Việt Nam sẽ sớm trở thành ‘siêu quốc gia’? (Một Thế Giới)
Cách tổ chức xã hội-chính trị
Việt Nam có tính khai phóng không? Có đủ sức mời gọi sự góp sức của số
đông các thành phần dân chúng không? Có đủ sức thúc đẩy tinh thần sáng
tạo để phát triển không?
Theo Ictnews, tại
cuộc Gặp gỡ đầu năm ngành Công nghệ Thông tin do Sở TT-TT TP.HCM tổ chức
vào đầu xuân năm ngoái (11.3.2016), GS.TS Đặng Lương Mô phát biểu rằng
“Việt Nam có thể trở thành một siêu quốc gia (supernation). Nếu không
đạt được các điều kiện để trở thành siêu quốc gia trong 10-20 năm nữa,
cơ hội cho Việt Nam những năm sau đó sẽ rất khó”. Nhân dịp đầu năm mới
2017, tôi muốn trở lại vấn đề này.
Dù gọi GS.TS. Đặng Lương Mô là
anh, ông thuộc thế hệ thầy của tôi. Tôi có dịp làm việc, bàn bạc với
ông về việc phát triển công nghệ cao, và kính trọng tấm lòng ông mong
muốn góp sức cho đất nước mạnh giàu.
Theo GS. Đặng Lương Mô, cần 5 điều kiện để thành một siêu quốc gia:
1) Dân số trên 100 triệu người
2) Có thể tự túc 100% về lương thực
3) Có một nền giáo dục hoàn chỉnh
4) Có một nền công nghiệp hoàn chỉnh
5) Chính trị ổn định, xã hội ổn định
Bài viết này xin được thảo luận về 5
điều kiện nói trên của GS, mà xin thưa trước rằng tôi không lạc quan
như GS. Các ý kiến phân tích và thảo luận dựa trên bài tường thuật của
Ictnews.
Theo tôi thì điều kiện căn bản để
một quốc gia có thể tăng trưởng giàu mạnh và ấm no một cách bền vững là
một nền giáo dục hoàn chỉnh với một dân trí đủ cao. GS. Mô cho rằng
“Việt Nam có thể coi là đã đạt được” một nền giáo dục hoàn chỉnh. Tôi có
thể ít nhiều đồng ý với đánh giá của GS, nhưng chỉ về mặt khoa học tự
nhiên, kỹ thuật.
Chắc nhiều người biết đào tạo một
con người có tri thức về khoa học tự nhiên, về công nghệ kỹ thuật… là
khó, nhưng lại tương đối dễ nếu so sánh với đào tạo một con người biết
cách sống hòa hợp trong một xã hội văn minh hiện đại và hữu hiệu. Tôi
muốn nói tới đào tạo một con người biết cách hành xử theo tiêu chuẩn phổ
quát của xã hội văn minh, có lòng nhân bản yêu thương và tôn trọng con
người, có tinh thần trách nhiệm với cộng đồng, có ý chí tự lập và độc
lập khám phá mọi chân trời tri thức, hiểu rõ cách tổ chức xã hội chính
trị của các nước trên thế giới, hiểu rõ trách nhiệm và quyền làm chủ của
một cá nhân trong xã hội của thời hiện đại đang phẳng hóa rất nhanh…
Và sản phẩm của sự đào tạo đó không
chỉ là một hai cá nhân xuất chúng, mà là cả một xã hội văn minh, có giáo
dục cao, nếu chưa đạt mức được thế giới kính trọng như Nhật Bản thì ít
ra cũng được dân chúng trong nước hài lòng.
Có quá nhiều sự việc khiến nhiều
người không thể cho rằng nền giáo dục Việt Nam là chấp nhận được, trong
số đó có bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước, người phải thốt
lời tâm huyết “Đã đến lúc phải rung lên hồi chuông báo động về vấn đề
giáo dục nhân cách” (http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/nguyen-pho-ctn-nguyen-thi-binh-phai-rung-len-hoi-chuong-bao-dong-ve-giao-duc-nhan-cach-20161221161007134.htm).
Hậu quả là, trong xã hội Việt Nam,
tính trung thực ngày càng bị áp chế, tính không trung thực ngày càng
được khuyến khích. Tính nhân đạo ngày càng bị thu hẹp, các hành động phi
nhân tính ngày càng nhiều hơn và tàn ác hơn. Con người ngày càng ích kỷ
và ngoảnh mặt với cộng đồng. Con người ngày càng ít được tôn trọng.
