Nói về hòa giải quốc gia (Trương Nhân Tuấn)
Gọi
cách nào thì bản chất của cuộc chiến vẫn không thay đổi : người Việt
đánh nhau với người Việt, trên đất nước Việt Nam. Và khi người Việt đánh
người Việt, trên đất Việt, bất kể lý do nào, bất kể bên nào đánh bên
nào (cho dầu có sự trợ giúp của nước này hay nước kia), cuộc chiến đó
phải gọi là một cuộc "nội chiến".
Chiến
tranh Việt Nam 1954-1975 được gọi dưới nhiều tên khác nhau, tùy quan
điểm chính trị, quan điểm ý thức hệ cũng như hoàn cảnh pháp lý của các
bên lâm chiến.
Miền
Bắc gọi đó là cuộc "chiến tranh giải phóng", "đánh Mỹ cứu nước". Trên
quan điểm ý thức hệ thì đó là cuộc chiến tranh giữa hai khối cộng sản và
tự do. Trên mặt trận ta thấy vũ khí của Liên Xô, Trung Quốc, nói chung
là khối xã hội chủ nghĩa, đánh với vũ khí của Mỹ. Phía miền Nam thì gọi
đó là cuộc chiến bảo vệ tự do. Miền Nam đôi khi tự nhận là "tiền đồn của
thế giới tự do", còn miền Bắc hãnh diện là "ngọn cờ đầu của thế giới vô
sản". Người Mỹ gọi đó là "cuộc chiến Việt Nam". Phe xã hội chủ nghĩa
gọi đó là cuộc chiến "chống đế quốc Mỹ"...
Gọi
cách nào thì bản chất của cuộc chiến vẫn không thay đổi : người Việt
đánh nhau với người Việt, trên đất nước Việt Nam. Và khi người Việt đánh
người Việt, trên đất Việt, bất kể lý do nào, bất kể bên nào đánh bên
nào (cho dầu có sự trợ giúp của nước này hay nước kia), cuộc chiến đó
phải gọi là một cuộc "nội chiến".
Chiến
tranh xảy ra trên đất nước đã làm cho "gà nhà bôi mặt", máu chảy thành
sông, xương chồng thành núi, ruộng đồng tàn phá, đất nước điêu tàn, lòng
người ly tán. Các bên tham gia tìm cách đặt tên cho cuộc chiến để dành
"chính nghĩa" về mình, để sự can dự của mình phù hợp với các nguyên tắc
về chiến tranh của "công pháp quốc tế".
Đại
tướng Võ Nguyên Giáp nhân một cuộc phỏng vấn báo chí nước ngoài, trả
lời câu hỏi : ông có thấy tiếc nuối (hay hối hận) về 4 triệu người là
nạn nhân cuộc chiến hay không ? Ông Giáp trả lời gọn : Không hề.
Không
có sự tàn phá nào cho bằng một cuộc "nội chiến", nhứ là lý do cuộc
chiến là khác biệt về "ý thức hệ". Vì ngoài những chết chóc, mất mát, đổ
vỡ... gây ra do chiến tranh, sự khác biệt về "ý thức hệ" đã khiến những
nạn nhân còn sống sót lại trở thành "kẻ thù ý thức hệ".
Báo
chí thế giới có lần phỏng vấn ông Phạm Văn Đồng, thập niên 80, nhân cao
trào vượt biên : ông nghĩ gì về những người Việt vượt biên ? Ông Đồng
trả lời đại khái rằng (những người vượt biên) là thành phần đĩ điếm, cặn
bã xã hội (sic !). Ông Đồng cũng có nói về số phận những người học tập
cải tạo. Ông cho rằng họ là những người "có tội ác với nhân dân", không
tử hình họ là (nhà nước) còn nhân đạo lắm (sic !).
Những
người lính, công chức phục vụ cho bộ máy hành chánh Việt Nam Cộng Hòa,
sau 30/4/1975 bị tập trung vào các trại "học tập cải tạo" trong rừng
sâu, núi thẳm, xa cách với thành thị. Có người bị "cải tạo" 5 năm, có
người mười năm, có người hai mươi năm. Đến nay, sau 40 năm, chắc chắc
vẫn còn nhiều người trong thành phần này chưa thấy được tự do.
Qua
nhiều nhân chứng còn sống, đời sống của người "học tập cải tạo" tệ hại
hơn cả tù nhân khổ sai. Tù nhân khổ sai, khi bị kết án, là chịu những
hình phạt qui định theo pháp luật. Người "học tập cải tạo", mọi tự do bị
mất như người tù, nhưng làm việc cực nhọc cho đến khi kiệt sức, hơn cả
tù khổ sai, mà không được ăn no như tù khổ sai. Rất nhiều trường hợp
người "học tập cải tạo" bị chết do lao lực, bệnh hoạn, suy dinh dưỡng do
thiếu ăn…
Tù
khổ sai không bị hành hạ, khủng bố tinh thần nhưng người "học tập cải
tạo" thường xuyên chịu sự trừng phạt này. Đó là biện pháp "tẩy não"
thường thấy ở các nước cộng sản. Hệ quả tuy không để dấu vết trên da
thịt, nhưng những vết hằn tâm lý đến chết cũng không lành lặn được.
Trên
phương diện pháp lý, những người này không được xếp vào loại "tù binh"
hay "hàng binh" để được đối xử theo các công ước quốc tế. Họ cũng không
phải là "tù nhân". Họ không hề bị kết án trước bất kỳ một tòa án nào.
