Donald Trump, Quan hệ Mỹ-Trung và Tương lai Việt Nam (Lê Xuân Khoa)
Vì lợi ích chiến lược,
chính phủ Trump cũng sẽ không để cho Việt Nam mất vào tay Trung Quốc và
sẽ tiếp tục tạo điều kiện giúp cho Việt Nam thoát ra khỏi quỹ đạo Bắc
Kinh. Nhưng khác với đường lối nhu nhược của Obama đã khiến Hà Nội có
thể sử dụng xảo thuật đu dây giả vờ để kéo dài chế độ tham nhũng độc
tài, chính phủ Trump sẽ chỉ dành cho Việt Nam những điều kiện dễ dãi về
phát triển kinh tế và quân sự khi Việt Nam chứng tỏ quyết tâm thoát
Trung bằng hành động, với những thay đổi đột phá về cả hai mặt đối nội
và đối ngoại.
Sau khi đắc cử chức vụ Tổng thống thứ 45
của Hoa Kỳ, ông Donald Trump đã có những phát biểu mềm dịu hơn về nhiều
vấn đề đối nội và đối ngoại so với lập trường cứng rắn của ông trong
thời gian tranh cử: bức tường biên giới Mê-hi-cô nay trở thành “hàng
rào”, hơn 11 triệu di dân lậu cần trục xuất nay chỉ còn vài triệu, thỏa
thuận về thay đổi khí hậu, và ngay cả Obamacare, có thể được sửa đổi
thay vì bác bỏ hoàn toàn, cựu đối thủ Hillary Clinton “lưu manh” nay
được gọi là “người tốt” …
Riêng đối với Trung Quốc, Tổng thống tân
cử đã cho thấy thái độ của ông chống chính sách bành trướng của Bắc
Kinh còn quyết liệt hơn nữa. “Giấc mơ Trung Quốc” của Tập Cận Bình nhắm
trở thành siêu cường số một trên thế giới bị Donald Trump ra tay ngăn
chặn, chủ yếu về kinh tế và quân sự. Mặc dù chính sách mới của Hoa Kỳ sẽ
chỉ thể hiện trong 100 ngày đầu của chính phủ mới, những tuyên bố và
hành động của ông Trump trước ngày nhậm chức cũng đủ xác định chiều
hướng chiến lược của Hoa Kỳ trong bốn năm sắp tới.
Nói chung, lập trường cơ bản của tân
Tổng thống Donald Trump là rũ bỏ gánh nặng quốc tế của Hoa Kỳ để chú
trọng tăng cường nội lực, đúng với chủ nghĩa dân túy khi tranh cử là
“Đưa Nước Mỹ Vĩ Đại Trở Lại” (Make America Great Again). Vì chưa biết
lập trường này sẽ thể hiện như thế nào trong thực tế, thời điểm này còn
quá sớm để có thể đánh giá kết quả mà các chính sách có xu hướng biệt
lập của chính quyền Trump sẽ đem lại cho nước Mỹ và thế giới. Bởi vậy,
như đã được giới hạn trong đề tài, bài này sẽ chỉ đề cập đến một vấn đề
quan tâm lớn nhất của mọi người Việt Nam hiện nay là: quan hệ giữa Hoa
Kỳ và Trung Quốc dưới thời Tổng thống Donald Trump sẽ tác động thế nào
đến khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt là đối với vấn đề độc lập
và chủ quyền của Việt Nam và nhu cầu dân chủ hóa chế độ của quốc gia
này. Mức độ hợp tác hay đối đầu trong quan hệ giữa hai siêu cường sẽ
mang tính quyết định đối với vận mệnh tương lai của Việt Nam, vì vậy
đương nhiên phải được những người Việt yêu nước theo dõi sát và dự liệu
những kịch bản có thể xảy ra để chuẩn bị ứng phó thích hợp.
Lập trường chống Trung Quốc của Donald
Trump đã có từ lâu nhưng chỉ được dư luận đặc biệt chú ý sau khi ông trở
thành Tổng thống tân cử. Chưa đầy một tháng sau ngày đắc cử, ông Trump
đã tạo một sự cố ngoại giao khi ông nhận điện đàm với bà Thái Anh Văn,
lãnh đạo Đài Loan, ngày 3 tháng 12, 2016. Hành động này mặc nhiên nhìn
nhận bà Thái Anh Văn là Tổng thống Trung Hoa Dân quốc, trái với nguyên
tắc “Một nước Trung Hoa” vẫn được các Tổng thống Mỹ tôn trọng từ 1979
khi Hoa Kỳ đoạn giao với Đài Loan và chính thức công nhận Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Quốc. Ông Trump đã biện minh cho thái độ chống Trung Quốc của
ông qua những lời tố cáo Bắc Kinh đã lợi dụng tư cách thành viên của Tổ
chức Thương mại Thề giới (WTO) để thi hành những chính sách phá hoại
kinh tế Mỹ, đồng thời đe dọa an ninh toàn thể khu vực Á châu-Thái Bình
Dương, như phá giá đồng nhân dân tệ làm mất sức cạnh tranh của Mỹ trên
thị trường nội địa và quốc tế, đánh thuế nặng vào sản phẩm nhập cảng của
Mỹ vào Trung Quốc, và kiến tạo một hệ thống quân sự khổng lồ ngay giữa
Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).
Trung Quốc và Việt Nam
Tiếp nối tham vọng chinh phục các dân
tộc phương Nam của các triều đại phong kiến từ trên 2000 năm trước, dòng
lãnh đạo cộng sản Trung Quốc từ Mao Trạch Đông đến các hậu duệ của y,
trong gần 70 năm qua, luôn luôn tìm cách thôn tính Việt Nam và đồng hóa
dân tộc Lạc Việt. Tổng Bí Thư Lê Duẩn là người đã tố cáo rõ âm mưu này
của họ Mao từ những năm 1960, nhưng sau Hội nghị Thành Đô năm 1990, nhờ
lòng thần phục tự nguyện của Nguyễn Văn Linh và nhóm bảo thủ, Bắc Kinh
đã có được những điều kiện thuận lợi chưa bao giờ thấy để đạt được tham
vọng lâu đời của Trung Quốc. Ngày nay, Tập Cận Bình là lãnh tụ có quyền
hành lớn nhất và mưu đồ ác độc nhất, quyết thực hiện “Giấc mơ Trung
Quốc” bằng mọi giá. Năm 2013, khi đưa ra chủ thuyết “Trung Quốc Mộng”, y
đã nhấn mạnh rằng “Sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa là giấc mơ
lớn nhất của Trung Quốc”.
Tại Biển Đông, Tập Cận Bình tái khẳng
định bản đồ đường chín đoạn (hay đường lưỡi bò) bao gồm 80 phần trăm
diện tích Biển Đông là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, hung hăng tấn
công tàu tuần duyên và chặn bắt những tàu thuyền đánh cá của Việt Nam,
ngang nhiên đưa giàn khoan dầu Hải Dương 981 vào giữa vùng tranh chấp
biển gần Đà Nẵng, phủ nhận phán quyết của Tòa án Trọng tài Quốc tế về
chủ quyền đường chín đoạn, và quan trọng nhất là gấp rút cải tạo một số
bãi đá và rạn san hô trên quần đảo Trường Sa thành những đảo nổi để sẵn
sàng sử dụng vào mục tiêu quân sự. Gần đây nhất, Trung Quốc lại cướp
giựt một thiết bị lặn không người lái của Mỹ ngay trước mũi hải quân Hoa
Kỳ, nhưng đã phải trả lại.
Việt Nam là nước láng giềng sát nách
Trung Quốc trên bờ Biển Đông với trên 3200 km đường bờ biển không kể các
đảo. Dẫn nguồn thông tin của chính phủ Việt Nam, Wikipedia cho biết,
“Ngoài vùng nội thuỷ, Việt Nam tuyên bố 12 hải lý lãnh hải, thêm 12 hải
lý vùng tiếp giáp lãnh hải, 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và cuối
cùng là thềm lục địa. Diện tích vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000
km² biển Đông.” Vì Việt Nam có tài nguyên biển phong phú và vị trí chiến
lược quan trọng như vậy, các thế hệ lãnh đạo cộng sản Trung Quốc rất
thèm khát chiếm đoạt đất nước này nhưng đã thấy rõ là chỉ khi nào Việt
Nam lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc thì họ mới có điều kiện tốt nhất
để đẩy Hoa Kỳ ra khỏi Biển Đông và kiểm soát các nước ASEAN trong lâu
dài.
