Diễn biến hòa bình và bạo lực cách mạng (Hoàng Lại Giang-Văn Việt)
Và vì vậy hôm nay nếu có “diễn biến hoà bình” thì đấy chính là sự
chuyển hoá một cách ôn hoà trạng thái vô tổ chức, trên nói dưới không
nghe, tình trạng cát cứ có dấu hiệu phục hồi, tham nhũng, mua quan bán
chức… từ hiện tượng đang trở thành bản chất của chế độ, lòng tin của dân
với Đảng cầm quyền suy giảm đến mức báo động… thì sự chuyển biến ấy –
trước tiên là trong nội bộ đảng cầm quyền – chính là đại phúc cho nhân
dân, chứ có gì mà phải… sợ! Và dẫu anh có sợ cũng không được.
Dấu ấn của những cuộc “Bạo lực cánh mạng”
Nếu phải chọn một trong hai hình thái trên, tôi chọn “diễn biến hoà
bình”. Bởi bạo lực cách mạng là bước đường cùng để nhân dân bằng “sức
mạnh cứng” của mình đập tan một thể chế chính trị tàn bạo, tham nhũng,
một thể chế đối lập với nhân dân về mọi phương diện, trong thể chế ấy
mọi quyền của dân đều bị tước đoạt và kẻ cầm quyền lộng hành… đẩy dân
vào con đường cùng! Tức nước vỡ bờ, trên thực tế đây là sự đối đầu một
sống một chết giữa nhân dân – kẻ bị trị và bên kia là kẻ cầm quyền – kẻ
thống trị nắm giữ mọi quyền lực. Với tôi dù bên nào thắng thì vẫn gây ra
những tấn thảm kịch cho nhân dân, dẫn đất nước vào chỗ suy vong!
Nhưng nói thế không có nghĩa là tôi vô cảm với những cuộc “bạo lực
cách mạng” của nhân dân 13 xứ thuộc địa Anh cùng đứng dậy giành lại nền
độc lập từ tay thực dân Anh và từ đó xây nên bản Hiến pháp Hoa Kỳ năm
1791, trong đó có 10 tu chính án như đóng đinh vào lịch sử tiến hoá của
nhân loại về quyền của kẻ cai trị và quyền của con người, trong đó dân
có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tôn giáo. Và cuộc “bạo
lực cách mạng” Pháp năm 1789-1799 nữa; Tuyên ngôn Nhân quyền từ cuộc
“bạo lực cách mạng” này cho tới hôm nay vẫn là điểm son mà loài người
tiến bộ nhớ ơn: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. “Nguyên
tắc chủ yếu đặt ở chủ quyền Quốc gia. Không một tổ chức, không một cá
nhân nào có thể sử dụng quyền hành mà không xuất phát từ nguyên tắc đó”.
Chính những cuộc “bạo lực cách mạng” trên đã tước đi những quyền mang
tính tuyệt đối của các nhà cầm quyền độc tài, toàn trị, sa đoạ, và buộc
họ phải coi dân làm trọng.
Cách mạng tháng Mười năm 1914 là “bạo lực cách mạng” lật đổ chế độ Sa
Hoàng bằng sức mạnh cứng của nhân dân và quân đội. Nhưng cuộc cách mạng
tháng Tám năm 1945 của ta lại là cuộc “diễn biến hoà bình”. Con đường
thành công của cách mạng tháng Tám là những cuộc tuyên truyền, vận động
nhân dân… và chờ thời cơ chín muồi, chuyển hoá một chính thể thực dân –
phong kiến sang chính thể dân chủ cộng hoà. Xét trên phương diện rộng,
thì đây chính là chọn lựa của cụ Phan Châu Trinh: Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lịch sử những cuộc chuyển hoá quyền lực…
“Diễn biến hoà bình” thực chất là sự chuyển hoá tư duy. Từ tư duy cũ
theo truyền thống, vận động sang tư duy mới tiến bộ hơn, hợp xu thế thời
đại và hợp lòng dân hơn. Rất tiếc loài người đang ở giữa thập niên 20
của thế kỷ 21 mà một vài quốc gia lại không muốn thay đổi tư duy, thậm
chí muốn quay lại tư duy truyền thống theo kiểu phong kiến, nghĩa là ai
giành được nước thì sẽ giữ độc quyền cai trị dân hết thế hệ này sang thế
hệ khác. Nếu trước đây theo kiểu cha truyền con nối thì ngày nay theo
nhóm lợi ích có tôn chỉ mục đích đậm nét hình thức. Trên thực tế chính
sách mị dân thuở ban sơ ấy đã mất lòng tin trong dân từ lâu lắm rồi.
