyết trong văn hoá của các quốc gia áp dụng nó.
Đúng là Nga, nhà nước cộng sản đầu tiên, đã có lịch sử tham nhũng, chế
độ độc tài và áp bức kéo dài. Nhưng cũng đúng là cộng sản tiến hành
những vụ đàn áp và giết người hàng loạt ở quy mô lớn hơn hẳn so với các
chính phủ Nga trước đây. Và chủ nghĩa cộng sản cũng thất bại ở nhiều
quốc gia khác, với những nền văn hoá rất khác nhau. Các nước như Triều
Tiên, Trung Quốc và Đức, với cùng nền tảng văn hoá ban đầu, những người
dân trong chế độ cộng sản đã phải chịu đựng tình trạng thiếu thốn khủng
khiếp, trong khi người dân sống trong các nền kinh tế thị trường đã thu
được nhiểu thành công hơn hẳn.
Nói chung, những hành động tàn bạo và thất bại của chủ nghĩa cộng sản
là kết quả tự nhiên của nỗ lực nhằm thiết lập nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa, trong đó toàn bộ hoặc gần như toàn bộ quá trình sản xuất đều nằm
trong tay nhà nước.
Nếu những hành động tàn bạo của quốc xã là những bài học về sự nguy
hiểm của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa
bài Do Thái, thì lịch sử tội ác của cộng sản đã dạy cho chúng ta những
mối nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội. Lịch sử của chủ nghĩa cộng sản không
chứng minh rằng phải tránh mọi hình thức can thiệp của chính phủ vào
kinh tế. Nhưng nó nhấn mạnh những mối nguy hiểm của việc cho phép nhà
nước nắm quyền kiểm soát tất cả hay phần lớn nền kinh tế và tiêu diệt sở
hữu tư nhân. Hơn nữa, những vấn đề về kiến thức và khuyến khích xuất
hiện trong chủ nghĩa xã hội cũng gây khó khăn cho những nỗ lực trong
việc lập kế hoạch kinh tế trên quy mô lớn làm cho chính phủ không thể
kiểm soát được toàn bộ nền kinh tế.
Đáng buồn là, hiện nay những bài học này vẫn còn có ý nghĩa, đấy là
khi chủ nghĩa xã hội lại bắt đầu thu hút được các môn đồ ở nhiều nước
trên thế giới. Ở Venezuela, chính phủ đang tìm cách thiết lập chế độc
tài xã hội chủ nghĩa mới, tức là chế độ độc tài theo đuổi nhiều chính
sách tương tự như những chế độ xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có
việc không cung cấp đủ lương thực để làm tan rã phe đối lập. Ngay cả ở
một số chế độ dân chủ đã được thiết lập từ lâu, những khó khăn về kinh
tế và xã hội gần đây đã làm tăng sự ủng hộ của dân chúng đối với những
người xã hội chủ nghĩa kiểu cũ như Bernie Sanders ở Mỹ và Jeremy Corbyn ở
Anh. Cả Sanders và Corbyn đều là những người từng ngưỡng mộ chế độ cộng
sản tàn bạo trong một thời gian dài. Ngay cả nếu họ muốn làm như vậy,
không có khả năng là Sanders hay Corbyn sẽ có thể thiết lập chủ nghĩa xã
hội đầy đủ ở những nước của mình. Nhưng họ có khả năng gây ra những
thiệt hại đáng kể.
Ở phía bên kia của phổ chính trị, có những điểm tương đồng đáng lo
ngại giữa chủ nghĩa cộng sản và các phong trào quốc gia cực hữu được
lòng dân vừa mới xuất hiện. Cả hai xu hướng độc tài kết hợp với thái độ
khinh bỉ đối với những giá trị của tự do và mong muốn khuếch trương
quyền kiểm soát của chính phủ đối với những khu vực rộng lớn của nền
kinh tế.
Những khuynh hướng nguy hiểm hiện nay ở cả phái hữu và phái tả không
còn có sức mạnh đe dọa như những phong trào cách đây một thế kỷ, và
không cần phải lo lắng về những thiệt hại to lớn gần như ngày xưa. Nhưng
chúng ta càng học kĩ những bài học đau đớn của lịch sử của chủ nghĩa
cộng sản thì càng có nhiều khả năng là chúng ta có thể tránh được sự lặp
lại của những nỗi kinh hoàng mà nó đã gây ra.
Ilya Somin là Giáo sư Luật tại George Mason University. Đề tài
nghiên cứu của ông nằm torng các lĩnh vực luật hiến pháp, luật về quyền
sở hữu, và sự tham gia của dân chúng vào chính trị và ảnh hưởng của nó
đối với chế độ dân chủ hiến định.
Phạm Nguyên Trường dịch (Dân Luận)