Rút kinh nghiệm thất bại của các triều
đình phong kiến ngày trước cùng những cay đắng trong quá trình hợp tác
và giúp đỡ các “đồng chí” cộng sản phía nam (trước thời TBT Nguyễn Văn
Linh), lãnh đạo Bắc Kinh đã khám phá được rằng giống nòi Lạc Việt có một
cái “gien” độc lập đã giúp họ đánh bại mọi cuộc chiến xâm lược và mưu
đồ Hán hóa của Trung Quốc. Ngay cả trong mười thế kỷ bị Trung Quốc đô
hộ, dân tộc Việt đã luôn luôn nổi dậy và năm 938, trận Bạch Đằng của Ngô
Quyền đại phá quân Nam Hán đã chính thức mở đầu kỷ nguyên độc lập của
Việt Nam. Quả thật người Việt chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa phương
Bắc nhưng đó là những ảnh hưởng do họ chọn lựa và thường thêm màu sắc
Việt Nam, lắm khi còn chế riễu sắc thái gốc, nhờ đó họ có thể tồn tại
với cá tính khác biệt. Biết rõ như vậy, cộng sản Trung Quốc nhất định
phải tiêu diệt cái gien độc lập đã hun đúc ý chí và khả năng trỗi dậy
của chủng tộc Việt. Chúng đã thiết lập một kế hoạch vô cùng ác độc để
đạt được mục tiêu này.
Chỉ trong hơn 10 năm qua và chỉ bằng
“sức mạnh mềm”, cộng sản Trung Quốc đã có thể từng bước thực hiện kế
hoạch thôn tính Việt Nam. Về chính trị, qua cơ chế giao lưu hợp tác giữa
hai Ban Đối ngoại và Ban Tuyên giáo của hai Đảng, Trung Quốc thường
xuyên đào tạo cán bộ Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề quản lý đất
nước, thiết lập các viện văn hóa tại Việt Nam và tổ chức những buổi sinh
hoạt hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Ngoài ra, hai bên còn có những
cuộc Hội thảo Lý luận định kỳ và bất thường để trao đổi kinh nghiệm và
phối hợp công tác xây dựng Đảng và Nhà nước. Điều này cho thấy bộ máy
cầm quyền ở Việt Nam chỉ là một phiên bản của mô hình Trung Quốc ở mức
độ nhỏ và đơn giản hơn, và lãnh đạo Trung Quốc đã có ảnh hưởng không nhỏ
đến việc lựa chọn các cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam từ trung ương tới địa
phương. Thật không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy phương châm “16 chữ”
và tinh thần “4 tốt” được Giang Trạch Dân đưa ra trong quan hệ hợp tác
chiến lược toàn diện giữa hai nước đã chỉ được “kiên trì” thực hiện một
chiều từ phía Việt Nam. Sự lệ thuộc vào Trung Quốc về chính trị đã dẫn
đến những hậu quả vô cùng tai hại cho Việt Nam về mọi mặt. Sau đây là
một số bằng chứng hiển nhiên:
- Về chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải, Trung Quốc đã lấn chiếm được nhiều vị trí và diện tích quan trọng trên đất và trên biển của Việt Nam qua Hiệp ước Sửa đổi về Biên giới năm 1993 và Hiệp ước Phân định Vịnh Bắc Bộ năm 2000, không kể những địa điểm đã chiếm đoạt bằng vũ lực ở Hoàng Sa và Trường Sa.
- Về kinh tế, Trung Quốc đã lũng đoạn toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam qua những dự án đầu tư xây dựng và khai thác tài nguyên khổng lồ, như dự án mỏ bô-xít Tây nguyên, khế ước cho thuê dài hạn rừng đầu nguồn, lập vùng định cư riêng cho công nhân và di dân Trung quốc, v.v. Thực phẩm và hàng hóa Trung Quốc nhập lậu tràn ngập qua biên giới giết chết nhiều sản phẩm nội địa của Việt Nam.
- Về văn hóa giáo dục, Trung quốc thiết lập các Viện Khổng tử và đưa chương trình học chữ Hán vào các trường phổ thông, cắt bỏ môn học lịch sử, nhất là những sự kiện về hành động xâm lược và tội ác của chính quyền Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam.
- Về an ninh quốc phòng, Trung Quốc đã thiết lập được những cứ điểm và tuyến giao thông chiến lược quan trọng trong nội địa Việt Nam, thuận lợi cho những cuộc hành quân xâm lược và chống nổi dậy khi cần thiết.
- Về sức khỏe và môi trường, Trung Quốc đã đưa vào Việt Nam những thực phẩm và thuốc men nhiễm độc, gây nhiều bệnh nan y làm suy nhược cái “gien độc lập” và hủy diệt khả năng trỗi dậy của chủng tộc Việt. Trong kế hoạch lâu dài, chúng đã xây cất một chuỗi đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong và giúp cho Thái, Lào, Cam-bốt xây đập hay rẽ nước ở giữa nguồn nhằm hạn chế lượng nước, cá và phù sa chuyển xuống Đồng bằng sông Cửu Long, nơi cung cấp các sản phẩm nông nghiệp và ngư nghiệp quan trọng nhất của Việt Nam. Từ nhiều năm qua, ĐBSCL đã phải hứng chịu nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng vì là chặng cuối cùng của dòng sông Mekong trước khi đổ ra biển.
Hoa Kỳ và Việt Nam
Tháng 11 năm 1976, chỉ ba tháng sau khi
đắc cử, Tổng thống Jimmy Carter đã tạo cơ hội hòa giải và thiết lập quan
hệ ngoại giao với CHXHCN Việt Nam vì Hoa Kỳ đã tiên liệu được ý đồ bành
trướng của Trung Quốc trong khu vực Đông Nam Á. Chẳng may các lãnh đạo
cộng sản Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội này vì đặt điều kiện tiên quyết là Mỹ
phải bồi thường chiến tranh mặc dù chính họ đã xé bỏ hiệp định hòa bình
Paris năm 1973. Chỉ đến khi nhận ra sai lầm vì đã lỡ thần phục Trung
Quốc tại hội nghị Thành Đô năm 1990, lãnh đạo Hà Nội mới trở lại điều
đình với Mỹ với hi vọng quan hệ bình thường Việt-Mỹ sẽ giúp cho họ khỏi
bị trói buộc vào quỹ đạo Bắc Kinh. Mãi tới 1994, Hoa Kỳ mới bãi bỏ cấm
vận Việt Nam và một năm sau, hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại
giao và thương mại.
Cũng bắt đầu từ 1995, Hà Nội thi hành
chính sách đu dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, cân bằng quan hệ với mỗi
nước trên cơ sở “đôi bên cùng có lợi”. Trên thực tế, dù có bị áp lực hay
không, Việt Nam cũng đã ngả nhiều hơn về phía Trung Quốc, không chỉ vì
những ràng buộc ý thức hệ giữa hai Đảng mà còn vì nhu cầu duy trì chế độ
độc tài để vơ vét của cải do vô số cơ hội tham nhũng và bóc lột nhân
dân. Hoa Kỳ biết rõ điều này nhưng vẫn kiên nhẫn phát triển quan hệ hợp
tác toàn diện với Việt Nam, chủ yếu là thương mại, an ninh và quốc
phòng. Ngoài ra còn có những chương trình trợ giúp nhân đạo, chuyển giao
công nghệ và giáo dục đào tạo. Những cơ hội hợp tác và giao lưu thường
xuyên giữa các giới nhân dân hai nước trong lâu dài sẽ đem lại một tầng
lớp trí thức tiến bộ và một xã hội công dân có ý thức về quyền con người
và lợi ích của chế độ dân chủ. Đó là tiến trình đổi mới chính trị một
cách tự nhiên và có trật tự trong một xã hội ổn định. Cộng sản Việt Nam
thấy rõ đây là nguy cơ “diễn biến hòa bình” nên đã ra sức ngăn chặn
tiến trình này.
Khác với chính sách ngoại giao của Trung
Quốc đối với Việt Nam có tính cách chỉ huy và áp đặt, chính sách của
Hoa Kỳ có tính cách khích lệ và tôn trọng tư cách độc lập của Việt Nam.
