Với Sự Gia Tăng Nhà Máy Nhiệt Điện Đốt Than, Tương Lai Việt Nam Rất Khủng Khiếp

Việt Nam tăng gấp đôi các nhà máy nhiệt điện đốt than, bất chấp cảnh báo nghiên cứu gần đây về các thiệt hại to lớn lên môi trường.




Ngày 12/1/2017, trên tạp chí Khoa học, Công nghệ & Môi trường đã công bố một nghiên cứu của các nhà khoa học đến từ Đại học Harvard, Greenpeace, và trường Đại học Colorado Boulder có tiêu đề "Gánh nặng của căn bệnh từ việc tăng khí thải của các Nhà máy nhiệt điện đốt than trong khu vực Đông Nam Á." Dựa trên số liệu chính thức được cài đặt dự đoán của các nhà máy nhiệt điện đốt than ở khu vực Đông Nam Á và mô hình hóa sự vận chuyển không khí, nhóm nghiên cứu đã trình bày một bức tranh ảm đạm của ô nhiễm không khí trong khu vực do luồng khí thải từ các nhà máy nhiệt điện đốt than gây ra.

Theo nghiên cứu này, đến năm 2030 Việt Nam sẽ là quốc gia ASEAN bị ảnh hưởng NGHIÊM TRỌNG NHẤT DO tình trạng ô nhiễm than, với tỷ lệ tử vong trẻ do lượng khí thải từ các nhà máy than đá, với tỉ lệ vượt hơn 188,8 người chết trên một triệu người. Tỉ lệ này cao hơn đáng kể so với Indonesia, là nước thứ hai bị ảnh hưởng nặng trong khu vực, hơn 85,4 người chết/triệu dân. Trong tổng số, người ta ước tính rằng sẽ có hơn 20.000 ca tử vong mỗi năm vào năm 2030 tại Việt Nam do ô nhiễm than, hoặc tăng gấp 5 lần con số được tính toán của năm 2011. Tai nạn giao thông, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu không tự nhiên ở Việt Nam, có tỷ lệ tử vong trung bình vượt hơn 106 tử vong/triệu người trong vòng 5 năm qua.

Trong thực tế, than sẽ thay thế thủy điện, là nguồn điện chính tại Việt Nam vào đầu năm 2020, và đến năm 2030 nhà máy nhiệt đốt than sẽ tạo ra hơn một nửa tổng sản lượng điện của cả nước.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh tại buổi làm việc với Điện lực, rằng nhà nước cần phải chú ý đến các khía cạnh môi trường của các dự án nhiệt điện mới và cần xem xét những bài học được rút ra từ các sự cố ô nhiễm công nghiệp gần đây. Ngoài vụ thải hóa chất tai tiếng gây ra bởi công ty thép Formosa, còn có trường hợp gây ô nhiễm không khí và biển từ nhà máy nhiệt điện than của Vĩnh Tân. Các chuyên gia Việt Nam cũng đã lên tiếng quan ngại về thực tế là nhiều nhà máy điện đốt than ĐƯỢC TRANG BỊ CÔNG NGHỆ LẠC HẬU, KÉM HIỆU QUẢ và GÂY Ô NHIỄM đến từ Trung Quốc, có thể là đầu tư giá rẻ trong ngắn hạn nhưng sẽ gây tác động rất lớn đối với cộng đồng và môi trường địa phương trong tương lai.

Với sự suy giảm của thủy điện và khả năng hạn chế trong năng lượng tái tạo của một đất nước có mật độ dân số cao và hệ thống đường dây điện còn sơ sài, ngân sách hạn chế của chính phủ Việt Nam thực sự không có nhiều sự lựa chọn khác cho kế hoạch phát triển năng lượng ngoài than đá và khí đốt tự nhiên. Tuy nhiên, bất luận sự hạn chế của nguồn lực nhà nước đến đâu, sự ưu tiên của các kế hoạch nghị sự chính trị phải là PHÚC LỢI CỦA NHÂN DÂN, ai sẽ là người đầu tiên bị ảnh hưởng từ ô nhiễm than.