Quyền lực từ xưa tới nay bao giờ cũng có sức mê hoặc rất lớn, có sức hút
đáng sợ… ngay cả những chính khách hay nhà văn hoá lớn cũng không dễ
rứt ra được; và nếu quyền lực rơi vào tay những kẻ chủ yếu lao động bằng
cơ bắp, mang thành phần cơ bản, thì quyền lực là mối nguy hiểm cho cả
dân tộc! Và vì vậy họ rất sợ “diễn biến hoà bình”. Những lý giải sai
lệch của họ về “diễn biến hoà bình” hoàn toàn dựa theo cảm tính chủ
quan, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn lịch sử. Hãy đọc lại lịch sử
nước nhà để thấy “diễn biến hoà bình” là tất yếu của sự tiến hoá loài
người, không có gì phải lo sợ, đúng ra đấy là điều đáng mừng khi loài
người khai thông được dòng nước đục vốn bị nghẽn…
Lịch sử Đại Việt còn ghi rõ triều Đinh, Đinh Tuệ lên ngôi lúc sáu
tuổi. Vào lúc quân Tống chuẩn bị xâm chiếm nước ta, cả triều thần tôn Lê
Hoàn lên ngôi. Thái hậu họ Dương, vượt qua lệ ước dòng họ đã đứng về
phía Lê Hoàn, chấp nhận phế đế, chung lòng chống kẻ thù tuyền kiếp của
Đại Việt. Cuộc phế lập trong ôn hoà của Dương Thái hậu và đình thần
triều Đinh đã xoay chuyển tình thế, làm chỗ dựa cho cuộc chống Tống kết
quả và đưa nhà tiền Lê vào lịch sử như một vương triều có công chống xâm
lược của Đại Việt.
Cuối nhà tiền Lê, bắt đầu bằng cuộc tranh giành ngôi vương và sự bạo
ngược của Lê Long Đỉnh… Triều thần tiền Lê đã sáng suốt tôn Lý Công Uẩn
lên ngôi. Tất nhiên công đầu thuộc nhà sư Vạn Hạnh. Không ngờ đây lại là
một triều đại có tầm nhìn của trăm năm, nghìn năm, cấp tiến để lại cho
hậu thế những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể sáng giá cho đến tận
hôm nay. Văn hoá đời Lý là văn hoá từ bi hỷ xả của Phật giáo. Nhớ lại
cuối thời tiền Lê, xã hội Đại Việt lấy quyền lực làm quốc sách, anh em
tranh giành nhau quyền lực, giết hại nhau vì quyền lực, tàn bạo, sa đọạ,
dâm đãng… mới thấy Lý Thái Tổ tôn vinh Phật giáo, lấy tư tưởng nhà Phật
làm tư tưởng chính thống của Đại Việt là có lý do của Ngài. Con người
ấy, tư tưởng ấy, tầm nhìn ấy… đã không do dự dời đô về La Thành – Đại La
và sau đổi thành Thăng Long. Về chính trị, ngoại giao… Lý Thái Tổ đã tự
mình làm gương, bắt các thái tử phải cầm quân ra trận. Đại Việt bước
vào thời kỳ nước yên, biển lặng, giặc Tống cũng nể sợ… muốn mà không dám
gây hấn…
Vua tôi đồng lòng – đấy là thời kỳ giữa vua và dân ít có khoảng cách
nhất. Suy đi ngẫm lại, phế và lập theo con đường “diễn biến hoà bình” là
cần thiết cho một xã hội tàn bạo, hủ bại, tham nhũng, hách dịch, chuyên
quyền chuyển hoá bằng con đường hoà bình sang một xã hội tiến bộ hơn,
tốt đẹp hơn, nhân ái và hợp lòng dân hơn mà ít tốn xương máu, thì ai lại
nỡ lên án, thậm chí căm thù, dùng quyền lực mà triệt tiêu!