Những lời cam kết long trọng của Tổng thống Obama ở Washington và những
vần thơ lẩy Kiều đầy tình cảm của ông ở Hà Nội không thể nào thấy được
một nét tương đương trong ngôn ngữ đàn anh của Tập Cận Bình đối với các
lãnh đạo Việt Nam, chỉ nhắc nhở đến nhàm tai là phải “kiên trì thực hiện
16 chữ và 4 tốt”. Chủ tịch Trung Quốc đã không ngần ngại hạ nhục Tổng
Bí Thư Nguyễn Phú Trọng khi từ chối trả lời đường giây “điện thoại đỏ”
mà ông Trọng đã sử dụng khẩn cấp nhiều lần để xin sang Bắc Kinh tìm cách
giải quyết vụ giàn khoan Hải Dương 981. Mặt khác, cũng phải khách quan
nhìn nhận rằng Hoa Kỳ đã có chính sách chiều chuộng và kiên nhẫn rất
khác thường đối với cộng sản Việt Nam, không hẳn vì nước Mỹ có thói quen
đối xử bình đẳng và dân chủ trong quan hệ quốc tế. Lý do không phải vì
Hoa Kỳ có thiện cảm đặc biệt với CHXHCN Việt Nam mà chính vì Hoa Kỳ muốn
có sự hợp tác của Việt Nam trong chiến lược ngăn chặn Trung Quốc thống
lĩnh Biển Đông và kiểm soát toàn thể khu vực. Mục tiêu này nằm trong
chiến lược mang tên “Xoay trục sang châu Á” và chiến lược này chỉ thành
công mỹ mãn nếu Việt Nam thật tình chọn con đường “thoát Trung”.
Tới đây, một câu hỏi quan trọng được
đặt ra là Chiến lược “Xoay trục sang châu Á” trong đó Việt Nam cần được
Hoa Kỳ khuyến khích thoát Trung sẽ được Tổng thống tân cử Donald Trump
xử lý ra sao? Bác bỏ hoàn toàn hay sửa đổi cho thực tế và hữu hiệu hơn?
Trước khi tìm câu trả lời cho câu hỏi
này, cần ghi nhận vài nét chính của chiến lược “Pivot to Asia” được cựu
Ngoại trưởng Hillary Clinton trình bày rành mạch trong bài “America’s
Pacific Century” (Thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ) trên tạp chí Foreign
Policy tháng 10, 2011. Bà Clinton nhấn mạnh vào điều kiện địa-chính trị
quan trọng của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, trải rộng từ tiểu lục
địa Ấn độ đến bờ biển miền Tây nước Mỹ, bắc qua hai Đại dương, và là nơi
sinh sống của gần một nửa dân số trên thế giới với trị giá lưu lượng
thương mại hàng năm qua Biển Đông lên tới hơn 5 ngàn tỉ đô-la. Hillary
dự kiến trong mười năm tới, Hoa Kỳ phải khôn ngoan chọn lựa những quốc
gia thích hợp trong khu vực để đầu tư có thực chất về mọi mặt gồm cả
ngoại giao, kinh tế và chiến lược, nhằm duy trì vai trò lãnh đạo và đảm
bảo lợi ích chung của Hoa Kỳ và các quốc gia đối tác. Chiến lược này rõ
ràng nhắm vào Trung Quốc, không chỉ ngăn chặn tham vọng bá quyền của
lãnh đạo Bắc Kinh mà còn làm suy yếu khả năng cạnh tranh và làm chậm lại
đà phát triển của họ. Một công cụ được đánh giá là tối cần thiết để
giúp cho chiến lược “Xoay trục sang châu Á’ được thành công là Hiệp định
Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà chính quyền Obama đã bỏ ra nhiều
năm đàm phán với 11 quốc gia trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và đã
đạt được thỏa thuận cuối cùng vào tháng 10, 2015. Hiệp định này cần
được Quốc hội các nước thành viên phê chuẩn trước khi có hiệu lực thi
hành năm 2018. Cho đến ngày bầu cử Tổng thống tháng 11, 2016, Quốc Hội
Mỹ vẫn chưa đưa TPP ra thảo luận và số phận của hiệp định này hiện nay
được kể như đã bị Hoa Kỳ khai tử.
Trump và quan hệ Mỹ-Trung
Với chủ trương “America First” (Nước Mỹ
trước hết), Tổng thống tân cử Donald Trump đã cho thấy cơ bản về chính
sách đối ngoại của Mỹ là chống tự do mậu dịch trong xu thế toàn cầu hóa,
cắt giảm các chương trình hợp tác và giúp đỡ quốc tế để gia tăng sức
mạnh kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, như thực tế đã cho thấy,
sau khi đắc cử ông Trump đã tỏ ra uyển chuyển hơn về nhiều mặt ngoại trừ
quyết tâm ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc. Ông đã tham khảo với
Henry Kissinger, kiến trúc sư của chính sách Trung Quốc từ thời Tổng
thống Nixon, tìm hiểu kinh nghiệm hợp tác với Bắc Kinh để cùng phát
triển trong hòa bình, trong khi ông vẫn giữ vững lập trường coi Trung
Quốc là mối đe dọa lớn nhất đối với nền kinh tế và an ninh quốc phòng
của Mỹ. Bởi vậy, Trump đã có cả một đội ngũ cao thủ chống Trung Quốc
tham gia chính quyền mới như Peter Navarro, Wilbur Ross, Michael Flynn,
James Mattis làm việc sát cánh với ông để định hình chiến lược đối phó
với mối họa Trung Quốc.
Nhưng ngăn ngừa Trung Quốc không có
nghĩa là đối đầu với nguy cơ dẫn đến chiến tranh. Thái độ cứng rắn của
Trump là một tín hiệu cảnh báo lãnh đạo Bắc Kinh rằng họ đã quá lộng
hành trong quan hệ quốc tế, tiếp tục phá hoại kinh tế Mỹ bằng chính sách
lũng đoạn tiền tệ và mậu dịch, ngang ngược đòi quyền làm chủ Biển Đông
và có những hành động đe dọa an ninh khu vực. Về phía Trung Quốc, dù rất
tức giận trước cuộc điện thoại bất ngờ của ông Trump với “Tổng thống”
Đài Loan Thái Anh Văn, và dù cũng cảnh báo lại Hoa Kỳ rằng việc phủ nhận
nguyên tắc “Một nước Trung Hoa” là một hành động phiêu lưu nguy hiểm,
lãnh đạo Bắc Kinh vẫn tỏ ra thận trọng và nhấn mạnh rằng “Hợp tác kinh
tế và chính trị không chỉ quan trọng cho hòa bình và thịnh vượng của hai
nước mà còn cho cả toàn cầu.”
Như vậy, trong khi Hoa Kỳ và Trung Quốc
đều khẳng định lập trường cứng rắn của mình, không bên nào muốn có chiến
tranh và vẫn để ngỏ cơ hội cho các nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình.
Về phần ông Trump, ngay cả khi trả lời những chỉ trích về cuộc điện đàm
với bà Thái Anh Văn, , ông đã không dứt khoát phủ nhận nguyên tắc “Một
nước Trung Hoa” trong lời tuyên bố với Fox News: “Tôi hoàn toàn hiểu
chính sách “Một nước Trung Hoa” nhưng tôi không hiểu tại sao chúng ta
phải bị ràng buộc bởi chính sách đó trừ phi chúng ta thương lượng với họ liên quan đến nhiều chuyện khác, bao gồm thương mại.”
Theo ý kiến ấy, Washington và Bắc Kinh sẽ phải có những cuộc hội đàm
nghiêm túc với ý muốn thương lượng, và giải pháp hòa bình sẽ đạt được
khi cà hai bên đều tương đối thỏa mãn với kết quả nhân nhượng lẫn nhau.
Trong tương quan lực lượng hiện nay, Hoa Kỳ vẫn là siêu cường số 1, do
đó nếu thật sự không muốn có chiến tranh, Trung Quốc sẽ phải chịu nhân
nhượng nhiều hơn. Nói cụ thể, Trung Quốc sẽ phải chấm dứt các hành động
xâm phạm lợi ích của nước Mỹ, ngưng đe dọa an ninh và hòa bình trong khu
vực Châu Á-Thái Bình Dương. Đổi lại, Trung Quốc sẽ được chia sẻ quyền
sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển trong khu vực, thiết lập
hoặc tham gia các chương trình phát triển chung và giải quyết tranh chấp
về chủ quyền biển đảo với các nước liên quan trên cơ sở luật pháp quốc
tế và Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) đang chờ đợi được hoàn tất.
Đây là giải pháp lý tưởng mà ông Trump có thể đem lại cho nước Mỹ và các
nước trong khu vực.
Trong tình thế hiện nay, giải pháp này
là một viễn tượng lạc quan, một giả định hợp với logic nhung không dễ
đạt được vì Trung quốc đang chiếm nhiều lợi thế trong khu vực và đang
khai thác tình trạng hoang mang của khối ASEAN trước mối lo bị Mỹ bỏ rơi
và tương lai đen tối của hiệp định TPP. Hơn nữa, Trung Quốc đã hoàn tất
cải tạo phi pháp bảy hòn đảo ở Trường Sa mà chính ông Trump đã phải
nhìn nhận là “chuyện đã rồi”. Thực tế là Bắc Kinh đang “nắn gân” vị tổng
thống tân cử Mỹ và chưa thể biết ông Trump sẽ phản ứng ra sao.