Có câu nói: "Thà muộn còn hơn là không". Đây có lẽ là thời gian cho những người có quyền quyết định cho Việt Nam, để loại bỏ các nhà máy điện đốt than dơ bẩn và khám phá ra các lựa chọn an toàn hơn tạo ra nguồn điện.

Mai V. Pham Chuyển dịch từ:
Xin xem thêm về hệ quả của nhà máy nhiệt điện đốt than đối với môi trường trên báo Thanh Niên:

http://thanhnien.vn/kinh-doanh/nhiet-dien-than-da-het-thoi-736133.html

NHIỆT ĐIỆN THAN ĐÃ HẾT THỜI

Nhiều quốc gia trên thế giới đóng cửa dần các nhà máy nhiệt điện đốt than để tránh tàn phá môi trường, thay vào đó tập trung khai thác triệt để năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió, điện sinh khối, điện rác, điện địa nhiệt, điện thủy triều. Trong khi đó, tại VN các nhà máy nhiệt điện không ngừng được xây dựng.

Mới nhất là quy hoạch dự án Nhà máy nhiệt điện than Long An I, do Tập đoàn Daewoo E&C (Hàn Quốc) triển khai, có công suất 1.320 MW, vốn đầu tư khoảng 2,7 tỉ USD, theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT).

Cái cần bây giờ là phát triển các nguồn khác và sử dụng điện phải tiết kiệm. Đầu tư vào tiết kiệm điện chưa chắc đã tốn kém hơn xây dựng nhà máy chạy than mới.

Nhiệt điện, ngoài vấn đề đem lại nguồn lợi cho GDP của Long An nhưng tác hại của nó thấy rõ nhất về môi trường và rủi ro về nguồn nhiên liệu.

Dự án nhiệt điện Long An dự kiến dùng than nhập từ Indonesia hoặc từ Úc vì các nguồn khác đã hết, nhưng nhập than từ Indonesia có lẽ là phương án rẻ tiền nhất. Với công suất của Long An trong tương lai thì một giờ đốt cũng khoảng 600 tấn than, do đó thải ra khoảng 120 tấn tro, cả tro bay và xỉ thải. Việc xử lý được khối lượng chất thải như vậy sẽ là một vấn đề lớn. Chưa kể một trung tâm nhiệt điện như vậy cũng cần cảng chuyên chở nhiên liệu lớn để cung cấp cho nhà máy.

Nhiệt điện đốt than thì vấn đề ô nhiễm khí thải là quan trọng nhất. Với lượng nhiên liệu đốt khổng lồ như vậy, hiện nay các nhà máy đều có các bộ khử bụi tĩnh điện lọc được khoảng 99% lượng bụi thải và nhìn chung bụi thải là có thể xử lý được. Tuy nhiên, trong một số trường hợp như ở Nhà máy điện Hải Phòng phải đốt dầu kèm khi phụ tải thấp thì lọc bụi tĩnh điện hoạt động kém hiệu quả và cũng có gây ô nhiễm môi trường, nhất là khi doanh nghiệp gian lận không cho máy lọc bụi tĩnh điện hoạt động để tiết kiệm tiền.

Vấn đề thứ hai là khử SOx và NOx. Các bộ khử (các hệ thống xử lý) này thường có chi phí khá cao, làm tăng chi phí đầu vào cho nhà máy. Trong một số trường hợp thì nhà máy có thể có trang bị các bộ này nhưng không cho vận hành vì gây trở lực lớn cho quạt. Các nước phát triển luôn có trang thiết bị đo và dẫn tín hiệu đến trung tâm quan sát môi trường độc lập. Nhưng VN nhìn chung phụ thuộc vào thiết bị đo do nhà máy trang bị. Điều này dẫn đến những rủi ro về phát thải SOx và NOx với khối lượng lớn gây mưa a xít.