“Quân sư” “diễn biến hoà bình” ở Việt Nam là Trần Thủ Độ. Nếu không
có sự tận diệt con cháu nhà Lý cho chắc vương triều Trần vô cùng dã man
thì đây là cuộc chuyển giao quyền lực đẹp nhất từ vương triều Lý đang
suy vong sang vương triều Trần đầy sinh lực. Lịch sử không có “giá như”;
nếu không có cuộc phế lập bằng con đường “Diễn biến hoà bình” này, thì
Đại Việt ta chắc khó bề đương nổi với đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh đang
tung vó ngựa từ Đông sang Tây! Chính trong cái hoạ binh đao Nguyên Mông
thế kỷ 13, dân tộc ta xuất hiện nhiều danh tướng và hiền tài cho tới
hôm nay vẫn còn là những vì sao chói sáng trên bầu trời nhân loại.
Thật là một thiếu sót, nếu lịch sử quên cuộc phế – lập, “diễn biến
hoà bình” triều đại Lê Thánh Tông. Triều Lê Nhân Tông tưởng suy bởi sự
tranh giành quyền lực, các nhóm triều thần gian xảo làm những cuộc đảo
chính, lập thái tử Nghi Dân lên ngôi. Nhưng chỉ sáu tháng sau, cuộc
“diễn biến hoà bình” của các đại thần còn chút lòng yêu nước thương nòi
đã lập Tư Thành lên ngôi, hiệu là Lê Thánh Tông. Khác với các vua trước
cùng thời, Lê Thánh Tông tỏ rõ bản lĩnh và đức độ của một đấng anh quân,
khai sáng triều đại mình.
Cho đến hôm nay, là người Việt, dù có đi bốn phương trời, không ai
không tự hào về đất nước nghìn năm văn hiến của mình. Nhưng cái gốc của
nghìn năm văn hiến khởi nguồn từ đâu? Tôi nghĩ có thể nó bắt đầu từ đời
Lý với việc định đô ra Thăng Long của Lý Thái Tổ, với việc lập Văn miếu
của Lý Thánh Tông… Nét văn hoá từ bi hỷ xả sâu đậm nhất ở thời kỳ này.
Văn hiến thời Trần là Hội nghị Diên Hồng, tìm sự đồng lòng trong công
cuộc chống kẻ thù mạnh hơn ta trăm lần, nghìn lần, là “Sát Thát”! Với
kẻ thù, là văn hoá độ lượng dung tha, gác lại quá khứ hướng về tương lai
của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông sau khi thắng trận. Một nét
văn hoá đậm tính nhân văn của cha ông một thời cực đẹp vậy mà ở thời
hiện đại vẫn còn không ít nhà lãnh đạo lại e dè, lo ngại và hướng về tư
tưởng bảo vệ vương triều hơn là tư tưởng nhân văn thời Trần. Điều đó tạo
nên sự hận thù của người trong một nước, chứ không hề nghĩ về hội nghị
Diên Hồng, nghĩ về hai chữ “Sát Thát”, về đức khoan dung của tiền nhân.
Nói cách khác tư tưởng bảo thủ, ngại đổi mới… đã đẩy chủ nghĩa nhân văn
ra khỏi tầm với của nền văn hiến có tự ngàn xưa! Mối nguy hiểm mà cha
ông thời nào cũng cảnh giác là đưa đất nước xích lại gần hơn với kẻ thù,
tạo cơ hội cho kẻ thù nhòm ngó nước ta, nuôi âm mưu xâm chiếm nước ta
và đẩy nhân dân ra khỏi tầm của hội nghị Diên Hồng.