Những
người cộng sản Việt Nam kết tội thành phần quân nhân, cán chính Việt
Nam Cộng Hòa là những người "có tội với nhân dân". Bây giờ nhìn lại,
"tội với nhân dân" đó là tội gì ? Nếu xem hai bên Việt Nam Cộng Hòa và
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là "hai quốc gia độc lập, có chủ quyền", thì
cuộc chiến đó phía Việt Nam Cộng Hòa có chính nghĩa là "tự vệ chính
đáng". Luật nào kết tội người "tự vệ chính đáng" là có tội ? Không có
luật nào cả !
Nếu
đó là cuộc "nội chiến", thì cuộc nội chiến Việt Nam giống trường hợp
phân chia Nam, Bắc Hàn. Phe nào đúng phe nào sai ? ai chính ai ngụy ?
Ngạn
ngữ phương đông có câu "không đánh người ngã ngựa". Trong một cuộc
chiến, có bên thắng bên bại. Không ai giết người ngã ngựa hết cả. Những
người cộng sản Việt Nam chủ trương "nhổ cỏ tận gốc". Họ không chỉ trả
thù lên những thành phần cấu thành bộ máy Việt Nam Cộng Hòa, mà còn trả
thù lên những thân nhân của họ. Thậm chí, toàn bộ người dân Việt Nam
Cộng Hòa cũng bị trả thù, nhưng qua các hình thức tinh vi hơn. Đến hôm
nay "vùng trũng giáo dục" là Đồng bằng sông Cửu Long là thí dụ về chính
sách phân biệt trong giáo dục.
Biện
pháp "học tập cải tạo" là một hình thức trả thù hết sức hiểm độc. Vì nó
không để lại bằng chứng, dấu vết để sau này người ta có thể cáo buộc
thành tội "tội ác chiến tranh".
Trong
một cuộc nội chiến, những tàn phá về vật chất có thể xây dựng lại nhanh
chóng. Nhưng tàn phá về tinh thần, đến từ sự khác biệt "ý thức hệ", sẽ
không bao giờ hàn gắn nếu không có nỗ lực "hòa giải" ở cấp quốc gia.
Sau
30/4/1975, ta thường nghe các khẩu hiệu "hòa hợp dân tộc", "đoàn kết
dân tộc"... Không hề nghe đến từ "hòa giải". Những khẩu hiệu đó thực ra
chỉ nhằm che dấu, trước hết là một sự trả thù, sau đó là một sự cưỡng ép
"sống chung" giữa phía thua và phe chiến thắng.
Người ta ngộ nhận giữa "hòa giải dân tộc" với "hòa hợp dân tộc" hay "đoàn kết dân tộc.
Vấn
đề là không hòa giải trước thì làm sao hòa hợp ? Hai vợ chồng gượng ép
chung sống với nhau, gọi là "hòa hợp" nhưng đồng sàng dị mộng. Họ sẽ
không bao giờ có được hạnh phúc. Trong một quốc gia, mâu thuẫn giữa
những người lãnh đạo và thành phần dân chúng bị trị ngày càng đào sâu.
Nhà nước luôn giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội bằng cách thúc đẩy
một thành phần dân tộc này chống lại thành phần dân tộc kia. Mâu thuẫn
này chồng chất lên mâu thuẫn kia. Xã hội lâu ngày trở thành một lò áp
suất mà hành vi của nhà nước là đưa cũi thêm vào trong lò.
Một
trong những hệ quả thấy được của "hòa giải quốc gia" là nhìn nhận sự
bình đẳng về "quyền" giữa các thành phần trong khối dân tộc. Một thí dụ
tiêu biểu thành công của "hòa giải quốc gia", trường hợp thống nhứt hai
miền nước Đức. Bà Angela Merkel, một phụ nữ Đông Đức, được hấp thụ nền
giáo dục của cộng sản, nhưng sau khi đất nước thống nhứt lại được dân
chúng tín nhiệm để lãnh đạo nước Đức. Đến nay vẫn có người chỉ trích
rằng Tây Đức sẽ không "gánh" nổi Đông Đức, vì chi phí cho việc thống
nhứt sẽ rất lớn (nhiều ngàn tỉ đô la). Việc thống nhứt sẽ chỉ làm cho
nước Đức kiệt quệ và suy thoái. Điều này đã không xảy ra. Nước Đức thống
nhứt không hề gặp suy thoái, ngược lại, nước này trở thành đầu tàu phát
triển của Châu Âu. Thử hình dung và so sánh trường hợp nước Đức với
Việt Nam. Ta chưa hề thấy một người xuất thân từ miền Nam, không cộng
sản, lên làm lãnh đạo một huyện nhỏ, chứ đừng nói việc lãnh đạo đất
nước.
Một
quốc gia bị chia rẽ trong một thời gian dài do chiến tranh, do xung đột
ý thức hệ, sẽ không bao giờ là một quốc gia "thành công" nếu không qua
quá trình "hòa giải quốc gia" để hàn gắn trước những đổ vỡ.
Hòa
hợp gượng ép, như hai vợ chồng đồng sàng dị mộng, sẽ không bao giờ xây
dựng được một cái gì dài lâu, bền vững. Kết quả sẽ là tan vỡ mà thôi.
Tháng giêng 2012
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb. Nhantuan.truong, 28/08/2017