Kiến thức rộng rãi của thế giới hiện đại khó được tiếp cận và truyền
dạy…
Do đó, tôi không nghĩ như GS Mô rằng
“Việt Nam có thể coi là đã đạt được” “một nền giáo dục hoàn chỉnh”.
Hiện trạng này của nền giáo dục Việt Nam không thúc đẩy dân trí, sẽ có
ảnh hưởng xấu trên việc xây dựng nền công nghiệp hoàn chỉnh và phát
triển nông nghiệp.
Về một nền công nghiệp hoàn chỉnh.
Tôi cũng không cùng hy vọng với GS Mô rằng “Trong nỗ lực đến năm 2020 và
tầm nhìn đến năm 2030” “Việt Nam sẽ đạt được”.
Trước hết là về lịch sử phát triển
kinh tế chung. Việt Nam, sau năm 1975, đã có những cố gắng để nhanh
chóng phát triển ngang bằng với những nước tiến bộ như Anh, Pháp. Bốn
mươi năm đã trôi qua mà nền kinh tế của chúng ta, trên nhiều tiêu chí về
kinh tế và kỹ thuật, hiện nằm trong tốp 4 nước thấp nhất trong khối
ASEAN. Nhớ rằng GDP tổng của các nước ASEAN với dân số khoảng 650 triệu
người chỉ tương đương GDP tổng của nước Pháp có dân số khoảng 65 triệu,
ít hơn 10 lần. Với lịch sử đó, trên nền kinh tế đó, thật khó tin Việt
Nam có thể có “nền công nghiệp hoàn chỉnh” sau 13 năm nữa! Nhất là trong
trường hợp thời cơ thế giới và cả khu vực đang không thuận lợi.
Kế đó là về hiện trạng của nền công
nghiệp. Công nghiệp Việt Nam, với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế
chung, hiện đang ra sao?
Một nền công nghiệp hoàn chỉnh phải
có trụ cột là công nghiệp chế biến chế tạo hùng mạnh. Lãnh vực chế biến
chế tạo của Việt Nam lại rất yếu ớt!
Các ngành công nghiệp chế tạo máy
bay, xe hơi, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp hóa chất… là những ngành
có tính tổng hợp và tác dụng thúc đẩy nhiều ngành công nghiệp khác. Sự
hùng mạnh của các ngành công nghiệp này góp phần quyết định vào sự hùng
mạnh và hoàn chỉnh của nền công nghiệp quốc gia. Các ngành này ở Việt
Nam có chung tính chất là nhỏ lẻ, yếu ớt, chủ yếu lắp ráp và công nghệ
thấp. Một thí dụ về tính nhỏ lẻ này là số xe hơi Việt Nam xuất xưởng
trong năm 2015 chỉ bằng 1/40 của Thái Lan, 1/20 của Indonesia. Đó là chỉ
so sánh với Thái Lan, Indonesia chứ chưa nói tới Brazil, Hàn Quốc. Càng
không dám ngó tới Pháp, Đức, Nhật!
Một nền công nghiệp như thế có thể nói là hoàn chỉnh được chăng? Và chừng nào mới có thể xem là tiến gần tới hoàn chỉnh?
Để ước lượng tốc độ phát triển của
ngành công nghiệp nước ta trong các năm sắp tới, xin cùng nhau đặt các
câu hỏi: Các ngành công nghiệp thật sự có thể cạnh tranh trên thế giới
của Việt Nam là gì? Các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam có kích
thước kinh doanh trung bình là bao nhiêu? Độ lớn của tổng doanh nghiệp
tư nhân trong công nghiệp là bao nhiêu so với doanh nghiệp nhà nước? Có
điều kiện chính trị, xã hội, tài chánh gì cho chúng phát triển? Trả lời
những câu hỏi trên và so sánh với các nước bậc trung như Ba Lan, Hung,
Thái Lan… là chúng ta sẽ tự có một cái nhìn tổng thể.