Nhưng nét văn hiến nghìn năm đậm nét nhất là ở văn hoá đời Lê với tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi, tư tưởng “tâm công sách”
của nhà văn hoá kiệt xuất này. Sau Nguyễn Trãi là Lê Thánh Tông. Đây là
một vị vua để lại sau mình nhiều giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể
lớn nhất trong các triều đại, ngoài việc “định phép thi hương, sửa phép
thi hội” nhằm chọn hiền tài cho đất nước. Danh xưng tiến sĩ bắt đầu từ
triều đại này. Trong văn bia đời Lê Thánh Tông tiến sĩ Thân Nhân Trung
để lại cho hậu thế những câu bất hủ: “Hiền tài là nguyên khí quốc
gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy
thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không
đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng
nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết”. Với 24 điều dạy của
vua Lê Thánh Tông, chúng ta cảm nhận được giá trị của một nền văn hoá
cốt lõi của Việt Nam hôm nay: nền văn hoá lấy dân làm trọng, quan lại là
nô bộc của dân, ý dân là ý Trời. Và cũng bắt đầu từ vua Lê Thánh Tông,
cương vực lãnh thổ, trên bộ, trên biển đảo được các quan sở tại trình
báo chi tiết từ nơi mình ở có núi, sông, hồ, biển đảo… lên triều đình để
lập địa đồ cho nước được chính xác. Ngài còn căn dặn các tướng sĩ: “Ta phải gìn giữ cho cẩn thận đừng để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông của vua Thái Tổ để lại”. Trần Trọng Kim viết trong Việt Nam sử lược: “Xem
những công việc của vua Thánh Tông thì ngài thật là một đấng anh quân.
Những sự văn trị và võ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn
thời Hồng Đức. Nhờ có vua Thái Tổ thì giang sơn nước Nam mới còn, và nhờ
có vua Thánh Tông thì văn hoá nước ta mới thịnh”.
Diễn biến hoà bình không phải như những gì người ta gán ghép
Lật lại lịch sử phát triển Việt Nam ta thì “bạo lực cách mạng” thường
xảy ra khi cần lật đổ ách đô hộ của kẻ thù dân tộc, còn hầu hết những
chuyển hoá các triều đại đều từ phế – lập ngày nay gọi là “diễn biến hoà
bình”. Đấy cũng là sự vận động khách quan của quy luật. Không hiểu từ
cơ sở nào mà có người lại định nghĩa: “diễn biến hoà bình là một
trong những chiến lược có ý nghĩa và phạm vi toàn cầu của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động được hình thành từ những năm cuối thập kỷ
40 đầu thập kỷ 50 hoàn chỉnh ở thập kỷ 80 của thế kỷ 20 nhằm chống các
nước xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc và phong trào tiến bộ
trên thế giới” (Xin xem PGS.TS Lê Minh Vụ – Giám đốc Học viện Chính trị quân sự và Thiếu tướng, TS Nguyễn Tiến Quốc (đồng chủ biên) 2009. Phòng, chống “diễn biến hòa bình” ở việt nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn. Hà Nội: Chính trị Quốc gia).