Nhưng nếu giả định trên đây về quan hệ
Mỹ-Trung có khả năng trở thành hiện thực thì đó cũng chính là mục tiêu
của chính quyền Obama trong chiến lược “Xoay trục sang châu Á”, nhưng
khác ở chỗ ông Trump không dùng tên gọi này và nhất là ông đã mau chóng
cho Bắc Kinh thấy rõ thái độ quyết liệt của ông. Khách quan mà nói, Tổng
thống Obama đã quá rụt rè trong việc thực hiện chiến lược “Xoay trục
sang châu Á” mà sau này thường nhẹ nhàng gọi “xoay trục” là “tái cân
bằng”. Chính vì thái độ thiếu cương quyết trước một Trung Quốc hung hăng
lấn tới mà ông Obama đã làm cho các nước trong khu vực không còn mấy
tin tưởng vào những hứa hẹn và cam kết của Hoa Kỳ. Về điểm này, Hillary
Clinton, kiến trúc sư của chiến lược xoay trục sang Châu Á, mới thật sự
có lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc và đã trở thành một chướng
ngại lớn trong con mắt của lãnh đạo Bắc Kinh và một đối tượng bị truyền
thông Trung Quốc đả kích nặng nề.
Chỉ vài sự kiện dưới đây cũng đủ cho
thấy lập trường và thái độ cương quyết của Hillary Clinton đối với Bắc
Kinh và giải thích tại sao giới phân tích chính trị Trung Quốc đã nhận
định rằng chính Clinton chứ không phải Obama là kẻ chủ mưu gây rối ở
Biển Đông, thậm chí Hoàn Cầu Thời Báo đã gọi Hillary là “chính trị gia
bị ghét nhất ở Trung Quốc”:
- Năm 2010, tại Diễn đàn ASEAN về vấn đề Biển Đông, Ngoại trưởng Clinton đã khẳng định quyền tự do hàng hải và tự do tiếp cận với các nước trong khu vực là lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ. Bà nhấn mạnh rằng “đường chín đoạn” mà Trung Quốc tự ý vẽ ra và đòi quyền làm chủ là “bất hợp pháp”. Lời tuyên bố mạnh mẽ này đã làm cho Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì tức giận rời bỏ phòng họp, để lại một lời răn đe các nước ASEAN: “Trung Quốc là một nước lớn và các quốc gia khác đều là nước nhỏ”.
- Năm 2012, ngoại trưởng Clinton chủ trì một phiên họp với ngoại trưởng bốn quốc gia vùng hạ lưu sông Mekong (Việt Nam, Thái Lan, Lào và Cam-bốt) để thảo luận nhu cầu quản lý nguồn nước, nguồn cá và phối hợp các chương trình phát triển bền vững với sự tài trợ của Mỹ và Úc. Hiển nhiên mục đích của Mỹ không chỉ giúp bảo vệ đời sống của 60 triệu dân ở các nước hạ lưu, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam, mà còn gia tăng sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á nhằm cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc. Tiếc rằng sau đó, bà Clinton rời bỏ chức ngoại trưởng trong nhiệm kỳ thứ hai của chính phủ Obama nên “Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong” (LMI) và “Ủy hội sông Mekong” (MRC) bị Trung Quốc tìm cách vô hiệu hóa bằng những thỏa thuận riêng với Thái Lan, Lào và Cam-bốt.
- Theo một thư điện tử được WikiLeaks tiết lộ trong cuộc tranh cử Tổng thống vừa qua, thì trong một phiên họp tại ngân hàng Golden Sachs hồi tháng 10, 2013 bà Clinton cho hay bà đã nói thẳng với đại diện Trung Quốc về chủ quyền Biển Đông rằng “Chúng tôi đã giải phóng và bảo vệ vùng biển này. . . Chúng tôi cũng có thể đòi hỏi cả Thái Bình Dương và chúng tôi có thể gọi đó là Biển Hoa Kỳ, từ bở Tây California chạy suốt cho đến Phi-lip-pin. Các bạn biết không, đối tác của tôi ngồi thẳng cứng và nói, quý vị không thể làm như vậy được. Tôi đáp, chúng tôi cũng có quyền đòi hỏi như quý vị đã làm. Ý tôi muốn nói, quý vị đòi chủ quyền trên các mảnh gốm hay một vài tàu cá đắm ở một rạn san hô nào đó. Quý vị nên biết rằng chúng tôi đã bố trí lại sức mạnh quân sự. Lạy Chúa, chúng tôi đã phát hiện ra Nhật Bản”. (RFI, 10/21/2016)
- Một bản tin AFP dẫn lời phát biểu của ứng cử viên Clinton trong buổi nói chuyện với các công nhân ở tiểu bang Pennsylvania : “Trung Quốc phá giá bất hợp pháp hàng hóa ở thị trường của chúng ta, đánh cắp bí mật thương mại, chơi trò phá giá đồng tiền, sử dụng chính sách không công bằng, bênh vực doanh nghiệp Trung Quốc và phân biệt đối xử với doanh nghiệp Mỹ”. Tuyên bố này của Hillary Clinton không khác gì lời tố cáo của ông Donald Trump về những thủ đoạn phá hoại kinh tế Mỹ của Trung Quốc.
Dù sao, điểm khác biệt cơ bản giữa chính
sách đối ngoại của ông Trump và của Obama/Clinton là rũ bỏ gánh nặng
quốc tế của Hoa Kỳ và chỉ hợp tác song phương với các nước liên quan nếu
những nước này chịu các chi phí về phần họ.
Trump và Tương lai Việt Nam
Các bình luận gia quốc tế đều có chung
nhận định là mặc dù ông Trump chủ trương rút khỏi mọi cam kết quốc tế,
sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Châu Á-Thái Bình Dương vẫn quan trọng hàng
đầu đối với lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ. Đó cũng là quan điểm của Trump
nên ông đã sớm loan báo là sẽ gia tăng ngân sách quốc phòng mặc dù, theo
chuyên gia quân sự Kyle Mizokami, chi tiêu quốc phòng Mỹ hiện gấp hơn
2,5 lần Trung Quốc và khoảng 10 lần Nga. Riêng về hải quân, với lực
lượng gồm 10 tàu sân bay hạt nhân, 10 tàu tấn công đổ bộ cỡ lớn, 22 tuần
dương hạm, 76 khu trục hạm và 52 tàu ngầm tấn công hiện nay, Mỹ đã đủ
sức trở thành cường quốc hải quân thống trị thế giới, nhưng ông Trump
vẫn tuyên bố sẽ tăng tổng số tàu chiến của Mỹ từ 272 lên 350 chiếc. Về
vũ khí nguyên tử, mới ngày 23/12 vừa qua, khi được đài MSNBC hỏi về lời
phát biểu của Tổng thống Nga Putin rằng Nga sẽ tăng cường lực lượng hạt
nhân chiến lược, ông Trump đã trả lời chung cho những nước có bom và hỏa
tiễn với đầu đạn nguyên tử: “Cứ chạy đua vũ trang đi, chúng ta sẽ qua
mặt tất cả về mọi phương diện.”
Trên đây đã nói đến thái độ quyết liệt
của ông Trump chống tham vọng bành trướng của Trung Quốc nhưng ông chấp
nhận sự phát triển của Trung Quốc và sẵn sàng đồng hành với nước này nếu
lãnh đạo của họ không xâm phạm vào lợi ích của Hoa Kỳ. Với chủ trương
đó, chính quyền Trump sẽ không để cho Trung Quốc lộng hành ở Châu Á-Thái
Bình Dương, chiếm quyền làm chủ Biển Đông và loại bỏ quan hệ của Mỹ với
các nước trong khu vực. Như vậy, chính sách xoay trục sang châu Á thật
ra vẫn cần thiết nhưng phải được thực hiện đến nơi đến chốn, chứ không
thể rụt rè như phương cách của ông Obama trong tầm nhìn về một cuộc
chiến tranh lạnh với Trung Quốc. Nhưng để đạt đuợc thành công, chính
sách rũ bỏ gánh nặng quốc tế của ông Trump sẽ phải được áp dụng một cách
linh động tùy theo khả năng của mỗi nước quốc gia đối tác và sẽ có
nhiều rủi ro thất bại nếu đem áp đặt lên các nước ASEAN. Sự thay đổi
chính sách của Mỹ từ hợp tác đa phương sang song phương có hiệu quả thực
tế ra sao vẫn còn được các chiến lược gia tranh luận. Đối với hiệp định
TPP, do lợi ích chiến lược quan trọng của nó về kinh té và chính trị
đối với Hoa Kỳ, nếu ông Trump quyết định rút khỏi TPP mà không thay thế
bằng một phương án có lợi ích chiến lược tương đương, uy tín và sức mạnh
của Hoa Kỳ trong khu vực khó tránh khỏi bị suy sụp. Khoảng trống trong
quan hệ hợp tác giữa Hoa Kỳ và các nước Đông Nam Á sẽ được Trung Quốc
trám vào, nhất là bằng Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực
(RCEP) với 16 nước thành viên mà Trung Quốc là chủ chốt.