Đối với nhiệt điện than, cần phải xác định nguồn nhiên liệu trước khi thiết kế nhà máy, bởi lẽ việc thay đổi loại nhiên liệu sẽ khiến lò hơi vận hành kém hiệu quả. Nhìn chung, than nhập khẩu sẽ tốt hơn than trong nước do than trong nước là loại antraxit có nhiều tro, khó bốc cháy, lâu cháy kiệt, hàm lượng carbon còn lại trong tro khá cao nên khó sử dụng tro bay làm phụ gia xi măng. Nếu dùng than nhập khẩu thì có thể lựa chọn loại than có hàm lượng tro ít, dễ bốc cháy và cháy kiệt hơn nên tro thải ra có thể sử dụng ngay làm phụ gia xi măng. Khi đó, lượng xỉ thải có thể giải quyết dễ dàng hơn nhiều. Tuy nhiên, than nhập khẩu thì khó chủ động với số lượng lớn, hoạt động lâu dài. Nhìn chung các nước thường mua cả mỏ của nước có nguồn nguyên liệu để có thể ổn định vận hành. VN chưa làm được điều đó nên nguồn cung cấp nhiên liệu ổn định sẽ là vấn đề rủi ro lớn.

Các nhà máy nhiệt điện chỉ được quy hoạch bãi thải xỉ với công suất chứa đủ trong 2 năm, sau đó phải tính chuyện sử dụng để giảm lượng chứa thải. Vậy nên tro bay là một vấn đề nghiêm trọng rất khó xử lý.

Long An cách TP.HCM có 30 km mà một trung tâm nhiệt điện lớn như vậy thì cũng rất đáng ngại cho sự phát triển tương lai. Cho dù cố gắng áp dụng những công nghệ mới nhất, nhưng với quy mô lớn như vậy thì lượng phát thải dẫu giảm được cũng vẫn ảnh hưởng không nhỏ tới thành phố. Các nhà máy công nghiệp nhỏ thì có thể di dời khi thành phố cần trong sạch hơn, nhưng nhà máy nhiệt điện thì quá lớn để tính chuyện di dời khi thấy không thích hợp.

Bài học từ Hàn Quốc

Công nghiệp điện đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nhanh chóng của Hàn Quốc, và điện đã trở thành nhân tố đặc biệt quan trọng duy trì sự giàu có của người dân Hàn Quốc. Có 4 loại nhà máy điện (thủy điện, nhiên liệu hóa thạch, hạt nhân và non-utility) trong nền kinh tế Hàn Quốc những năm 1985 tới 1998.

Theo thông tin từ Hãng tin CNBC (7.2016), Hàn Quốc sẽ đóng cửa 10 nhà máy điện than cũ vào năm 2025 và có kế hoạch đầu tư 37 tỉ USD cho năng lượng tái tạo, nhằm thực hiện kế hoạch cắt giảm lượng bụi than.

Tại Hàn Quốc, nhà máy nhiên liệu đốt than được biết là một trong những nguồn chính gây ra ô nhiễm thủy ngân. Thủy ngân hiện tại được xem là vấn đề quan trọng trong quản lý ô nhiễm trên toàn thế giới. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng quản lý ô nhiễm thủy ngân vẫn chưa có một công nghệ thích hợp. Theo như đánh giá, có khoảng 46 tấn thủy ngân phát thải tại Hàn Quốc năm 2000 và 84% trong số đó là bởi các trạm đốt điện than.

Ở VN, vấn đề năng lượng sạch cũng đã có nhiều người bàn đến từ 50 - 60 năm nay rồi, nhưng phần lớn chỉ trên lý thuyết. Gần đây, đã có nhiều dự án đã hoàn thành về năng lượng gió ở phía nam và vài đảo. Năng lượng mặt trời thì cũng đã có nhiều nơi làm nhưng mới chú trọng đến đun nước tắm, công suất nhỏ và đắt. Hạn chế lớn nhất là đầu tư cho một đơn vị năng lượng mới (năng lượng gió) còn khá cao.

Than "đã hết thời rồi", trữ lượng không còn bao nhiêu, khai thác ngày càng khó. Nước ta đã phải nhập khẩu than và lượng nhập khẩu ngày càng nhiều, giá ngày càng đắt. Đó là chưa nói đến tác động xấu đến môi trường, và quan trọng hơn là đi ngược trào lưu thế giới. Cái cần bây giờ là phát triển các nguồn khác và sử dụng điện phải tiết kiệm. Đầu tư vào tiết kiệm điện chưa chắc đã tốn kém hơn xây dựng nhà máy chạy than mới.