Quả thật tôi chưa bao giờ dám nghĩ có một Thánh nhân nào đó lại có
thể lật đổ được chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô. Bởi lẽ các chế độ
này qua một bộ máy tuyên truyền lớn nhất trong mọi thời đại đã bám rễ
sâu từ trung ương đến tận hang cùng ngõ hẻm các làng xã trên 50 năm ở
các nước Đông Âu và 70 năm ở Nga. Hơn một lần tôi nói trên mạng Internet
rằng sự sụp đổ ấy bắt nguồn từ ý chí chủ quan của nhiều nhà lãnh đạo
các nước xã hội chủ nghĩa. Chính họ đã bất chấp quy luật tiến hoá của
lịch sử phát triển loài người… Sau trên hai thập kỷ, tôi chưa thấy Đảng
Cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu trở lại nắm quyền lãnh đạo ở nước họ mặc
dù chế độ mới ở các nước ấy không cấm Đảng Cộng sản hoạt động. Vì vậy,
một Khrutsov, một Gorbachev không thể có sức mạnh siêu phàm nào để giữ
cái chính quyền ra đời từ ý chí luận của các bậc tiền nhiệm! Nói cách
khác, Khrutsov nhận ra tính không tưởng của thể chế mà họ đang dắt nhân
dân Nga đi, nhưng đến Gorbachev, ông nhận ra sự bất đồng quyết kiệt của
nhân dân Nga với chính quyền mà ông là đại diện, và sự chuyển biến của
ông nằm trong cái thế tất yếu của lịch sử.
Những cuộc “diễn biến hoà bình” gần đây nhất là những cuộc cách mạng
mang tên hoa nhài ở các nước Bắc Phi. Những cuộc xuống đường của nhân
dân đã buộc những nhà lãnh đạo cao nhất, từng có thâm niên trị vì nước
họ phải từ chức, hoặc bị phế bỏ. Ai cưỡng lại sức mạnh của nhân dân,
người đó hãy noi gương Qaddafi ở chiếc cống ngầm!
Nhưng tôi lại thiện cảm với đất nước Miến Điện. 40 năm trong chế độ
quân phiệt, nhưng dân tộc này lại “diễn biến hoà bình” theo đúng nghĩa
của cụm từ trên để lột xác thành một nước tự do, dân chủ và nhân quyền
đích thực, những nhà chính trị khác chính kiến đã được tự do ra khỏi
trại giam và tiếp tục hoạt động trở lại. Người tù nhân tiêu biểu là bà
Aung San Suu Kyi. Báo chí và xuất bản đã được tháo “vòng kim cô” định
hướng, khống chế và kiểm duyệt! Dân được quyền ra báo và xuất bản, lập
hội, biểu tình… như những gì mà Nguyễn Ái Quốc đòi thực dân Pháp phải
trao cho nhân dân Việt Nam từ đầu những năm 20 của thế kỷ trước.
Công lao vĩ đại này trước tiên thuộc về Tổng thống Thein Sein.
Lịch sử các triều đại chứng minh, những kẻ nắm quyền lực, thường có
xu hướng giữ chặt quyền lực, tăng thêm uy quyền để dễ trị vì dân chúng,
và vì vậy trường hợp vị Tổng thống đương nhiệm Thein Sein là một ngoại
lệ. Hành động của Tổng thống Thein Sein chắc chắn được nhân dân thế giới
tôn vinh như là bậc vĩ nhân của thời hiện đại, dám chia sẻ quyền lực,
đúng hơn là trao lại quyền lực về tay nhân dân, làm một tấm gương cho
không ít nhà lãnh đạo một số nước đang còn mê muội bởi quyền lực, coi
nhân dân như những tù nhân của chính mình!
Việt Nam thời hiện đại vẫn còn đó những tấm gương trung dũng kiên
cường, học rộng tài cao chí lớn… mưu lược một thời. Ở đây tôi xin nhắc
đến Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc. Ba nhà chí sĩ này
theo ba con đường cứu nước khác nhau. Phan Bội Châu thì nhờ đồng lân,
đồng chủng là Nhật Bản giúp ta chống Tây. Phan Châu Trinh theo con đường
“thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh, ai nấy thấy rõ ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường
quyền” (Thư của Phan Chu Trinh gởi Nguyễn Ái Quốc ở Marseille
18-12-1922). Còn Nguyễn Ái Quốc thì theo Quốc tế III, dùng bạo lực và
chuyên chính cách mạng xây dựng thế giới đại đồng.