Trong các nước ASEAN, Việt Nam đã bị ông
Trump đích danh chỉ trích cùng với Trung Quốc là hai nước đã “cướp”
việc làm của công nhân Mỹ, nhưng thủ phạm chính mà ông nhắm tới vẫn là
Trung Quốc. Chắc chắn Donald Trump cũng nhận thấy Việt Nam cần được tách
ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc, và nhóm chiến lược gia thượng thặng của
ông, dưới sự phối trí của Peter Navarro, sẽ hoàn thành một kế hoạch nhắm
vào mục tiêu ấy. Peter Navarro, giáo sư kinh tế Đại học Irvine, là tác
giả cuốn sách “Chết dưới tay Trung Quốc” (Death by China), có lẽ là
người được ông Trump ngưỡng mộ và tin cậy nhất trong chiến lược đối phó
với Bắc Kinh. (Cuốn sách mới nhất của Navarro là “Crouching Tiger: What
China’s Militarism Means for the World”.) Vì vậy, dù thuộc đảng Dân chủ,
Navarro vẫn được ông Trump mời làm chủ tịch Hội đồng Thương mại Quốc
gia (National Trade Council), một cơ quan mới được thành lập trong chính
phủ Trump, để tăng cường khả năng đối thoại của Đại diện Thương mại Hoa
Kỳ (US Trade Representative). Ngày 20/7/2016, khi còn làm cố vấn cho
ứng cử viên Donald Trump về các vấn đề kinh tế và thương mại, GS Navarro
đã được phóng viên BBC Vincent Ni hỏi về việc liệu dưới chính quyền của
ông Trump, mối quan hệ mà Tổng thống Hoa Kỳ Obama dành cho Việt Nam có
bị thay đổi hay không. Navarro trả lời:
“Chúng tôi chưa thảo luận nội bộ về
vấn đề này. Nhưng tôi không thể tưởng tượng vì sao lại thay đổi. Việt
Nam là một quốc gia quan trọng và tôi chờ đợi các mối quan hệ ấm áp với
Việt Nam và tất cả các quốc gia khác ở châu Á với chính quyền của
Trump.”
Ông nói thêm:
“Ông Trump là một doanh nhân tự do.
Ông ấy hiểu tầm quan trọng của thương mại với phần còn lại của thế giới
về mặt thịnh vượng. Chỉ có điều là phải tiến hành việc đó trên cơ sở
bình đẳng. Việt Nam là một phần của châu Á, quốc gia này đang rời khỏi
Trung Quốc vì đang bị Trung Quốc ‘bắt nạt’.
Lới phát biểu trên đây tuy ngắn gọn cũng
đủ cho thấy Peter Navarro có quan điểm tương đồng với Tổng thống Obama
về chính sách xoay trục sang châu Á, nhất là cũng muốn giúp cho Việt Nam
thoát Trung, nhưng chắc chắn chính phủ Trump sẽ không để cho Việt Nam
tiếp tục lừa dối “nói một đàng làm một nẻo” có lợi cho Trung Quốc. Cùng
với Nhật Bản, một đối thủ đáng gờm của Trung Quốc, Hoa Kỳ sẽ kết hợp với
Ấn độ, Úc (có thể thêm Đại Hàn) để tạo thành một liên minh chiến lược
có lực lượng áp đảo đối với Trung Quốc. Khi đó, các nước ASEAN sẽ trở
lại tin tưởng vững chắc vào Hoa Kỳ và sẽ cố gắng đóng góp phần của mình,
làm giảm bớt gánh nặng quốc tế của Hoa Kỳ. Riêng đối với Việt Nam,
chính phủ Trump sẽ dứt khoát không tiếp tục chính sách kiên nhẫn và
chiều chuộng của Obama trong kỳ vọng là lãnh đạo Hà Nội sẽ thoát khỏi lệ
thuộc vào Trung Quốc. Trong những điều kiện địa-chính trị và liên minh
quân sự mới, Hoa Kỳ sẽ không còn phải trông cậy nhiều vào Việt Nam về
mặt chiến lược và sẵn sàng bỏ rơi Việt Nam nếu lãnh đạo nước này vẫn dựa
vào Trung Quốc và tìm cách kéo dài nguyên trạng để duy trì chế độ độc
tài toàn trị. Chính phủ Trump sẽ chỉ dành cho Việt Nam một số điều kiện
dễ dãi về phát triển kinh tế và quân sự khi Việt Nam chứng tỏ quyết tâm
thoát Trung bằng hành động, với những thay đổi đột phá về cả hai mặt
đối nội và đối ngoại.
Nếu chính phủ Trump có thể tạo được một
tình thế phù hợp với lợi ích của Hoa Kỳ như vậy, lãnh đạo Trung Quốc với
đầu óc thực tế và sở trường về thương thuyết mậu dịch, sẽ chấp thuận từ
bỏ những hành động cạnh tranh xâm phạm đến lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ.
Tại Biển Đông, Trung Quốc sẽ đồng ý tôn trọng quyền tự do hàng hải của
Hoa Kỳ và rút về nhiều vũ khí đã trang bị trên các đảo nhân tạo mới hoàn
tất ở Trường Sa. Trung Quốc cũng sẽ đề nghị với Hoa Kỳ nhiều dự án hợp
tác song phương hấp dẫn mà đôi bên cùng có lợi. Như vậy là các yêu sách
chính của Hoa Kỳ đều được thỏa mãn. Để đổi lại, Trung Quốc chỉ cần Hoa
Kỳ tái xác nhận không can thiệp vào những cuộc tranh chấp chủ quyền biển
đảo giữa Trung Quốc và bốn quốc gia ASEAN là Việt Nam, Phi-líp-pin,
Mã-lai và Brunei. (Vấn đề Đài Loan sẽ được thương lượng riêng.) Trung
Quốc sẽ đàm phán song phương với từng nước có tranh chấp để tìm giải
pháp thích hợp tùy theo điều kiện và khả năng hợp tác của mỗi nước.
Những đề nghị trao đổi trên đây của
Trung Quốc, còn trong vòng giả định, có nhiều khả năng được tân Tổng
thống Hoa Kỳ chấp thuận. Với bản chất của một doanh nhân, Donald Trump
sẽ lãnh đạo quốc gia Hoa Kỳ như một đại công ty, đặt lợi ích thương mại
lên trên hết như ông đã tuyên bố sẵn sàng thương lượng với Bắc Kinh về
thương mại và, trong trường hợp Đài Loan, sẽ không chống đối nguyên tắc
“Một nước Trung Hoa”. Bởi vậy, nếu Trung Quốc cam kết không chỉ chấm dứt
mọi hoạt động cạnh tranh bất chính với Hoa Kỳ mà còn chia sẻ với Hoa Kỳ
nhiều cơ hội phát triển lợi nhuận, ông Trump có thể không ngần ngại
đồng ý cho Trung Quốc giải quyết song phương với bốn nước ASEAN về tranh
chấp chủ quyền trên Biển Đông. Điều này cho thấy, trong trường hợp Đài
Loan, ông Donald Trump có ý sử dụng cuộc điện thoại với bà Thái Anh Văn
làm một nước cờ để Trung Quốc phải nhân nhượng về mậu dịch trong ván bài
thương thuyết về quan hệ hợp tác giữa hai nước. Đài Loan vẫn được Hoa
Kỳ tiếp tục bảo vệ nhưng nguyên tắc “Một nước Trung Hoa” sẽ không thay
đổi. Đến đây thì không thể không nghĩ đến khả năng Trung Quốc sẽ dùng
Việt Nam làm quân cờ trao đổi trong cuộc thương lượng với Hoa Kỳ về giải
pháp hòa bình tại Biển Đông. Nói cụ thể, vì mục tiêu lâu dài, Trung
Quốc sẽ nhân nhượng nhiều lợi ích cho Hoa Kỳ và để đổi lại, chỉ yêu cầu
Hoa Kỳ “trả lại” Việt Nam cho Trung Quốc. Đây là một vấn đề tối quan
trọng cho sự sống còn của dân tộc Việt Nam. Tất cả mọi người Việt Nam
yêu nước cần phải tiên liệu và chuẩn bị những hành động cứu nguy đất
nước để không mang tội với tổ tiên và lịch sử là đã không làm được gì để
ngăn chặn cộng sản Trung Quốc chiếm đoạt giang sơn và hãm hại giống nòi
Lạc Việt.
Việt Nam phải làm gì?
