Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia đã vượt giới hạn cho phép (Lan Nhi)
Cho
dù 9 tháng đầu năm nay Chính phủ không cấp mới bảo lãnh cho các dự án
của doanh nghiệp vay vốn trong và ngoài ước nhưng kể từ năm 2016, dư nợ
nước ngoài cùa quốc gia đã tăng mạnh khiến cho nghĩa vụ trả nợ nước
ngoài so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đã đạt mức
29,7%, vượt giới hạn cho phép 25%.
Dư nợ tự vay, tự trả của các doanh nghiệp tăng mạnh
Theo Báo cáo về tình hình vay nợ của Chính phủ ước thực hiện năm 2017
và kế hoạch năm 2018 gửi Quốc hội, dư nợ nước ngoài của quốc gia (bao
gồm tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ vay nước ngoài được
Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp, tổ chức khác vay nước ngoài
theo phương thức tự vay, tự trả theo quy định) đã tăng đáng kể từ năm
2016, chủ yếu do dư nợ tự vay tự trả của các doanh nghiệp tăng mạnh.
Năm 2016 đã tăng 14,5% so với năm 2015, trong đó nợ nước ngoài của
Chính phủ tăng 8,6%; nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh tăng 3%; nợ
tự vay tự trả của doanh nghiệp tăng 26,8%. Điều đó kéo theo nghĩa vụ trả
nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ là 29,7%, trong khi giới hạn cho phép là 25%.
Nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh đã
được siết lại rất chặt để đảm bảo an toàn nợ công. Song nợ của doanh
nghiệp tự vay tự trả lại khó kiểm soát hơn. Và nếu không kiểm soát chặt
thì việc chuyển các khoản nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp thành nghĩa
vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà nước là rủi ro và hệ lụy lớn. Các khoản
nợ đến hạn không trả được của các dự án xi măng, đạm Ninh Bình, nhà máy
bột giấy Phương Nam, gang thép Thái Nguyên giai đoạn II… là những ví dụ
cụ thể.
Đến hết năm 2016, tổng dư nợ nước ngoài của quốc gia là 2.013.681 tỉ
đồng, bằng 44,7% GDP. Con số này vẫn trong giới hạn an toàn (dưới 50%)
nhưng chỉ số nợ nước ngoài của quốc gia có xu hướng tăng cao hơn năm
trước. Nguyên nhân là do quy mô vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp
(tự vay, tự trả) tăng nhanh. Tốc độ tăng dư nợ của các khoản vay trung
và dài hạn là 30,4%, của các khoản vay ngắn hạn là 20,4% so với năm
2015. Nó kéo theo nghĩa vụ trả nợ tăng gấp đôi (29,7% so với 12,4% của
năm 2015) do hoạt động rút vốn và trả nợ gốc các khoản vay nước ngoài
ngắn hạn của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng trong năm 2016. Việc gia
tăng mức vay nước ngoài ngắn hạn của tổ chức tín dụng nhằm hỗ trợ vốn
tín dụng ngắn hạn, điều hòa thanh khoản ngoại tệ trong hệ thống.
Tính đến hết 9 tháng năm 2017, tổng mức trả nợ của Chính phủ là 213.316
tỉ đổng (75.352 tỉ đồng là trả nợ lãi). Việc trả nợ Chính phủ được thực
hiện chặt chẽ, đúng hạn theo đúng cam kết của Chính phủ với các nhà tài
trợ.
Về bảo lãnh vay nợ Chính phủ, định hướng về hạn mức bảo lãnh của Chính
phủ năm 2017 và các năm tiếp theo là: hạn chế tối đa cấp bảo lãnh của
Chính phủ cho các khoản vay mới. Đối với Ngân hàng Chính sách xã hội và
Ngân hàng Phát triển, bảo lãnh phát hành mới bằng nghĩa vụ trả nợ gốc
hàng năm. Do đó, 9 tháng đầu năm không thực hiện cấp mới bảo lãnh của
Chính phủ cho các dự án vay vốn. Riêng việc giải ngân ròng các dự án đã
cấp bảo lãnh trước đây vẫn trong hạn mức phê duyệt.
Vậy vấn đề nằm ở hạn mức vay nước ngoài của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng.
Không thể chuyển nợ doanh nghiệp thành nợ quốc gia
Chính phủ đã đồng loạt triển khai các biện pháp tăng cường quản lý chặt
chẽ, đảm bảo nợ công trong mức an toàn, trong đó có chủ trương tạm dừng
xem xét cấp bảo lãnh cho các dự án mới, thẩm định chặt các dự án đăng
ký sử dụng vốn vay, nhất là vay mới. Vấn đề là phải có các biện pháp
kiểm soát tốc độ tăng nhanh dư nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp, đảm
bảo tuân thủ các nguyên tắc hạn mức đã được phê duyệt
Theo Báo cáo định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công
giai đoạn 2016-2020 của Chính phủ, dự kiến hạn mức vay thương mại nước
ngoài của doanh nghiệp theo hình thức tự vay, tự trả tối đa là 5,5 tỉ đô
la Mỹ/năm. Ước thực hiện hạn mức dư nợ vay này năm 2017 đã là 5,1 tỉ đô
la, bằng 93% hạn mức định hướng/năm, mà chỉ bao gồm các khoản vay đã
đăng ký chính thức với Ngân hàng Nhà nước tính đến hết 30-9-2017, chưa
bao gồm các khoản sẽ phát sinh trong quí 4. Đây là hạn mức rất lớn.
Trên thực tế, việc kiểm soát nợ tự vay, tự trả của doanh nghiệp là rất
khó, vì đầu mối quản lý nợ phân tán, lại là nợ tự vay, tự trả. Chính phủ
đề ra mục tiêu tốc độ tăng tối đa hàng năm của dư nợ nước ngoài ngắn
hạn là 8% đến 10%. Tuy nhiên, việc phải có cơ quan thống kê số lượng,
giá trị các dự án mới của doanh nghiệp ký kết, nguồn vay và dự án có khả
năng ký kết trong giai đoạn 2016-2020 (kể cả trong kế hoạch của Nhà
nước và đầu tư của doanh nghiệp, nhất là DNNN) là hết sức cần thiết,
nhằm đánh giá tác động đến nợ công cũng như những rủi ro của việc doanh
nghiệp vay nợ nước ngoài.
TBKTSG