Nhưng cuối cùng Nguyễn Ái Quốc đã thành công bước đầu. Cuộc Cách mạng
tháng Tám dựng lên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Cùng với Tuyên
ngôn Độc lập, bản Hiến pháp năm 1946… là sự tích luỹ bao kinh nghiệm,
bài học, thành quả của nhân loại tiến bộ cho tới thời ấy mà Nguyễn Ái
Quốc có được.
Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là tấn công chính quốc ngay
trên chính quốc bằng vận động, tuyên truyền… Và khi có điều kiện thì về
nước… Cuộc “diễn biến hoà bình” cách mạng tháng Tám năm 1945 đã được
Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị và mai phục từ những năm 20 của thế kỷ 20. Rất
tiếc sau đó cuộc “diễn biến hoà bình” lại trở thành “bạo lực cách mạng”
do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan mà hôm nay chưa dễ có sự
đồng thuận của nhiều nhà lịch sử, nhà khoa học, học giả trong và ngoài
nước. Nhưng nhìn vào thực tế thì ai cũng thấy Quốc tế III thất bại và
Quốc tế II thành công ít nhất là ở các nước Bắc Âu. Lãnh tụ của Quốc tế
II là Engel. Những năm cuối đời Engel nhìn thấy không ít sai lầm trong
học thuyết của Marx và ông sửa chữa nhằm hoàn thiện học thuyết Marx như
ông mong muốn.
Blanqui (lãnh đạo thuộc phái bạo lực trong Quốc tế I) cho rằng dựa
vào bạo lực cách mạng là có thể tạo ra một xã hội không có áp bức và bóc
lột! Engel phê phán Blanqui: “Tuy nhiên, đừng tưởng đó là toàn bộ
nền chuyên chính của toàn bộ giai cấp cách mạng tức là giai cấp vô sản,
mà là chuyên chính của số ít người… số người này lại phục tùng chuyên
chính của một hoặc vài người”. (Toàn tập Marx-Engel, cuốn 18, tr 580-581, bản Hoa văn). Thời hiện đại Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên bang Nga Zyuganov cho rằng: “Nguyên nhân cơ bản khiến Liên Xô và Đảng Cộng sản sụp đổ là sự lũng đoạn đối với tài sản, quyền lực và chân lý”. Ở đây không có kẻ thù địch và “diễn biến hoà bình” nào cả!
Cái giá của “Bạo lực cách mạng” và nền văn hiến Đại Việt…
Cho đến hôm nay tôi vẫn nhớ như in lời dạy của vua Trần Nhân Tông tôi đọc lúc còn là sinh viên: “Các
người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì
rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họạ
lâu đời của ta là họạ Trung Hoa…” (Di chúc của Trần Nhân Tông).
Cốt lõi của một dân tộc là văn hoá chứ không phải là đất rộng hay
hẹp, nhiều tài nguyên hay ít tài nguyên, không phải người đông hay thưa…
Tất cả chỉ là chất xúc tác để tạo ra bản sắc văn hoá của một dân tộc.
Bản sắc văn hoá ấy nông hay sâu, dày hay mỏng, rộng hay hẹp, đa tầng hay
ít tầng… sẽ quyết định tâm thức của dân tộc ấy. Tâm thức văn hoá quyết
định sức mạnh của một dân tộc, quyết định cả sự tồn vong của dân tộc.
Chúng ta tự hào nghìn năm văn hiến là dựa trên cái cốt lõi của một
nền văn hoá được vun xới, bồi đắp qua hàng nghìn năm dựng nước và mở cõi
của tiền nhân, tạo thành nhân cách của một dân tộc. Nhân cách ấy là bầu ơi thương lấy bí cùng tuy là khác giống nhưng chung một giàn, là lá lành đùm lá rách, là anh em như thể tay chân, là người trong một nước phải thương nhau cùng… trong ca dao, tục ngữ. Là lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo, là việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Nguyễn Trãi. Là quyền biến… lúc bình thì khoan sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc – Trần Hưng Đạo.