Rõ ràng là đất nước Việt Nam đang lâm
vào một tình thế nguy cấp chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Tình thế
nguy cấp ấy đòi hỏi mọi người Việt thật lòng yêu nước phải chấm dứt mọi
cuộc tranh cãi về quan điểm chính trị hay chống phá lẫn nhau vì ngộ
nhận hay đố kỵ để cùng chung sức thực hiện mục tiêu chung. Vấn đề này
cần được đặt ra cho cả chính quyền lẫn nhân dân trong nước và cho cả
cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Theo lẽ tự nhiên, khi đất nước bị
ngoại bang xâm lược thì chính phủ sẽ lãnh đạo cuộc kháng chiến, hô hào
nhân dân đoàn kết muôn người như một quyết hy sinh xương máu để bảo vệ
tổ quốc. Hội nghị Diên Hồng thời nhà Trần là một điển hình của tinh thần
đoàn kết dân tộc luôn luôn được đời sau nhắc đến để làm gương. Nhưng
nước Việt Nam hiện nay đang ở trong một tình trạng oái oăm là trước hiểm
họa Trung Quốc, chính phủ lại ngăn cấm và đàn áp nhân dân bày tỏ lòng
yêu nước chống nạn Bắc thuộc và Hán hóa. (Xin hãy tìm đọc bài thơ tràn
nước mắt “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?” bởi cô giáo Trần Thị
Lam, đã được phổ nhạc.) Trong mấy thập niên qua, đặc biệt sau hội nghị
Thành Đô 1990, nhiều nhân sĩ và trí thức ở trong và ngoài nước đã nhiều
lần kêu gọi lãnh đạo hãy đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, tập hợp lực
lượng toàn dân vào sứ mệnh ngăn chặn Bắc Kinh đang từng bước thực hiện
kế hoạch sáp nhập Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc. Ngoài nội lực dân
tộc, Việt Nam còn được Hoa Kỳ, các nước trong khu vực và thế giới, vì
nhu cầu an ninh và lợi ích chung, sẵn sàng hỗ trợ thuận lợi cho sự phát
triển sức mạnh kinh tế và an ninh, quốc phòng của Việt Nam. Tuy nhiên,
các chính quyền Việt Nam kế tiếp nhau từ thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh đến Nguyễn Phú Trọng đều kiên trì dựa vào Trung Quốc để bảo vệ chế
độ độc tài, tham nhũng, bác bỏ mọi ý kiến xây dựng và bỏ lỡ bao cơ hội
độc lập và phát triển với hậu thuẫn mạnh mẽ của nhân dân và quốc tế.
Trước tình trạng bi đát đó, từ nhiều năm
qua, cuộc vận động của những người yêu nước đã chuyển sang tranh đấu
mạnh mẽ hơn, vẫn ôn hòa nhưng rõ ràng đối lập với chính quyền. Hai mục
tiêu chung đã được các nhà tranh đấu trong và ngoài nước đồng lòng thực
hiện là “thoát Trung” và “dân chủ/nhân quyền”. Hai mục tiêu này cũng
được nhiều đảng viên cộng sản yêu nước tán thành càng ngày càng đông
hơn, thậm chí TBT Nguyễn Phú Trọng đã liên tiếp báo động nguy cơ “tự
diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong hàng ngũ đảng viên. Thực tế thì Đảng
CSVN đang trên đà suy thoái và tự tan rã, không chỉ vì hiện tượng tự
diễn biến và tự chuyển hóa trong các đảng viên mà còn do tình trạng xung
đột rất nguy hiểm đang âm thầm diễn ra giữa các phe phái lãnh đạo cao
cấp nhất. Như vậy, tinh thần yêu nước và khát vọng dân chủ của nhân dân
và đảng viên trong và ngoài chính quyền đang có điều kiện trở thành
phong trào có đủ sức ép khiến chính quyền phải thực hiện những thay đổi
đột phá về cơ chế và chính sách. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết và tất
yếu để có thể tạo sức mạnh nhân dân làm cách mạng, ôn hòa hay bạo động,
là phải có tổ chức và làm việc theo lề lối dân chủ. Điều kiện này chưa
có, vì vậy đã đến lúc trí thức tiến bộ và những nhóm xã hội dân sự đang
hoạt động rời rạc phải hợp tác chặt chẽ với nhau để sớm thành lập một
hình thức liên minh hàng ngang, lúc đầu có thể còn lỏng lẻo vì chưa được
chính thức nhưng nhất định cách làm việc phải thật sự dân chủ ngay từ
lúc đầu. Công việc đầu tiên là phải cùng nhau thiết lập một kế hoạch
hành động toàn diện, được phân công và phối hợp có hiệu quả.
Kế hoạch hành động toàn diện đương nhiên
phải nhắm tới cả hai mục tiêu “thoát Trung” và “dân chủ/nhân quyền”.
Trong những điều kiện thực tế hiện thời, mục tiêu “thoát Trung” là ưu
tiên số 1 vì bốn lý do: (1) thoát Trung khẩn cấp hơn cải thiện nhân
quyền và dân chủ; (2) kêu gọi nhân dân (gồm cả đảng viên, công an và
quân đội) chống Trung Quốc xâm lược dễ lôi cuốn số đông hơn hô hào tranh
đấu cho nhân quyền, dân chủ; (3) có thoát Trung được thì mới dễ thực
hiện dân chủ, nhân quyền; ngược lại, nếu mất nước cho Trung Quốc thì
nhân quyền và dân chủ trở thành không tưởng; (4) thoát Trung sẽ được
chính phủ Trump hỗ trợ vì phù hợp với lập trường chống Trung Quốc bành
trướng của ông Trump và lợi ích quốc gia của Mỹ.
Nói như vậy, không có nghĩa là các hoạt
động tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ sẽ phải ngưng hay hoãn lại, mà
vẫn cần được tiếp tục mạnh mẽ trong những trường hợp cần thiết để thuyết
phục, khuyến khích hay áp lực đối với những quan chức có thẩm quyền
trong chính phủ, công an và quân đội. Ưu tiên số 2 có khi đi đôi và hỗ
trợ cho ưu tiên số 1, thí dụ khi xảy ra vụ Formosa gây nhiễm độc biển,
khi có nhà tranh đấu cho nhân quyền bị bắt hay khi tàu đánh cá của ngư
dân Việt Nam bị “tàu lạ” tấn công, gây thiệt hại sinh mạng và tài sản
của các nạn nhân.
Gần đây, có dấu hiệu cho thấy có khả
năng diễn ra một cuộc đối thoại giữa lãnh đạo và trí thức trong nước, có
lẽ do kết quả của những cuộc tiếp xúc riêng giữa một vài nhân vật lãnh
đạo cao cấp và một vài trí thức tiến bộ trước những diễn biến mới của
tình hình chính trị. Sau những cuộc trao đổi trên diễn đàn Xã hội Dân
sự, phản ứng chung của trí thức đối lập ôn hòa là nên có đối thoại dẫn
đến những thay đổi cơ bàn về chính sách và cơ chế đúng với sự chờ đợi
của toàn dân. Thật ra, những đề nghị đối thoại như thế này đã được nêu
lên trong hầu hết những bản kiến nghị và thư ngỏ của nhân sĩ, trí thức
gửi cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước từ nhiều năm qua, nhưng đều bị chính
quyền bác bỏ. Đến nay mới có dấu hiệu là có thể có đối thoại thì không
chỉ đã quá muộn mà còn gây nhiều nghi ngờ về khả năng và lợi ích của đối
thoại trong lúc đang có cuộc tranh giành quyết liệt về quyền lực trong
hàng ngũ lãnh đạo, và không biết chủ trương của các phe phái đang tranh
chấp khác nhau thế nào. Dù sao, nhóm đối lập vẫn có thể sẵn sàng đối
thoại với bất cứ phe nào chấp thuận mục tiêu thoát Trung và dân chủ hóa.
Trong khi sử dụng đối thoại như một cơ hội để đạt được mục tiêu trong
hòa bình, trí thức đối lập sẽ luôn luôn cảnh giác về khả năng phá hoại
của Trung Quốc và tay sai. Vì người trong nước am hiểu tình hình và chủ
động trong vai trò thực hiện mục tiêu chung, người ở ngoài nước chỉ đóng
góp ý kiến và hành động hỗ trợ cần thiết.
Để giúp cho việc tổ chức và phát triển
nội lực của phong trào thoát Trung và dân chủ hóa, kế hoạch toàn diện
phải chú trọng vào công tác thông tin và vận động nhân dân trong nước,
các chính phủ và dư luận quốc tế. Về điểm này, cộng đồng người Việt ở
nước ngoài có nhiều điều kiên thuận lợi và những đóng góp quan trọng.