Về điều kiện tự túc 100% về lương
thực, tôi có thể tạm đồng ý với GS Mô rằng “điều này Việt Nam có thể làm
được” với tài nguyên thiên nhiên nông nghiệp của mình. Tuy nhiên trong
điều kiện hòa bình, dân chúng không chỉ cần và cũng không đồng ý chỉ ăn
cơm no. Họ yêu cầu ăn ngon, ăn bổ, ăn an toàn, có thực phẩm chức năng có
ích…
Tài nguyên thiên nhiên phải có con
người dùng kỹ thuật, công nghệ khai thác. Lại phải có trình độ quản trị,
cấp nhỏ là nhà quản trị sản xuất nhỏ, cấp cao hơn là quản lý công ty,
cấp cao nhất là tổ chức và quản lý xã hội, quốc gia. Nếu không có những
điều đó thì tài nguyên chỉ là tiềm năng và đất nước vẫn chậm phát triển.
Hãy nhìn xem ngành kinh tế lúa gạo của “cường quốc lúa gạo” Việt Nam.
Thuốc bảo vệ thực vật và phân bón giả hay kém chất lượng tràn lan. Giá
lúa trồi sụt thất thường. Thị trường không lành mạnh, thương lái ép giá
nông dân, nông dân và thương lái bẻ kèo nhau. Sân sau của các quan chức
rất nhiều.
Môi trường từng sạch và màu mỡ cho
nông nghiệp nay bị ô nhiễm hay bị đe dọa ô nhiễm tràn lan. Xuất khẩu
phải được Hiệp Hội Lương thực Việt Nam đồng ý, năng suất nông nghiệp
hiện nay cho phép một người sản xuất hiệu quả trên hàng chục hec-ta còn
Việt Nam lại hạn điền 3 hec-ta! Ngoài chợ, thực phẩm không an toàn là
nỗi lo cho người tiêu dùng tầng lớp trung lưu. Tầng lớp này có sẽ là thị
trường của các sản phẩm kém chất lượng so với cam kết hay không? Nền
kinh tế lúa gạo chỉ là một thí dụ, cứ nhìn xem nền kinh tế cá tra, hay
những loại nông sản khác chúng ta đều thấy sự bát nháo, thật giả khó
phân trong đó.
Như vậy, Việt Nam có thể tự túc 100%
về lương thực, nhưng chỉ đủ cung cấp cho một xã hội phát triển thấp,
chứ không đủ cho một xã hội no ấm, phồn vinh, tri thức.
Các phân tích nhanh trên để thấy
rằng trong 5 điều kiện để đất nước thành siêu quốc gia, trên thực tế thì
Việt Nam, ngoài điều kiện dân đông, không có các điều kiện còn lại mà
chỉ có chúng ở dạng tiềm năng.
Làm sao để biến tiềm năng thành hiện
thực? Theo tôi, việc đầu tiên là Việt Nam nên đặt những câu hỏi như sau
để tìm giải pháp tốt:
1) Cách tổ chức xã hội-chính trị
Việt Nam có tính khai phóng không? Có đủ sức mời gọi sự góp sức của số
đông các thành phần dân chúng không? Có đủ sức thúc đẩy tinh thần sáng
tạo để phát triển không?
2) Các giá trị cốt lõi của xã hội có
đủ hữu hiệu để đa số dân chúng sống và làm việc lương thiện, trung
thực, tuân thủ luật pháp, tôn trọng con người, có tinh thần trách nhiệm
với cộng đồng?
3) Sự hữu hiệu của chính quyền và
chính phủ tới đâu trong việc phục vụ đời sống dân chúng, phát triển kinh
tế, bảo đảm an ninh xã hội, bảo vệ nền tự chủ dân tộc?
Các câu hỏi trên cần được đặt ra và
trả lời bởi các chuyên gia độc lập trên nhiều lãnh vực, với một phương
cách khoa học trong sự so sánh với các nước trong tốp 30% trên của thế
giới. Thành quả của trách nhiệm cần được mô tả và định lượng rõ ràng để
có sự đánh giá khách quan.
Như vậy thì mới có thể huy động kiến
thức của dân chúng tìm ra những giải pháp hữu hiệu để cải tiến môi
trường sống và làm việc của đất nước. Các giải pháp đó là căn bản của sự
phát triển quốc gia, căn bản cho việc đạt được các điều kiện của một
siêu quốc gia mà GS Đặng Lương Mô nêu lên.
Trong khi rất tin tưởng vào tiềm
năng của dân tộc và đất nước, việc thiếu các điều kiện căn bản trên
khiến tôi thực lòng lo lắng! Xin kính trình các độc giả cùng GS. Đặng
Lương Mô những dòng chân thành với mong muốn được cùng nhau suy nghĩ…
Lê Học Lãnh Vân