Giá trị của văn hoá là giá trị tiềm ẩn, mang đậm dấu ấn riêng của một
dân tộc. Theo UNESCO thì “Văn hoá là hệ thống tổng thể những giá trị
biểu trưng quy định cách ứng xử, thái độ giao tiếp của một cộng đồng và
làm cho cộng đồng đó có đặc thù riêng”.
Tóm lại, “diễn biến hoà bình” xuất hiện tự thời cổ đại thường được
gọi là phế – lập, khi xã hội loài người có vương quyền (có kẻ cai trị và
người bị trị). Nó là sự vận động khách quan của các mối quan hệ giữa
người và người, giữa kẻ thống trị và người bị trị… hoàn toàn không phải
là khái niệm của “kẻ thù gần đây”. Sự vận động ấy hướng tới một định chế
hợp xu thế thời đại, hợp lòng dân hơn và vì vậy nó là sản phẩm của sự
tiến bộ. Nó đồng thời cũng cảnh cáo mọi sự bảo thủ, hám quyền và chuyên
quyền! Bước tiếp theo của chuyên quyền là độc quyền. Từ độc quyền đến
độc đoán, độc tài, quân phiệt… là một bước ngắn. Một học giả phương Tây
đã khái quát những xã hội chuyên chế rằng: “Một đất nước kỳ lạ khi nó
nhìn mọi sự thay đổi như một sự tấn công, mỗi biến chuyển như là một sự
giật lùi và mọi sự thích nghi như những cuộc đầu hàng” (theo nhà báo Gilles Delafon, trích trong cuốn Hello Earth).
Không một nhân dân nào chấp nhận sự chuyên chế và độc tài. Chuyên chế
và độc tài là kẻ thù của nền dân chủ. Phan Bội Châu đã từng nói: “Không
có dân thì đất đai không thể còn, chủ quyền không thể lập. Nhân dân còn
thì nước còn. Nhân dân mất thì nước mất. Muốn xem nhân dân còn mất thế
nào thì nhìn xem cái quyền của người dân còn mất thế nào?”.
Bình tâm nhìn lại, hôm nay người dân còn được quyền gì? Nhân dân có
trăm tai nghìn mắt, không nhà cầm quyền nào đánh tráo được giữa sự bạo
ngược và lòng nhân ái… Hồ Chí Minh đã từng lo sợ về một nhà nước mà ông
là người sáng lập: đất nước ấy, dân chủ là kẻ thù của nền chuyên chính
vô sản: “Các chú diễn giải hai tiếng dân chủ sao mà rắc rối, dài dòng
thế? Dân chủ thực ra có nghĩa là: Để cho dân được mở miệng. Dân chủ là
đừng bịt miệng dân”. Đúng, trong trường hợp này Hồ Chí Minh là một
thiên tài… Người tiên đoán chính xác sự bất bình thường của “đứa con” mà
mình “mang nặng đẻ đau”.
Và vì vậy hôm nay nếu có “diễn biến hoà bình” thì đấy chính là sự
chuyển hoá một cách ôn hoà trạng thái vô tổ chức, trên nói dưới không
nghe, tình trạng cát cứ có dấu hiệu phục hồi, tham nhũng, mua quan bán
chức… từ hiện tượng đang trở thành bản chất của chế độ, lòng tin của dân
với Đảng cầm quyền suy giảm đến mức báo động… thì sự chuyển biến ấy –
trước tiên là trong nội bộ đảng cầm quyền – chính là đại phúc cho nhân
dân, chứ có gì mà phải… sợ! Và dẫu anh có sợ cũng không được. Hãy gia cố
con đê trước khi nước tràn! Khi nước đã tràn thì có Thánh cũng chịu!