Cũng đã đến lúc những cá nhân và tổ chức quan tâm của người Việt hải
ngoại, nhất là ở Mỹ, phải vượt qua mọi trở ngại tâm lý và quan điểm khác
biệt để thành lập một tổ chức tập hợp được nhiều người có khả năng và
làm việc theo lề lối dân chủ để thực hiện mục tiêu chung. Trong những
năm gần đây đã có một số nỗ lực thành lập liên minh theo hướng này nhưng
không thành công, một phần vì nạn “lạm phát lãnh tụ” (more chiefs than
indians) trong cộng đồng tức là có quá nhiều lãnh tụ chính trị ở xứ sở
tự do cho ra đời quá nhiều tổ chức với xu hướng phe nhóm và không có
thực lực, một phần vì không có kế hoạch hành động thực tế và khả thi,
nhất là thiếu nhân sự có hiểu biết và kinh nghiệm thi hành kế hoạch. Rút
bài học từ những thất bại đã qua, hãy bắt đầu bằng một số nhỏ cá nhân
và tổ chức có khả năng và thiện chí cùng nhau làm kế hoạch vận động với
từng đối tượng và thực hiện bằng những phương cách thích hợp: gặp gỡ
trực tiếp, ký kiến nghị, thông tin và góp ý trên các trang điện tử, viết
bài tham luận (bằng tiếng Việt và ngoại ngữ) trên các báo chí có ảnh
hưởng, tổ chức và/hoặc tham gia hội thảo chuyên đề, điều trần tại quốc
hội, v.v.
Thực tế đã cho thấy là chỉ một cá nhân, nếu có ý kiến có giá
trị trong một bài báo hay trong những văn thư gửi Tổng thống, Bộ trưởng
hay Dân biểu/Nghị sĩ, cũng có thể ảnh hưởng đến việc hình thành chính
sách của chính phủ. Như vậy, một nhóm nhỏ ban đầu có tư duy chiến lược,
kế hoạch thực tế, khả năng giao thiệp (PR) giỏi và làm việc theo lề lối
dân chủ, sẽ mau chóng được các nhà làm chính sách đón nhận như một”think
tank” cần được tham khảo. Đồng thời, chủ trương và hoạt động của nhóm
sẽ được sự tán thành và tham gia của mọi thành phần trong cộng đồng để
trở thành một liên minh có thực lực về tài chánh và nhân sự giỏi. Chỉ
khi đó, tiếng nói của cộng đồng mới thật sự được lắng nghe, không chỉ
bởi chính quyền quốc gia sở tại mà còn có hiệu quả tich cực trong những
cuộc vận động quốc tế. Nếu khách quan theo dõi những hành động tham
khảo một số nhà tranh đấu hay ủng hộ các kiến nghị chống CSVN của cộng
đồng bởi các đại diện chính quyền Mỹ trong những năm qua, người ta có
thể nhận thấy hầu hết những hành động ấy, vì nhiều lý do, đều mang tính
chất hình thức hơn là phù hợp với chính sách thật sự của chính quyền.
Bởi thế, nhà cầm quyền trong nước vẫn coi thường những tiếng nói từ bên
ngoài, bất kể chống đối hay xây dựng. Họ chỉ thật sự trân trọng nguồn
ngoại tệ phong phú do “khúc ruột xa ngàn dậm” tự ý chuyển về cho người
thân, không cần mất thì giờ và công sức điều đình và cam kết như đối với
các nước có chương trình viện trợ.
Trở lại với giả định là trong cuộc
thương thuyết về Biển Đông, Trung Quốc có thể sẽ nhân nhượng nhiều đòi
hỏi của Hoa Kỳ về quyền tự do hàng hải và bảo đảm an ninh khu vực, và sẽ
đề nghị chia sẻ với Hoa Kỳ nhiều lợi ích kinh tế, thương mại. Để đổi
lại, Trung Quốc sẽ yêu cầu Hoa Kỳ đồng ý cho Trung Quốc giải quyết song
phương với từng nước có tranh chấp về chủ quyền biển đảo, và riêng
trường hợp Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ rút ra khỏi mọi quan hệ hợp tác chiến
lược với Việt Nam, tức là mặc nhiên đồng ý trao lại Việt Nam cho Trung
Quốc. Cũng theo giả định này, Tổng thống Donald Trump, với bản chất
doanh nhân và chủ trương rũ bỏ gánh nặng quốc tế, sẽ sẵn sàng chấp thuận
những đề nghị của Trung Quốc, vừa hợp với chủ nghĩa dân túy hướng nội
của mình vừa gia tăng lợi ích quốc gia.
Nhưng thực tế có thể không đơn giản như
vậy. Ông Trump, vốn chống Trung Quốc từ lâu, đã tập hợp được một đội ngũ
chuyên gia hiểu biết tường tận lịch sử và truyền thống bành trướng của
Trung Quốc, nhất là giấc mơ bá chủ thiên hạ được chuẩn bị từ Mao Trạch
Đông, tạm ẩn mình chờ thời theo sách lược “thao quang dưỡng hối” của
Đặng Tiểu Bình, đến nay đang được Tập Cận Bình công khai thực hiện. Dù
ham lợi nhuận, ông Trump cũng không thể bỏ mục tiêu ngăn chặn tham vọng
bá quyền của lãnh đạo Bắc Kinh. Như vậy có nhiều khả năng Trump sẽ không
chấp thuận các đề nghị của Trung Quốc, và nhóm thương thuyết của ông sẽ
có những phản đề nghị theo đó Trung Quốc phải từ bỏ yêu sách về đường
chín đoạn, chấm dứt hành động đe dọa an ninh khu vực để có thể cùng
thương lượng với Hoa Kỳ về những chương trình phát triển kinh tế, thương
mại với các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương. Vì lợi ích chiến lược,
chính phủ Trump cũng sẽ không để cho Việt Nam mất vào tay Trung Quốc và
sẽ tiếp tục tạo điều kiện giúp cho Việt Nam thoát ra khỏi quỹ đạo Bắc
Kinh. Nhưng khác với đường lối nhu nhược của Obama đã khiến Hà Nội có
thể sử dụng xảo thuật đu dây giả vờ để kéo dài chế độ tham nhũng độc
tài, chính phủ Trump sẽ chỉ dành cho Việt Nam những điều kiện dễ dãi về
phát triển kinh tế và quân sự khi Việt Nam chứng tỏ quyết tâm thoát
Trung bằng hành động, với những thay đổi đột phá về cả hai mặt đối nội
và đối ngoại.
Trước hai khả năng trái ngược về phản
ứng của chính phủ Trump đối với những đề nghị của Bắc Kinh, lãnh đạo
Việt Nam phải dứt khoát lựa chọn một trong hai phương án:
- Hoàn toàn đứng về phe Trung Quốc để bảo vệ chế độ độc tài tham nhũng, nhưng trong một tương lai không xa sẽ bị mất cả nước lẫn Đảng khi Việt Nam đã bị sáp nhập hoàn toàn vào Trung Quốc. Với lựa chọn này, Việt Nam sẽ đương nhiên ủng hộ các yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền “đường chín đoạn”, chống lại Hoa Kỳ và các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương. Nếu xảy ra chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc thì, một lần nữa, Việt Nam lại sẽ “đánh Mỹ cho Trung Quốc đến người Việt cuối cùng”.
- Sát cánh với Hoa Kỳ và các đồng minh chiến lược trong khu vực để ngăn chặn tham vọng bá quyền của Trung Quốc. Trong trường hợp này, Việt Nam chắc chắn không mất nước mà cũng không mất Đảng nhưng phải thật sự dựa vào sức mạnh dân tộc qua những hành động đột phá về chính sách đối nội và đối ngoại. Nói cách khác, phải có những bước thoát Trung cụ thể song song với những hành động hòa giải dân tộc và thực thi dân chủ. Cần nhớ là đối với chính quyền Trump, Việt Nam cũng phải có phần đóng góp thích hợp chứ không thể vòi vĩnh như đối với chính quyền Obama.
Vì không có đầy đủ thông tin về cuộc
tranh giành quyền lực đang diễn ra sau một lớp hỏa mù dày đặc giữa các
phe phái ở trong nước, cũng không biết rõ chiều hướng chính sách đích
xác của mỗi phe phái như thế nào, bài viết này sẻ chỉ góp ý về vận mệnh
của Việt Nam khi đại diện của một trong hai phe “bảo thủ” hay “cải cách”
lên nắm chức vụ Tổng Bí Thư khi Nguyễn Phú Trọng, trên nguyên tắc, sẽ
về hưu giữa nhiệm kỳ vào đầu năm 2018. Nếu Tổng Bí Thư mới cũng thuộc
nhóm bảo thủ lệ thuộc vào Trung Quốc thì đây là một đại họa cho dân tộc
trừ phi có biến chuyển bất ngờ. Nhưng nếu người thay ông Trọng thuộc phe
được cho là muốn thoát Trung và dân chủ hóa chế độ, thì nhất định đây
là cơ may cho đất nước, nhũng cũng chưa thể lạc quan cho đến khi thấy
chứng tỏ bằng hành động thay đổi thật sự. Những cơ hội và thử thách
trong mấy năm qua mà trí thức và nhân dân đã chứng nghiệm trước những
tuyên bố bảo vệ chủ quyền và cải tổ cơ chế của các lãnh đạo đã quá đủ để
thấy không còn chút hi vọng gì vào khả năng hiểu biết và sự thành thật
của họ. Bởi vậy trí thức và các tổ chức xã hội dân sự đã phải thay đổi
phương pháp, từ vận động chuyển sang tranh đấu và xây dựng sức mạnh quần
chúng làm hậu thuẫn. Nhưng do sự kiện Donald Trump trúng cử Tổng thống
Mỹ, cuộc đối thoại giữa chính quyền và trí thức yêu nước lại trở nên cần
thiết và cấp bách để đạt được đồng thuận nếu lãnh đạo Việt Nam thật sự
muốn gia tăng quan hệ với Hoa Kỳ để cân bằng quan hệ với Trung Quốc
trong tư thế độc lập. Sự đồng thuận này nếu đạt được và được chính quyền
chứng tỏ bằng một số hành động cụ thể, chắc chắn cũng sẽ được cộng đồng
người Việt hải ngoại ủng hộ. Chính phủ Trump chỉ có lý do hợp tác và hỗ
trợ Việt Nam nếu thấy chính phủ và nhân dân Việt Nam thống nhất ý chí
thoát Trung và dân chủ hóa chế độ.
Sau khi Donald Trump đắc cử Tổng thống
Mỹ, Việt Nam quá sững sờ vĩ đã đầu tư quá đậm vào Hillary Clinton qua
nhóm vận động tranh cử của bà, nhưng chỉ ngày hôm sau cả Chủ tịch nước
lẫn Thủ tướng đã gửi điện văn chúc mừng Tổng thống tân cử Hoa Kỳ. Ngày
14/12, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lại có cuộc điện đàm với ông Trump, và
theo lời xác nhận của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình
Minh, Thủ tướng Phúc “khẳng định Việt Nam coi trọng quan hệ hữu nghị,
hợp tác với Mỹ. Thủ tướng đã mời Tổng thống đắc cử Donald Trump đến dự
Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
(APEC) tổ chức cuối năm 2017 tại Việt Nam. . . Việt Nam mong muốn lãnh
đạo các nền kinh tế sẽ tham dự đầy đủ” (VTC.com, 5/1/2017). Cuộc điện
đàm này cho thấy chính phủ Việt Nam rất quan tâm đến chính sách và quyết
định của ông Trump đối với Việt Nam trong các cuộc thương thuyết
Mỹ-Trung trong thời gian tới. Không thấy bản tin nói đến việc tổng thống
tân cử Trump đáp lại lời mời của thủ tướng Phúc ra sao.
Kết luận
Như đã được nói rõ trong phần đầu của
bài này, dưới sự lãnh đạo của tân Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, quan
hệ Mỹ-Trung chắc chắn sẽ căng thẳng hơn nhiều so với các Tổng thống tiền
nhiệm. Nhưng vì không bên nào muốn có chiến tranh nên rốt cuộc hai bên
sẽ phải thương thuyết để giải quyết các căng thẳng bằng đầu óc thực tế.
Quan hệ hợp tác hay đối đầu giữa hai siêu cường sẽ ảnh hưởng quyết định
đến vận mệnh của Việt Nam, vì vậy đương nhiên phải được những người
Việt yêu nước theo dõi sát và chuẩn bị kế hoạch hành động thích hợp,
hoặc để đối phó với một chính quyền phản quốc làm tay sai cho quân xâm
luợc, hoặc để hỗ trợ cho một chính quyền yêu nước, quyết tâm bảo vệ tổ
quốc và giống nòi. Về trường hợp thứ nhất (phương án 1, cầu mong không
diễn ra,) trách nhiệm đối phó chủ yếu thuộc về trí thức và nhân dân
trong nước. do đó, bài này chỉ đề cập đến trường hợp thứ nhì (phương án
2) trong đó chính phủ và nhân dân đoàn kết một lòng, dốc toàn lực thực
hiện mục tiêu thoát Trung (trước mắt) và xây dựng dân chủ (lâu dài).
Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi một kế
hoạch toàn diện và thực tế do sự đóng góp của những bộ óc chiến lược
trong và ngoài chính quyền, kể cả người Việt ở nước ngoài. Do tình hình
thực tế còn phức tạp chưa thể có ngay một chính quyền “cách mạng” theo
phương án 2, các tổ chức xã hội dân sự cần có những hành động đáp ứng
nhu cầu khẩn cấp của đất nước, khởi sự bằng việc thành lập một liên minh
không chính thức với một ban đại diện lâm thời được bầu ra bằng thể
thức dân chủ. Nhóm đại diện này có nhiệm vụ thiết lập kế hoạch hành động
cấp thời mà việc đầu tiên cần làm ngay là tiếp xúc đối thoại với các
lãnh đạo đương nhiệm về đường hướng chính sách có lợi ích cho đất nước,
đặc biệt về quan hệ hợp tác chiến lược với chính phủ Trump. Ý kiến đối
thoại với lãnh đạo được GS Chu Hảo đề xuất trước khi Mỹ bầu tổng thống
nên gặp trở ngại nhưng tình hình nay đã đổi khác nên vấn đề đối thoại
vào lúc này là thời điểm thích hợp. Kết quả mong đợi là Hà Nội có thêm
sức thuyết phục Washington về khả năng Việt Nam sẽ trở thành môt đồng
minh chiến lược chống tham vọng làm chủ Biển Đông của Trung Quốc. Quan
trọng nhất là phải được Tổng thống Hoa Kỳ nhận lời mời tham dự hội nghị
APEC sẽ được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 11 năm nay. Tất nhiên Việt Nam
phải kịp chứng tỏ cho chính quyền Trump thấy rõ một số thay đổi đột phá
trong chính sách đối nội và đối ngoại thể hiện ý chí thoát Trung và
nguyện vọng của gần 94 triệu dân trong nước và hơn 4 triệu người ở nước
ngoài trong đó một nửa là công dân Mỹ gốc Việt.
Trong khi đó, cộng đồng người Việt ở
nước ngoài, đặc biệt là công dân Mỹ gốc Việt, cũng phải gấp rút thành
lập một liên minh theo một phương cách khả thi như đã được đề nghị trong
một trang trên. Cũng phải sớm thiết lâp một kế hoạch hỗ trợ thực tế cho
trí thức và nhân dân trong nước (và cho cả chính quyền khi đã có thay
đổi) thực hiện mục tiêu thoát Trung và dân chủ hóa thể chế. Trước tình
hình khẩn cấp của đất nước, cần tập trung vào các nỗ lực vận động chính
quyền các quốc gia sở tại. Riêng tại Hoa Kỳ, nhóm đại diện liên minh
phải sớm tiếp cận với Nhà Trắng và Quốc hội để làm việc trực tiếp hay
gián tiếp với những nhà làm chính sách về Biển Đông và Việt Nam. Bằng
những lý luận phù hợp với lợi ích quốc gia Mỹ và duy trì được ảnh hưởng
lâu dài của Mỹ trong khu vực, nhóm vận động cũng phải đạt được mục tiêu
trước mắt là Tổng thống Donald Trump đồng ý tham dự Hội nghị APEC tại
Việt Nam cuối năm 2017.
Một số công tác khác cũng cần được làm
sớm sẽ được gợi ý tiếp trên các diễn đàn mạng trước hay sau khi mỗi liên
minh trong và ngoài nước được thành lập. Việc soạn thảo Kế hoạch Hành
động Toàn diện cũng như sự phân công vai trò của xã hội dân sự ở trong
nước và của cộng đồng người Việt ở nước ngoài là trách nhiệm của mỗi
liên minh đúc kết các ý kiến đóng góp của nhiều người và cần được hoàn
tất trong một thời gian ngắn nhất.
Tác giả là một công dân Mỹ gốc Việt, ghi danh cử tri độc lập, lựa
chọn người lãnh đạo hay đại diện cấp liên bang, tiểu bang hay địa
phương theo nhận xét cá nhân, bất kể ứng cử viên thuộc đảng Cộng hòa,
Dân chủ hay Độc lập.
Lê Xuân Khoa
Irvine, California
9 tháng Giêng 2017