Ổn định và trì trệ
Cái dễ của nhà cầm quyền là vui vẻ, là hài lòng trước quyền lực của
mình ngày hôm nay, và mong xã hội ổn định mãi như ngày hôm nay để tiếp
tục giữ quyền lực. Cái khó của nhà cầm quyền là dám nghe những phản biện
và tự vượt lên chính mình ngày hôm nay để theo kịp sự chuyển hoá khách
quan của xã hội – sự chuyển hoá cần thiết cho sự tồn tại và phát triển
đất nước trong đó có mình và dòng họ mình. Điều ấy lý giải vì sao ngay
cả thời phong kiến nhà vua vẫn phải chấp nhận “Giám sát ngự sử” bên cạnh
mình. Thực tế chứng minh vương triều nào can đảm lắng nghe lời can
gián, những lời “nghịch nhĩ” điều chỉnh phương pháp trị dân của mình thì
xã hội lành mạnh hơn. Đấy mới là sự ổn định thực thông qua “diễn biến
hoà bình” chính tư duy mình. Không ít nhà lãnh đạo chủ chốt của cách
mạng Việt Nam chưa nhận thức đúng học thuyết Marx về ổn định đồng nghĩa
với trì trệ. “Thực chất cách mạng của phép biện chứng duy vật không
dung hoà với bất cứ sự trì trệ và bất động nào, làm cho phép duy vật trở
thành công cụ cải tạo thực tiễn xã hội, giúp tính toán một cách khách
quan tới những yêu cầu lịch sử của sự phát trển xã hội, tình trạng những
hình thức cũ không phù hợp với nội dung mới, sự cần thiết phải chuyển
đến những hình thức cao thúc đẩy sự tiến bộ của loài người” (Từ điển triết học. Hà Nội: Văn hóa Thông tin, 2002, tr 84)
Hãy nhìn sự ổn định của xã hội Việt Nam và các nước theo chúng ta là
không ổn định như Thái Lan, Nhật Bản… thì ai cũng dễ đồng tình xã hội
của họ vẫn phát triển vượt xa chúng ta nhiều, nhiều lắm.
Chúng ta đánh đổ phong kiến., chúng ta đánh đổ thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ đâu phải để xây dựng một xã hội ổn định theo kiểu không có phản
biện hay phản biện giả! (Phản biện giả là phản biện có sự lãnh đạo). Có
ai đó chê Hoàng đế Quang Trung là độc tài quân phiệt, nhưng tôi chưa
thấy tài liệu nào nói ông bắt giam, bỏ tù một ai mắc tội vu khoát. (Trong Chiếu cầu lời nói thẳng Quang Trung mong nhận được những lời nói thẳng, nói thực, không bắt tội vu khoát một ai).
Những nhà lãnh đạo hôm nay nên dũng cảm nhìn thẳng vào thực tế để
thấy phong kiến và đế quốc thối nát thực, nhưng chúng nó vẫn cho những
người yêu nước, những người cộng sản ra báo tư nhân, lập nhà xuất bản tư
nhân, dân được lập hội và biểu tình phản đối chúng nó… Năm 1925 Phan
Châu Trinh từ Pháp về Sài Gòn, và sau đó không lâu ông tổ chức diễn
thuyết lên án chính quyền… Năm 1925 cụ Phan có ít nhất hai lần diễn
thuyết ở Sài Gòn. Và ngày 26 tháng 3 năm 1926 ông qua đời, gần một nửa
dân Sài Gòn đi dự đám tang nhà yêu nước Phan Châu Trinh mà không ai bị
bắt bớ, tù đày. 96 năm sau ngày cụ Phan ra đi vĩnh viễn bác sĩ Huỳnh Tấn
Mẫm giữa thềm Nhà hát Lớn Sài Gòn lên án Trung Quốc xâm chiếm biển đảo
thuộc chủ quyền Việt Nam thì bị gây khó dễ… uỳn
“Diễn biến hoà bình” hoàn toàn không phải là kẻ thù địch nào cả mà sự
trì trệ trong chính quan niệm một số lãnh đạo của ta, là không có
phương sách chuyển hoá tư duy chính mình nhằm chuyển đổi xã hội phù hợp
quy luật khách quan hơn.
HLG
6-12-2012
Sửa lại 19-8-2016.
6-12-2012
Sửa lại 19-8-2016.